Đại tá Cox nói:
Anh hãy điện cho họ như thế này: Xin phép được đáp ở phi trường Luân đôn, toàn thể hành khách là hoàng cung - ký tên, chỉ huy trưởng Phi đội Nữ hoàng.
David hỏi:
Chúng ta xuống ba mươi ngàn bộ, được không Đại tá? Chúng ta đến gần rồi mà!
Frank Cox lưỡng lự. Trong ngành hàng không, việc đến gần một vùng có nhiều máy bay ban đêm phải được tuân thủ và những chỉ thị của đài kiểm soát không lưu phải được tôn trọng tuyệt đối, ai cũng phải biết điều đó. Tuy gật đầu nhưng vẫn không vừa ý:
Cứ hạ xuống ba mươi ngàn bộ nhưng nhớ giữ đường bay, ông ta nói.
David đến nói với Ryder đang cầm tay lái rồi trở lại bàn đồ thị ngay. Hai phút sau lại có tín hiệu trả lời:
Cho phép không, lập lại không, cấm hạ cánh xuống phi trường Luân đôn vì chưa rõ kinh nghiệm của phi hành đoàn Uùc. Bay tiếp đến phi trường Driffield và cho biết giờ đáp phỏng định.
David đỏ mặt giận dữ:
Tôi nghĩ từ này Đại tá nên đảm trách việc này. Anh ta nói.
Đây chỉ là một công việc được thổi phòng. Đại tá Cox bình tĩnh trả lời.
Có người nào đó ở ngoài muốn làm cho vụ này rắc rối thêm. Nghỉ một chốc ông ta nói tiếp: Hãy gửi văn bản này: Phi hành đoàn đã được huấn luyện đầy đủ về những thiết bị hạ cánh do công ty Hàng không Anh quốc đào tạo, đã đạt những tiêu chuẩn của công ty này. Yêu cầu được đáp xuống phi trường Luân đôn.
Hai sĩ quan ngồi ở bàn tọa độ, yên lặng chờ đợi trả lời. Chốc sau lại có văn bản:
Tên của phi hành đoàn không thấy xuất hiện trên danh sách bay hằng ngày. Cho phép không, lập lại không, ưu tiên đáp xuống Luân đôn bị hủy bỏ vì điều kiện thời tiết bắt buộc. Tiếp tục bay đến phi trường Driffield, cho biết giờ định hạ cánh.
Frank Cox nói:
Thay đổi đường bay đến Driffield, Nigger, cho họ biết giờ định hạ cánh.
Sĩ quan hoa tiêu yên lặng đi tới bàn tọa độ và bắt đầu đổi hướng bay, anh ta ra hiệu và hướng dẫn cho Ryder đang điều khiển tay lái. Sau đấy anh ta thay phiên cho Ryder và ngồi vào ghế cơ trưởng. Anh ta không còn nổi giận nữa, vì anh ta biết rằng đối với bản thân và ngay cả phi hành đoàn chẳng cần phải khiếu nại. Anh ta cũng biết rằng Bộ chỉ huy huấn luyện của Công ty Hàng không Anh quốc ở Hurn, trong việc kiểm tra, đã bảo đảm năng lực của toàn thể phi hành đoàn. Đây có lẽ là một việc trọng đại hơn thế. Đây cũng có thể là một hành động nhỏ nhen, vụn vặt, của một giới chức có tầm cỡ muốn nói với Nữ hoàng rằng:
À, nếu bà yêu cầu được bay với bọn thuộc địa, bà cũng nên chịu đựng vài sự khó chịu, phải không? Tại sao bà lại không để yên cho Liên hiệp Anh và tại sao lại không ở mãi trong nước Anh, có hơn không? David cũng thắc mắc tại sao Huân tước Coles lại có một đầu óc vụn vặt, nhỏ nhen như vậy?
Sau lưng David, Frank Cox đã lấy bức điện tín và cầm theo. David ở trong ghế nhìn với theo, qua cánh cửa mở vào buồng của Quận công anh ấy thấy Cox gõ cửa buồng Quận công. Anh ta mím chặt môi khi nghĩ đến cuộc đón tiếp Nữ hoàng trở về nước Anh như thế này đây và trở lại công việc với trái tim nặng trĩu. Chẳng có một chiến đấu cơ nào dàn chào Nữ hoàng, cũng chẳng có Thủ tướng đứng đợi trên đường băng để đón chào Nữ hoàng. Có một điều gì đó rất khác lạ.
Chàng bay thêm mười dặm cho gần tới Driffield, và cao độ hai ngàn năm trăm bộ, thì phi trường đã hiện ra trước mặt, phi đạo và phụ đạo đèn sáng lên. Driffield là căn cứ của không lực Hoàng gia, và David cứ thắc mắc là tại sao họ chọn nơi đây làm nơi hạ cánh, trừ phi đây chỉ cách ga xe lửa chính của York bốn mươi dặm và như thế giảm được tối đa sự nhọc mệt và bất lợi cho Nữ hoàng sau chuyến công du dài ngày. Anh ta cho Ceres bay một vòng nhỏ, cách hàng rào phi trường ba dặm là hạ cánh xuống phi đạo ngay, từ Canberra đến mất hai mươi mốt tiếng rưỡi.
Anh ta cho máy bay đổ lại trên đường băng nơi có một nhóm nhỏ sĩ quan đang đợi chờ bên hai chiếc xe hơi và anh cho máy bay tắc máy. David ra khỏi ghế bay, đội nón lên, sửa lại quân phục và đi thẳng đến phòng khách. Nữ hoàng vừa bước ra khỏi buồng riêng, quay lại nói với David:
Thành thật cám ơn cơ trưởng Anderson. Thật là một chuyến bay dễ chịu.
David trả lời:
Tôi rất tiếc phải đổi nơi hạ cánh, thưa ngài. Tôi nghĩ cũng làm ngài bận tâm. Chúng tôi hứa chắc chuyện này sẽ không xảy ra nữa lần tới!.
Nữ hoàng ôn tồn nói:
Đừng buồn lòng. Ta biết cơ trưởng cũng không thể làm gì hơn! Cám ơn cơ trưởng đã giúp ta một chuyến đi an toàn và thú vị. Nữ hoàng quay đi và rời máy bay.
David dừng lại bên ghế của Rosemary và giúp nàng mang chiếc túi xách, rồi đi theo nàng xuống đến đường băng. Trong đêm tối, cơn gió lạnh buốt từ Bắc hải thổi tốc vào hai người. Chàng nói:
Em sẽ về Luân Đôn với Nữ hoàng chứ?
Có lẽ vậy, anh Nigger ạ! Nàng trả lời: Em nghĩ là họ sẽ cho xe đưa tới York cho kịp chuyến tàu lửa mười giờ hai mươi. Anh sẽ làm gì?
Anh sẽ ở lại giữ máy bay. Chàng trả lời: Ngày mai anh sẽ bay về White Waltham nếu còn được phép bay ở nước Anh.
Nàng buồn buồn nói:
Giá em đến được với anh. Đến được ga King’s Cross chắc cũng phải ba giờ sáng.
Chàng phải rời nàng ngay để còn sắp xếp cho phi hành đoàn đưa máy bay vào nhà chứa máy bay. Chàng ở lại với anh em cho đến khi máy kéo đưa chiếc Ceres vào chỗ trú và đóng cửa lại. Rồi chàng đi vào nhà ăn sĩ quan của không lực Hoàng gia. Chàng thấy Nữ hoàng và Quận công đang dùng bữa tối trong tư thất của Tư lệnh không quân Hoàng gia. Đám tùy tùng còn lại dùng bữa trong nhà ăn sĩ quan. Đoàn xe chuyên chở cả phái đoàn đến ga York đã được ấn định lúc tám giờ bốn mươi lăm.
David cũng nói được vài lời với Frank Cox trước khi ông ta đi Luân đôn với đoàn tùy tùng. Đại tá nói:
Tôi sẽ điện thoại cho anh vào sáng mai. Có lẽ cũng phải đến mười một giờ, ngay khi đã sắp xếp ổn thỏa cho chuyến bay của anh về White Waltham.
David hỏi ngay:
White Waltham còn mở cửa cho chúng ta chứ, Đại tá.
Tôi đâu có nghe là không mở cửa. Thế anh có biết chuyện gì à?
Không. Tôi chỉ lo thôi.
Tôi nghĩ mọi việc sẽ êm đẹp. Anh cũng đừng nên quá lo làm gì, Nigger ạ. Đấy chỉ là điều bực mình nhỏ nhặt. Chẳng làm gì được anh và phi hành đoàn của anh đâu. Nếu họ thật sự không biết, họ sẽ tìm ra tất cả khi hỏi công ty hàng không Anh quốc. Ông ta dừng lại một chút rồi nói tiếp:
Không, có điều gì hơi khác lạ, nhưng lại là việc của Nữ hoàng. Nếu tôi là anh, tôi sẽ quên đi tất cả.
Cũng phải lâu lắm tôi mới quên được. Viên phi công buồn buồn nói:
Ngài là Nữ hoàng của tôi mà cũng là của anh. Tôi chẳng phải là thằng mất gốc chết tiệt đâu!
Đại tá nhìn David hơi sửng sốt:
Đấy cũng là một quan điểm mà tôi chưa nghĩ tới.
David nói:
Cũng đã đến lúc có người nghĩ tới rồi! Nữ hoàng giờ đây đã mệt đừ, thế mà có thằng lai căn mất gốc nào lại bắt Ngài phải đi thêm sáu giờ đồng hồ nữa, vừa xe vừa tàu, giữa đêm khuya, chẳng nghĩa lý gì cả. Tôi chẳng thích như thế. Cao ủy của chúng tôi cũng chẳng thích như thế. Và Canberra cũng chẳng ưa gì khi nghe câu chuyện đã xảy ra.
Im lặng một lúc, rồi Đại tá không đoàn trưởng nhìn lên, mỉm cười nói:
Thật khó nhỉ?
Anh chàng người Uùc nói:
Anh nói đúng, khó thật. Không phải tất cả những thằng mất gốc đều là quân chết tiệt. Tôi nói như thế chỉ là một hình ảnh của ngôn từ.
Phần lớn dân Uùc cũng là dân lai căn mà! Đại tá Cox nói: Vậy chỉ nên nói bọn chết tiệt đáng phỉ nhổ mà thôi.
Hai người cùng cười bên ly cà phê.
Ngày tiếp theo, David lái chiếc Tare đáp xuống phi trường White Waltham. Anh ta cũng thấy Dewar với chiếc Sugar ở đấy, có hơi ghen tức với phi hành đoàn vì được bay vòng quanh thế giới nhưng cũng lo lắng khi nghe câu chuyện xảy ra như thế. David đã nói chuyện qua điện thoại với Frank Cox và được lệnh là chiếc Tare phải chờ đợi một cuộc kiểm tra chuyên môn do các nhà sáng chế trong vòng ba ngày, công việc này cũng do hãng chế tạo điều hành. Hôm sau, David bay máy bay về Hatfrield vào buổi sáng và giao máy bay cho xưởng de Havilland và trở về White Waltham bằng đường bộ.