Nữ hoàng chào họ và đi bộ lên cầu thang, Frank Cox hộ tống Nữ hoàng lên máy bay. Quận công dừng lại một lúc để nói chuyện với David :
Những sĩ quan và thủy thủ Hải quân từ đâu đến ?
Họ đến từ Hải vận hạm Hoàng gia Úc Gona, thưa ngài. Chiếc Gona hiện neo tại Portsmouth.
Làm sao anh có được?
Tôi xin Phó Đô đốc O’Keefe yểm trợ. Họ đã ở đây được nửa tháng.
Họ toàn là người Úc, phải không ?
Dạ phải.
Có lẽ đấy là việc làm khôn ngoan. Cám ơn Chỉ huy trưởng Anderson.
Ông ta bước lên mấy bậc cấp để vào máy bay, David đi theo ông ta. Jim Hansen, tiếp viên hàng không, đóng cửa lại và David tiến thẳng đến buồng lái bên cạnh Ryder. Frank Cox cũng lên buồng lái sau đó một phút :
Cất cánh theo giờ của anh, nghe David.
David gật đầu và khởi động các động cơ.
Mười phút sau họ cho máy bay lên cao, theo hướng đông nam, trên đường đến đảo Síp. Họ bay qua nhiều tầng mây trong bóng đêm, cuối cùng máy bay bắt đầu vào bầu trời trong sáng, đầy ánh trăng ở độ cao chừng hai mươi hai ngàn bộ trên miền Bắc nước Pháp. Cơ trưởng ngồi bất động ở tay lái khi máy bay càng lên cao, vẫn cảm thấy âu lo, bồn chồn trong dạ và cảm giác đang lâm nguy vẫn đè nặng trong tâm hồn. Chàng chỉ lai một phần tư thổ dân Châu Úc, chẳng phải giòng giống Âu Châu hoàn toàn và trong một vài lĩnh vực, quan niệm và độ nhạy mạnh hơn những người đàn ông bình thường, điều này có thể giải thích cho sự ưu tú của chàng trong việc phi hành, chiếm kỷ lục an toàn. Thế mà tối nay, ngồi trước tay lái với nỗi âu lo càng lớn dần từng phút, và khi máy bay đạt đến độ cao phi hành và giữ mức độ bay bình thường, đâu đây hình như là vùng lân cận của hồ Constance, chàng trao tay lái cho Ryder và đi về phía sau.
Trên sàn máy bay mọi vật đều bình thường. Chàng dừng lại bên bàn đồ họa của kỹ sư cơ khí, nhìn vào từng thiết bị và đọc sổ phi hành rất kỹ. Chẳng có gì đáng nghi ngờ ở đấy cả. Chàng ngồi xuống bên cạnh chuyên viên vô tuyến và nhìn lướt qua sổ điện thoại, rồi lại chăm chú nhìn vào những dấu hiệu màu xanh trên đèn cực âm điện tử và kiểm tra vị trí trên máy Decca. Chẳng có gì nghi ngờ ở đấy cả. Chàng đi qua khoang giữa máy bay và từ từ đi dọc xuống, tìm kiếm thử có cửa sổ nào bị rạn nứt làm giảm áp suất hay có thể gây hỏa hoạn, nhưng mọi vật đều qui cũ. Hai người tiếp viên nam nữ đang phục vụ ăn tối, Nữ hoàng đang ở trong khoang riêng của ngài và cửa đóng. Chàng chận cô Gillian Foster và ra dấu về phía cửa ấy :
Trong ấy bình an cả chứ ?
Cô gái trả lời :
Bình an cả, thưa ông.
Ngài dùng tối rồi ?
Thưa ông, vâng.
Có ăn được không ?
À, vâng. Ngài ăn gần hết, ngài còn uống một ly rượu vang nữa.
Chàng tiếp tục đi xuống đến cầu thang ở giữa hai dãy ghế. Rosemary nhìn thấy chàng và mỉm cười, nhưng chàng hầu như không thấy nàng. Có cái gì đấy, ở đâu đấy, có vẻ không ổn. Mắt chàng lùng sục khắp nơi, nào quạt khói, then cài cửa, nào nệm ở dưới sàn máy bay. Chàng dừng lại, đánh hơi xem thử có mùi dầu lửa không, nhưng chỉ có mùi thơm nấu ăn.
Jim Hosen đứng trong bếp nói vọng ra :
Ở đây mọi thứ đều ổn.
Cơ trưởng cho phép em dùng lò lớn hơn nhé ? – Người đàn ông ấy nói – Phục vụ một bữa ăn tối nóng sốt với một đĩa lớn và một cái lò chắc không dễ đâu ! Theo em, ta nên kiếm một cái lò lớn hơn mà dùng.
David lơ đãng trả lời và tiếp tục đi. Hai chỗ ngồi đi vệ sinh đang sạch, chàng nhìn vào từng cái một, chẳng có gì trong ấy cả. Chàng tiếp tục đi về phía sau, vào ngăn hành lý và đứng nhìn những vali chồng chất trong khoang chứa, được buộc kỹ bằng những đai nịt. Mọi thứ trông có vẻ trật tự nhưng có cái gì đó không ổn.
Hành lý là thứ chàng không kiểm tra và không ai lại đi kiểm tra hành lý của chính mỗi nhân viên phi hành. Chàng chẳng được nghỉ ngơi, chàng cũng biết thế, cho đến khi nào thấy thoải mái vì mọi thứ đã ổn định. Chàng rút từ túi áo trong ra một cuốn sổ tay và đi về phía buồng lái một lần nữa, đến bên Ryder hỏi :
Anh mang bao nhiêu hành lý lên tàu, Harry ?
Hai vali và một túi, sao anh hỏi vậy ?
Chỉ để kiểm tra thôi. Anh có dán bảng tên lên đấy chứ ?
Vali thì có. Túi dết tôi để lên trên hết, kìa !
Chàng lại tiếp tục đi từ mũi đến lái, điểm danh mọi người trên máy bay với hành lý của họ. Chàng không dám quấy rầy Nữ hoàng và Quận công, nhưng chàng hỏi các loại hành lý ấy từ các người hầu gái và nô tì. Khi chàng tiến đến bên Frank Cox, ông ta hỏi liền :
Có chuyện gì thế, Nigger ?
Chàng phi công trả lời :
Tôi muốn đếm tất cả hành lý lại. Tôi thấy chuyến bay này làm tôi khó chịu quá ! Tôi bị căng thẳng quá sức !
Frank Cox liếc nhìn chàng và đứng dậy khỏi ghế. Chỉ còn lại nam tiếp viên và nữ tiếp viên là có vấn đề và David trở lại khoan chở hành lý một lần nữa. Chàng nói với nam tiếp viên :
Giúp tôi một chút đi anh. Tôi muốn kiểm tra những vali ngoài danh sách này.
Đại tá Không đoàn trưởng đi theo hai người vào khoan hành lý và ba người bắt đầu mở và phân loại hành lý.
Mười lăm phút sau họ đi đến một kết luận không giống nhau. Có bốn vali đề tên E.C. Mitchinson thay vì ba trên danh sách.
Jim Hasen vui vẻ nói :
Chắc là bác sĩ nhầm đấy. Ông đem bốn cái mà khai có ba.
Viên phi công nói :
Đi nhanh lên và mời ông ta xuống đây để ông ta xác nhận.
Khi bác sĩ đến, David hỏi :
Kia có phải là bốn vali của ông không ?
Bác sĩ trả lời :
Cái kia không phải của tôi, cái màu xanh ấy ! Còn lại ba cái là của tôi.
Nhưng đều có tên của ông trên đó mà ! – Họ chỉ cho bác sĩ xem bảng tên.
Bác sĩ cương quyết nói :
Tôi cam đoan không phải là của tôi. Tôi chỉ đem theo ba cái thôi. Tôi chưa bao giờ thấy cái vali thứ tư này.
David nhắc vali lên, đặt nó trên sàn cầu thang và cúi xuống quan sát. Vali còn khóa. Chàng suy nghĩ một chút rồi đi vào khoang trong. Ngay trên cửa máy bay là một đoạn thép có đầu dẹp, đây là dụng cụ để mở vali bị kẹt. Thanh thép sơn đỏ, người ta để đấy mục đích là để mở cửa từ phía trong nếu bị khóa chặt vào khung cửa, khi bị méo mó vì va chạm mạnh.