3.
Thằng Xăm từ từ mở hé mắt...
Hắn thấy bả vai trái đau ê ẩm dưới lớp băng. Hồi nãy hai viên đạn tôm-xông đã ghim vào đấy. Nhưng hai viên đạn đó chưa giết chết hắn. Bây giờ hắn tỉnh lại dần. Nằm trong lều vải, hắn nhớ lại sự việc vừa xảy đến. Cái khuôn mặt của tên Việt cộng nhú lên sau mô đá đã nổ súng vào hắn hình như là hắn đã gặp ở đâu rồi. Nhưng hắn không nhớ rõ. Làm sao hắn có thể nhớ hết được hàng trăm người mà hắn hoặc đã giết hụt. Tuy nhiên hắn ngờ ngợ ké bắn hắn là một trong số người đã từng giáp mặt với hắn mà hắn đã để sẩy. Đây là lần đầu tiên hắn bị bắn, phải bỏ cuộc. Hắn nghĩ bụng: "Đáng lẽ mình phải bóp cò trước nó".
Một tên chuẩn úy y tá trưởng đeo kính cận ngồi nhổm bên cạnh hắn, bảo:
- Vết thương của trung úy không sao đâu
- Không sao hả?
- Không... Nhưng có thể hơi lâu lành...
Xăm không hỏi nữa. Hắn đưa tay lên ngực, rờ rẫm cái hình mặt chằn có nanh ngà, mê muội nghĩ rằng nếu không có cái mặt chằn ấy, chắc đâu hắn còn sống. Lâu lắm rồi hắn m1i trở lại Hòn Đất, mà lần náy hắn lại bị đánh trả dữ dội. Đó là điều hắn không ngờ. Qua cái bãi chông ban sáng và hai lần thọc vào hang đều bị đánh giạt ra, hắn thấy Hòn Đất hôm nay có cái gì không giống với Hòn Đất thuở hắn còn làm xếp bót. Hắn ngạc nhiên và tức giận lồng lộn. Hắn nghĩ: "Không thể như thế được đâu, tao sẽ bắn nát đầu tụi bây". Hắn liếc nhìn vết thương rồi đột ngột hỏi tên y tá trưởng.
- Đã bắt đầu đánh vô hang nữa chưa?
- Thưa anh Hai chưa?
- Sao không đánh
- Chưa có lệnh của Bộ chì huy
Xăm vụt nhổm dậy, nghiến răng trèo trẹo:
- Đ.mẹ, gần một ngàn thằng mà không vô hang được, kể tụi nó bắn mình cứ té sụm sụm, tức muốn ói máu.
- Thưa anh Hai, tụi nó nấp trong hang đó có thế lắm!
Xăm nín lặng. Hắn thấy tên chuẩn úy y tá trưởng đó nói đúng. Thật, đánh vô cái hang có đâu phải dễ thì chính việc hắn bị thương nằm đây đã nói rõ điều đó.
- Hồi trưa có mấy ông cố vấn Mỹ đi trực thăng xuống. Nghe đâu mấy ổng cho lệnh cứ vây siết, thì tụi nó thế nào cũng chết đói chết khát. Tôi cũng mới được lệnh của mấy ông biểu bỏ thuốc độc xuống suối...
Tên Xăm nghe nói, giật mình nhổm dậy, hỏi lại:
- Bỏ thuốc độc à
Tên y tá gật đầu, Xăm lo lắng ra mặt. Hắn nói:
- Rồi nước đâu mình uống? Dân trên Hòn không biết, uống chết hết còn gì?
- Ngăn suối lại. Bỏ thuốc độc ở khúc gần hang thôi!
Thằng Xăm ngả đầu xuống. Hắn nghĩ tới mẹ hắn và Cà Mỵ. Hồi sáng, khi kéo quân đến, hắn có ghé qua nhà. Mẹ hắn hỏi hắn với giọng không hằn học, mà cóvẻ hơi mừng là khác. Thành ra hắn đâm vui. Bây giờ, hắn chợt nảy ra cái ý nghĩ giá hắn được về nằm ở nhà thì chắc sướng hơn nằm trong cái lều oi bức này. Hắn liền nói với tên y tá:
- Tao muốn về nhà bà già tao nằm quá!
Tên này lắc đầu:
- Không được, anh Hai nằm ở đây để làm thuốc chớ. Chừng nào vết thương của anh Hai lành miệng thì c về.
- Nhằm vài ngày nữa lành miệng chưa?
- Vài ngày nữa thì chắc khá!
Tên Xăm nằm im, không nói chuyện nữa.
Xung quanh hắn vẫn dậy lên những tiếng ồn ào. Bọn lính đang ăn cơm. Vòng vây của chúng bao quanh hang có tới hai lớp. Lớp ở gần hang và một lớp ở gần xóm. Vào giờ này, bọn lính ở xóm la cà thả rểu vào các nhà dân.
Một toán lính bảo an đến quán thím Ba ú ngồi nói chuyện om sòm. Thím ý tay không rời được cái cóng đong rượu. Hôm nay, thím tỏ ra một người chủ quán vui tính hết sức. Thím gọi bọn lính bằng cậu, nói chuyện với chúng ngọt xớt:
- Mấy cậu đi như vầy mỗi tháng được lãnh mấy ngàn?
- Mấy ngàn? Một ngàn tám chớ mấy! Thím coi nhắm bấy nhiêu đó có đủ đút lỗ miệng không?
Thím Ba ú liền trố mắt, vẻ ngạc nhiên:
- Một ngàn tám à, bộ mấy cậu nói giỡn sao chớ?
Một ngàn tám làm sao sống! Vậy vợ con chắc có lãnh riêng?
- Lãnh riêng cho mà ham. Nội vụ chỉ có bấy nhiêu đó thôi, bà ơi!
Thím Ba ú liền buông xuôi hai tay lên bắp vế, chặc lưỡi:
- Vậy mà lâu nay tôi cứ ngỡ mấy cậu ăn lương tệ gì cũng cỡ ba ngàn sắp lên!
Bọn lính đều cười về sự hiểu lầm của thím Ba. Một người hạ sĩ trạc tuổi băm lăm, mặt mày đen đúa, tóc bờm xờm trổ tới mang tai, uống hết ly rượu, chép miệng ngó thím Ba:
- Thím làm như tụi Mỹ nó không biết tiếc tiền.
- Nghe nói Mỹ nó giàu lắm mà?
- Thì tụi nó giàu chớ... Bởi giàu nên nó mới bỏ tiền ra mướn tụi tôi đi đây. Nhưng nó dại gì mướn giá cao. Chỉ có tụi tôi là dại...
Người hạ sĩ nói tới đó chợt dừng lại đưa bàn tay luồn vào mớ tóc bờm xờm của mình, vẻ mặt coi mòi chán ngán và rầu rĩ lắm, thím Ba ú hỏi y:
- Xin lỗi, cậu người xứ nào?
- Tôi gốc gác ở Mặc Cần Dưng!
Thím Ba ú sững sờ:
- ủa, té ra cậu ở Mạc Cần Dưng, tức làng Bình Hòa?
- Phải thím biết xứ đó sao?
- Trời đất, hồi chưa giặc giã, tôi lên đó làm mắm hoài mà!
Rồi thím Ba nói tiếp, vẻ hồ hởi:
- Cha chả... cái xứ gì mà tới mùa cá dại nổi đặc sống! Ai muốn xúc bây nhiêu thì xúc. Thiệt ham làm sao. Các lóc, cá trèn, cá lìm kìm, đủ hết, mạnh ai nấy bắt... Còn ruộng lúa sạ ở đó trúng đổ đồng cứ một công hai chục giạ cầm chắc!
Người hạ sĩ nhổm tới, nhìn thím Ba ú trân trân:
- ủa, coi bộ thím này biết xứ tôi rành dữ ha?
- Tưởng ở đâu, chớ Mặc Cần Dưng thì sao tôi không biết? ở đây đi Mặc Cần Dưng cũng gần xệu thôi, cậu à!
Bọn lính chẳng chú ý gì về cái làng mang tên Khơ-Me xa lắc xa lơ đó. Chúng uống rượu, trả tiền rồi vác súng đi lệt bệt về chỗ đóng quân. Chỉ còn người hạ sĩ đen đúa kia ngồi lại. Đôi mắt của y giờ đỏ hoe. Ngồi xốm gối trên bộ ván giữa tiệm, y cười coi như mếu, rồi lấy mu bàn tay vụng về chùi mấy giọt rượu giây trên bộ râu lún phún chưa cạo.
Thím Ba ú hỏi:
- Cậu uống nữa thôi?
Hai tay y vội chắp cái ly đưa tới.
- Cho tôi một ly nữa.
Thím Ba ú múc rượu trong hũ, rót đầy tràn cái ly người hạ sĩ đang cầm:
- Hồi ở Mặc Cần Dưng, cậu sanh sống nghề chi?
- Tôi mầm ruộng. Tháng trước thỉ dăng câu đặt lờ.
- Cậu đi lính lâu chưa?
- Hai năm rồi.
Thím Ba ú vảnh bàn tay chặn nhẹ ống tay áo của người hạ sĩ:
- Khoan cậu đợi chút xíu, để tôi đi nướng con mực cho cậu nhậu!
Nói đoạn, thím mau mắn với tay lên túm mực treo bán, rút lấy một con. Rồi cầm con mực, thím lạch bạch đi vào bếp. Người hạ sĩ để ly rượu xuống, ngồi đợi. Coi bộ y cảm động. Khi mùi mực nướng trong bếp tỏa lên thơm tho y hít hít cánh mũi:
- Cha... mực thơm quá!
Thím Ba ú trở ra, tay kẹp chiếc đĩa nhôm đựng con mực nướng. Trong đĩa còn có một cái chén nhỏ. Thím trỏ cái chén nói:
- Có chén dấm ớt đây, cậu chấm mà ăn!
- Da...
Người hạ sĩ cầm con mực, dứt mấy cái râu bỏ vô chén dấm, rồi lấy hai ngón tay kẹp vớt ra, thong thả đưa lên miệng nhai. Thím Ba ngồi khoanh tay rế nơi góc ván nhìn người hạ sĩ uống rượu. Chợt thím hỏi:
- Sao cậu không ở nhà mầm ruộng, đi lính chi cho cực?
Người hạ sĩ cầm để ly rượu xuống, lặng thinh, gãi gãi đầu. Một lát say y mới nói:
- Tại tôi ngu. Tôi ngu quá. Mà không phải chỉ có một mình tôi...
- Đi đây có cậu nào cùng xứ sở với cậu không?
- Có bốn năm đứa... Tụi nó không ở tại Mặc Cần Dưng nhưng cũng ở cận đó. Thằng thì ở Vĩnh Hanh, thằng thì ở Năng Gù...
- à xin lỗi cậu, nói chuyện nãy giờ mà tôi sơ ý quên không hỏi thăm cậu thứ mấy chớ?
- Dạ tôi tên Cơ, thứ chín.
Thím Ba ú gật đầu. Rồi thím nói, vẻ sợ sệt:
- Hồi sáng tới giờ "đụng" trong hang Hòn dữ quá, không biết ra sao? Nghe súng bắn điếc đai.
Hạ sĩ Cơ bảo:
- ồ tụi biệt kích đột vô hang đó, mà đều bị đánh chạy dột ra hết rồi. Mấy ổng ở trỏng bộ đông lắm hay sao mà chống cự gắt mấu. Hồi sáng tới giờ "liểm" tụi tôi gần hai chục thằng rồi!
- Tôi thấy bao nhiêu võng ở trong xóm đều bị lấy hết
- Thì để khiêng tụi bị thương mà...
Hạ sĩ Cơ cầm ly rượu nhóng tới, hỏi ngỏ:
- Nè, thím nói thiệt cho tôi biết, mất ổng rút vô trong hang có đông không thím?
- Tôi đâu có biết mấy ổng đông hay ít!
Hạ sĩ Cơ buông ly rượu, nét mặt rầu rầu:
- Thím mà không biết... Thím nói để tụi tôi còn biết mà lánh né. Đây rồi thế nào cũng tới lượt tụi tôi phải vô hang. Thiệt là ngán. Coi bộ mấy ổng trong hang quyết tử quá xá!
Thím Ba ú đập khẽ bàn tay xuống gối nghe cái "chách":
- Chớ không quyết tử? Tôi hỏi cậu, giả tỷ cậu bị người ta đè xuống cắt cổ, cậu muốn sống thì phải làm sao? ít ra cậu phải lừa thế chụp dao hoặc bóp họng cái người lính cắt cổ cậu, rồi phóc chạy, thì mới sống được, chớ cậu nằm im ắt cậu phải chết... Mấy ổng cũng vậy đó, cậu à!
Hạ sĩ Cờ gật đầu:
- ồ, con trùng đạp riết nó cũng phải oằn, huống chi là mấy ổng. Y dừng lại giây lâu, rồi tiếp:
- Nói thiệt với thím, tôi không ham đụng độ với mấy ổng đâu. Tôi muốn về nhà mầm ruộng, dăng câu đặt trúm bắt lươn bắt cá nhậu chơi khỏe hơn. Chắc thím biết kinh Hội đồng?... Vợ tôi nó ở đó dệt chiếu nuôi con. Tội nghiệp...
- Đó, đó!- Thím Ba ú kêu lên: - Rốt cuộc người đờn bà cũng chịu cảnh khổ, cậu thấy chưa? Tôi khen cho cậu đành lòng bỏ vợ con mà đi. Kể cậu cũng là người lòng gang dạ đá!
Hạ sĩ Cơ nghe nói đưa tay rờ rẫm bứt bứt cổ áo:
- Trời ơi, thím Ba, thím Ba... Tôi khổ lắm, thím Ba à! Y kêu lên rồi bỏ ly rượu, bước xuống đất, lê đôi giày bố có mắt cá đi xềnh xệch tới bên cây cột. Đứng dựa cột, người hạ sĩ ngó mông qua miệt Vàm Răng. Y ngó qua những cánh đồng nâu nhạt trải dài tới ven cây xanh mù. Và núi Ba Thê tim tím, vòi või ở trước mặt làm bụng dạ y chết điếng. Mãi một lúc lâu, y mới trở vào khoác cây súng trường mát, móc túi áo gom nhóp mấy đồng bạc lẻ:
- Thím tính bao nhiêu tôi trả.
Thím Ba lắc đầu:
- Thôi, chút đỉnh mà tiền bạc gì cậu!
Hạ sĩ Cơ ấp úng:
- Không, để tôi trả, để tôi trả mà!
- Tôi nói là tôi không lấy... Gặp cậu, tôi coi như người bổn sở...
Hạ sĩ Cơ nói:
- Vậy tôi cám ơn thím... Thôi tôi cề, nghe thím!
Trên đường về chỗ đóng quân, lòng hạ sĩ Cơ thấy vui vui khi nghĩ tới thím Ba ú, người đàn bà chủ tiệm béo mập mà tốt bụng. Và nhất là thím ta lại biết rất rõ xứ quê của y. Trời ơi, thím ta nhắc làm chi mùa cá, nhắc làm chi đồng ruộng khiến lòng y bồi hồi quặn thắt. Y nhớ ngày nào y đánh cộ trâu chở lúa mướn. Cộ trâu chạy băng băng trên đồng lúa mới gặt. Đó đây, các trại ruộng nổi khói cơm chiều. Rồi mùi thơm của những nồi cơm gạo mới, mùi cá lóc nướng trui khen khét. Lũ con nít đi bứt hôi cá đìa, đi mót lúa thấy y đánh cộ ngang đều chạy ùa theo kêu cho chúng đi ké. Thiệt là vui làm sao! ấy, cũng vào cái dạo tháng chạp này đây. Mùa tát đìa nối đuôi mùa gặt. Y nhớ khôn xiết cái cảnh ngày chạng vạng trong đồng. Sau bữa cơm mắm kho bông súng ngon lành, cái trại ruộng đốt đống un lên, sửa soạn cà lan đạp lúa tối. Và y cầm cây mó sẩy xốc lúa cho trâu kéo trục đạp qua. Tụi đàn bà con gái dê lúa gần đó cười nói vang rân. Rồi trăng lên. Y vẫn vừa tiếp tục xốc lúa, vừa nói cà rỡn với mấy đứa con gái dê lúa bên cạnh.
... Cái đời y cũng đã có lúc vui vẻ thảnh thơi như thế. Lúc kháng chiến, y cũng vô du kích đánh Tây. Hòa bình y cưới vợ, rồi cờ bạc. Y cờ bạc riết mà xa đồng ruộng, bỏ bê vợ con, bỏ cả cái lợp cái lờ để vô lính dân vệ. Từ dân vệ y trở thành lính bảo an không mấy chốc. Ban đầu còn đóng ở Long Xuyên, sau lên Rạch Giá. Y đi lính lâu mà không lên khỏi cái chức hạ sĩ, vì y không dám giết người như những tên lính khác. May thay, cái gốc của ruộng đồng còn giữ y lại ở mức người lính đánh thuê. Nhiều trận càn, tụi lính cứ đạp bừa lên mạ, nhưng y lại đi tránh lối khác, vì chính y đã có lúc gieo cây mạ đó. Cũng như chưa lúc nào y dám cầm súng nhắm một con trâu mà bắn.
Đến Hòn Đất này, y là một trong số những người lính chẳng thiết tha gì sự đánh chác. Lúc lên đường hành quân, y chỉ mong sớm sớm trở về. Khi thấy chỉ có một buổi sáng mà lính đã chết và bị thương ba bốn chục, y ghê quá. Y đâu lạ gì những người du kích. Y hay ngẫm nghĩ nếu y vót chông cặm ruộng thì cây chông của y cũng sẽ đâm chết bất cứ thằng nào xông qua ruộng y như vậy.
Cái khoảng cách biệt, cái rãnh ngăn đôi giữa hạ sĩ Cơ và những người mà bọn giặc gọi là "Việt Cộng" buộc y phải đánh đó, không có gì là sâu xa cả. Y cầm súng bắn vào họ không đành. Ngón tay y bóp cò súng không quả quyết chi hết.
Y thấy người du kích đó giống hệt như y, vì hầu hết họ cũng đều là dân làm ruộng, dăng câu đặt trúm, như y vậy.
Nghe nói cuộc bao vây này có thể kéo dài, y đâm lo. Trên đường đi từ quán thím Ba ú ở về tiểu đội, hạ sĩ Cơ tâm trí cứ để đâu ở miệt làng cũ. Và cái câu thím Ba ú nói "từ đây đi Mặc Cần Dưng gần xệu" cứ gợi đến cho y một ý định táo bạo.
4.
Cho tới chiều, không có một cuộc xô xát nào xảy ra. Người ta không nghe tiếng súng nổ dữ dội như ban sáng và trưa. Chỉ có tiếng súng của bọn giặc bắn trâu nổ lẻ tẻ ở ven đồng. Những con trâu bị bắn khuỵu giữa ruộng, rống dài. Khắp Hòn Đất ai cũng nghe tiếng rống thảm thiết của những con vật hiền lành ấy. Bấy giờ nắng bắt đầu nhòa đi trong vườn lá. Và khi gió biển mới thổi về Hòn mỗi lúc một nhiều hơn thì từ rặng Thất Sơn xanh mù kia thấy chớp trắng những cánh cò.
Chiều nào cũng vậy, vào lối này, đàn bò lại trở về. Sau một ngày đi kiếm ăn ở chốn xa, những con cò bay về Hòn Đất, nơi có không biết bao nhiêu cái tổ rơ, vắt vẻo trên đọt xoài, nơi chúng sống từ đời này đến đời khác. Đàn cò cứ mỗi lúc một hiện rõ, với những đôi cánh hình dấu ớ. Và sau lưng chúng sắc núi đã chuyển từ màu xanh lam sang màu tím ngắt thì đã có thể đếm được từng con cò bay vẫy, la lả. Nhưng chiều hôm nay đàn cò đầu tiên về tới vừa xuống vườn xoài Hòn Đất thì chúng xao xác vụt bay lên hết cả. Súng từ bên dưới bắn lên "bóc bùm, bóc bùm". Trong buổi chiều tà, có mấy con cò bị trúng đạn, xoạc đôi cánh trắng, từ không trung rơi thẳng xuống. Nhưng con cò sau sắp hạ cánh đều kinh hãi kêu ré, cất lên. Chúng liệng nhiều vòng trên cao rồi cuối cùng chớp chớp bay về phía Hòn Me.
Mẹ Sáu đứng nơi bậc thang nhà nhìn thấy đàn cò không hạ cánh xuống vườn được, lòng mẹ đau như cắt. Mẹ ngồi bệt xuống bậc thang, ngó về phía hang Hòn bị cây cối che phủ. Bụng dạ mẹ càng thêm lo bấn. Hồi sáng tới giờ mẹ có làm được công việc gì đâu. Hết chạy vào lại chạy ra. Bỗng dưng bây giờ cái nhà chỉ còn trơ lại có mỗi mình mẹ. Hai chị em Quyên, Sứ vào hang thì đã đành, đến như con bé Thúy nó vào trong đó làm chi, để mẹ đã lo lại càng lo thêm. Hồi sáng, khi bọn giặc vào tới xóm, thằng Xăm đã ghé vào nhà mẹ sục kiếm. Nó hỏi: - "Hai đứa con gái nhà bà đâu". Mẹ đáp - "Thấy mấy ông vô, tụi nó sợ chạy đâu tôi cũng không biết!" Bọn giặc nói: - "Trốn vô hang hết rồi chứ gì, tưởng tụi tôi không biết hả? Cho bà hay, chuyến này tụi tôi tiêu diệt hết Việt cộng ở đây rồi đóng bót luôn chớ không phải như lần trước đâu. Tưởng trốn vô hang là êm sao. Tụi tôi đánh vô, bắt được đứa nào mổ bụng đứa nấy cho coi!". Chúng nói thế rồi bỏ đi. Một lát sau, súng lớn ngoài tàu bắn lên Hòn nổ rung rinh nhà cửa. Mẹ Sáu phải xuống hầm núp. Dứt trận súng lớn rồi, mẹ vừa chui lên thì lại nghe súng to súng nhỏ rộ lên phía hang Hòn. Mẹ bắc thang leo lên dòm qua mái hà sau, thấy cây cối ở hang Hòn bị đạn chém sả, như có bàn tay vô hình đang phát cho các nhanh mãng cầu, nhánh xoài rụng xuống một cách không thương tiếc. Kế mẹ nghe súng từ trong hang Hòn bắn ra. Tiếng lựu đạn nổ ầm ầm. Chị Hai Thép bồng con từ đằng nhà chạy đến, kêu:
- Má sáu sơi!
Chị hai Thép chạy rầm rầm vô nhà. Không thấy mẹ Sáu đâu. Chị hốt hoảng kêu;
- Má Sáu, má Sáu!
- Tao đây nè!
Mẹ Sáu ở trên mái nhà nói. Chị Hai Thép ngước lên hỏi:
- Má lên trên đó coi đó hả? Có ngó thấy gì không?
- Đâu có thấy gì. Chỉ thấy nhánh cây ngã liệt.
Mẹ Sáu hai tay vịn thang, bước xuống. Mẹ nắm tay chị Hai Thép, nói tiếng được tiếng không:
- Đánh rồi, nó đánh vô hang rồi, vợ Hai Thép à!... Trời ơi, không biết trong đó anh em chống cự ra làm sao. Tao lo cho mấy đứa nó quá. Súng ống đâu có bao nhiêu...
Chị Hai Thép đặt thằng nhỏ ba tháng xuống ván, đứng im, lắng tai. Chị nói:
- Má nghe không, lính nó la gì dữ quá!
Mẹ Sáu cũng lắng tai cố nghe, nhưng tai mẹ không nghe được tiếng la ở xa vẵng tới. Chị Hai Thép hạ giọng:
- Không sao đâu, con nghe ba sắp nhỏ nói ở trong hàng đó vững lắm, tụi nó không dễ dầu gì tràn vô được đâu!
- ừ, nó không tràn vô được liền, nhưng cho là nó không vô được đi, mà nó cứ vây riết, rồi anh em ở trỏng lấy cơm gạo đâu ăn?
- Má đừng lo, có gạo!
Mẹ Sáu không nói nữa, kéo rỗ đựng trầu, têm gấp một miếng. Sắp bỏ miếng trầu vô miệng, bỗng mẹ lại nói:
- Tao hỏi vợ Hai Thép, có gạo là có vậy, chớ lấy nước đâu mà nấu cơm, không lẽ ăn gạo sống à?
Chị Hai Thép đang vảnh tay quệt mũi cho thằng con nhỏ lồm cồm bò trên ván, nghe Mẹ Sáu hỏi chị cũng lo, và chị cũng biết giặc đóng chiếm suối Lươn rồi. Nhưng chị đáp:
- Mấy ông mình thế thần dữ lắm, lẽ nào chịu ăn gạo sống... ít nhất cũng rang gạo mà ăn chớ.!
Suốt buổi sáng, mẹ Sáu thấp thỏm không yên.
Chị Hai Thép sang thăm mẹ Sáu một chút rồi bồng con về ngay. Từ tối hôm kia, anh Tám Chấn đã đến ở tại nhà chị mà không một ai trong xóm biết cả. Ngay mẹ Sáu cũng không biết nữa. Lúc chị Hai Thép trở về bên nhà rồi, mẹ Sáu đi cho heo ăn. Ngồi lùa tay vào máng cám, niệng mẹ lêu heo, nhưng lòng mẹ thì hướng cả về hang Hòn. Thật, bỗng nhiên mà tất cả ruột rà của mẹ đều bị dứt ra để trong hang Hòn đó. Con gái lớn, con gái út, con cháu ngoại cưng như trứng mỏng đó chẳng phải là nguồn sống của cả đời mẹ là gì! Rồi còn con rể và những anh em khác, đều như ruột thịt cả. Bây giờ tất cả đều đang đặt mình trong tình huống khó khăn. Sự sống và cái chết như đã để lên cân, mà bà mẹ là người đang hồi hộp nhìn coi cái cân ấy. Mặc dầu mẹ cũng đã từng nếm nỗi lo âu kiểu như thế, nhưng trước kia nỗi lo âu của mẹ dàn trải ra, chớ đâu có câu thúc, gom lại ghê sợ như bữa nay.
Đêm xuống tối mịt. Mẹ Sáu quờ quạng đi đốt đèn. Cây đèn ống khói cháy lên càng soi rõ sự trống trải của gian nhà. Mẹ Sáu ngồi dưới ván một lúc, bồn chồn chịu không nổi, mới đi thắp ba cây nhang. Mẹ thắp nhang đứng trước bàn thờ chồng, lâm râm khấn:
- Ông sống khôn thác thiêng, phen này ráng phò hộ cho sắp con cháu của ông được tai qua nạn khỏi...
Mẹ xá xá mấy cái rồi cặm nhang vào chiếc lư hương đặt trên bàn thờ. Vừa lúc ấy chợt trong xóm có tiếng loa đột ngột nổi lên. Mẹ giật mình chạy ra cửa, tiếng loa thét vang vang:
- Nghe đây, nghe đây. Quân đội Việt Nam cộng hòa thông báo cho dân trên Hòn được rõ, hôm nay quân đội đã chạm súng và tiêu diệt được nhiều tên cộng phỉ. Hiện chúng còn đang ngoan cố chui rúc trong hang để chống lại. Quân đội sẽ tiếp tục tiêu diệt chúng. Chúng tôi xin báo cho đồng bào biết bắt đầu từ chín giờ sáng mai cấm tuyệt không ai được léo hánh ra suối. Nghe đây, nghe đây, quân đội Việt Nam cộng hòa...
Mẹ Sáu nghĩ bụng: "Cấm dân không được ra suối à? Tụi mày mưu tính chi đây? Chà... nó nói nó tiêu diệt được nhiều anh em mình. Chắc nói láo. Hồi sáng nghe chỉ có hai người mình bị thương, một chú là Thẩm, hai là thằng Bé con Tư Râu... không biết sau còn có ai bị thương thêm không?"
Tiếng loa của giặc vẫn còn thét ré trong xóm. Lúc tiếng loa im đi, chợt có tiếng kêu cẩng cẩng ngoài ngõ. Mẹ Sáu vào nhà cầm cây đèn. Trở ra mẹ thấy một con chó mực nhỏ chạy quấn tới bậc thang. Đi sau con chó còn có bóng người. Mẹ Sáu nhướn mắt nhận ra là thằng út, con của chú Tư Râu. Thằng út mặc cái áo len dài tay, vạt áo nhét trong quần cụt. Nó đi lon ton tới bậc thang, nhảy riết lên. Mẹ Sáu hỏi:
- Mày đó hả út?
Thằng út vừa thở vừa đáp:
- Dạ, ba con biểu con vô đây ngủ. Ba con nói tối nay bà Sáu ở nhà một mình...
- Vởy à?... Bộ mày ở ngoài bãi chạy u vô đây sao mà thở hào hển dữ vậy?
- Dạ!
Thằng út nói và đi vào. Năm nay thằng út mới mười ba tuổi, mà coi tướng đã vạm vỡ. Nước da nó đen, đầu hớt trọc, tóc xửng rửng như bông gáo. Bộ mặt nó coi liếng lắm, nhất là cái trán vồ của nó coi mới lì lợm làm sao. Vô nhà rồi, nó vẫn không ngồi yên được cứ chạy lòng vòng, tắc lưỡi kêu con mực chạy theo. Giỡn với con chó một hồi, thằng út lăn kềnh ra ván. Lát sau, nó ngóc đẩu hỏi mẹ Sáu nhà có còn cơm nguội không. Mẹ Sáu ngạc nhiên nhìn nó:
- Bộ mày chưa ăn cơm sao?
- Con ăn cơm hồi xế lận!
Mẹ Sáu đứng dậy cầm đèn, nói với nó:
- Đi xuống đây!
Thằng út lồm cồm trở dậy, theo mẹ Sáu xuống bếp. Mẹ bưng nồi cơm và một ơ cá kho dọn ra bộ ván kê cạnh bếp. Thằng út lấy chén, leo lên ván. nó tự xúc cơm, chan nước cá, rồi ngồi xếp bằng ăn riết. Mẹ Sáu nói:
- Hồi chiều tao nấu cơm đó chớ tao có ăn hột nào đâu. Ba mày có ghé đây. Nghe nói thằng Bé anh mày bị thương, ba mày lo lắng mà không nói chi hết!
- Ba con nói không đánh giặc thì thôi chớ đánh giặc thì bị thương là thường.
Mẹ Sáu nói:
- Còn mày, nghe anh mày vậy, mày sợ không út?
- Con khỏi sợ, bà Sáu à. Con liệng lựu đạn chết bà nó hết chớ sợ!
Mẹ Sáu phì cười:
- Mày còn con nít ai dám giao lựu đạn cho mày mà mày liệng!
Thằng út ngó Mẹ Sáu, mấp máy môi tính nói gì rồi thôi, bưng chén cơm lên ăn. Và hết cơm, nó thọc chén vô nồi mà xúc. Mẹ Sáu la:
- Cái thằng này, có đũa bếp sao không chịu bới?
Thằng út cười hề hề:
- Xúc mau hơn. ở đó bới thì ăn thêm được một chén nữa rồi!
Mẹ Sáu hết biết nói sao với nó, lắc đầu:
- Cha con mày tánh hệt như nhau. Tới ăn cơm thì củng ăn hốt ăn táp!
Thằng út làm thinh, ăn thêm ba chán cơm nữa rồi bỏ đũa đứng dậy. Nó xớn xác bước ra sau lấy gáo múc nước trong lu uống ừng ực. Trở vô nó thè lưỡi liếm vòng quanh mép, đưa tay vuốt vuốt cái bụng to tướng, đủng đỉnh đi ra nhà trước. Ngồi nơi bộ ván, nó đong đưa chân chơi một lúc rồi nằm ngả ra:
- Con nằm đây, còn bà Sáu nằm trong ghen!
- Mày nằm đâu đó thì nằm!
Mẹ Sáu nói và liệng cho nó cái mền. Nó chụp cái mền, hất tung ra đắp kín cả người. Mẹ Sáu ngồi xổm một gối, ngoáy trầu, chép miệng:
- Cha... đêm nay không biết con Thúy ở trong hang ngủ nghê ra làm sao? Sợ tụi nó đánh vô nữa quá!
Thằng út nằm trong mền nói:
- Ban đêm tụi nó không dám vô hang đâu!
- Sao mày biết? Mày thì cái gì cũng biết hết hà!
- Thiệt mà... Phải chi con được ở trong hang con khoái gắt. Ngủ ở trỏng chắc ấm lắm! Mà hơn ngán...
- Ngán cái gì?
- ở trong hang có chôn xương mấy chú chết hồi đó. Ghê lắm! Sợ mấy ổng nhát lắm!
Mẹ Sáu nghiêm nét mặt bảo:
- Nói bậy nè, mất chú bác của mày hy sinh cho cách mạng mà không lẽ đi nhát mày sao? Từ rày tao cấm mày không được nói vậy nữa, nghe út?
Thằng út bị mẹ Sáu rầy, nó nằm im không nói nữa. Mẹ Sáu ngồi nhai trầu bỏm bẻm một lát rồi bước ra đóng cửa. Mẹ thổi tắt đèn, đi nằm. Thằng út tốc mền hỏi khẽ:
- Bà Sáu cài cửa kỹ hôn?
- Tao cài rồi!
Thằng út lại trùm mền. Nhưng nó cứ lăn qua trở lại. Mẹ Sáu hơi lấylàm lạ: "Thằng này bữa nay không biết có chuyện gì mà cứ rột rẹt hoài. Nó còn hỏi minh có gài cửa kỹ không. Mọi bữa lại đây ngủ, hễ nằm xuống là nó ngáy liền mà!"
Nhưng mẹ nghĩ chắc nó ăn cơm no nên tức bụng khó ngủ, và mẹ không để ý nữa. Mẹ nằm trăn trở, không sao dứt được nỗi lo. Mẹ lại hình dung ra hang Hòn. Cái hang đó càng chất thêm vào lòng mẹ bao nhiêu là lo âu, hồi hộp. Cứ mỗi lúc mẹ càng cảm thấy phảilàm một cái gì để ngăn chặn bớt sức tấn công của bọn giặc, để những vòng vây của chúng phải dãn ra. Mẹ muốn bứt cái vòng đai hung hãn siết chặt lại hòng dập tắc nguồn thương yêu và sự sống của đời mẹ.
Trong đêm tối, khi Mẹ Sáu trở về với nỗi lo lắng của mẹ thì thằng út vẫn chưa ngủ. Nó có nỗi lo riêng của nó mà mẹ Sáu không hề hay biết.
Thằng út đang mường tưởng nhớ lại dáng dấp một trái lựu đạn MK3 mới tinh, thực sự chính tay nó đã được cầm, và hiện giờ đang thuộc về nó. Suýt nữa thì ban nãy nó đã lộ ra với mẹ Sáu là nó có trái lựu đạn ấy rồi. May quá, nó kịp ghìm lại. Nó không thể nói với ai khác. Bây giờ mỗi một tiếng động ngoài ngõ, một tiếng chó sủa trăng cũng khiến thằng út giật mình, dợm bật dậy. Nó đã sửa soạn đôi chân của nó rồi. Hễ nghe tiếng giày lính đi vô là hắn sẽ vọt ngay ra cửa sau. Cái sàn lảnh nhà mẹ Sáu nó đã để ý, thấy có hơi cao, nhưng nó lượng sức nó có thể nhảy xuống để chạy.
Nhưng tại sao thằng út lại cứ lo ngay ngáy sợ lính vô nhà? Sao nó nằm đây mà nó cứ tính chuyện chạy trốn?
Chuyện này cũng chỉ có một mình nó biết.
Hồi xế, nhà nó ăn cơm sớm. Ba nó bảo: - "út à, tối nay mày đi lại nhà bà Sáu ngủ. Bà Sáu ở nhà có một mình". Thằng út liền "dạ" rồi lêu con Mực xuống cuồng bơi đi ngay. Nhưng lúc nó cặp xuồng đi tới vườn dừa thì một tốp lính ngồi dưới gốc dừa ngó thấy, ngoắc nó:
- Ê, lại đây taonói cái này nghe mày nhỏ?
- Ông nói cái chi? Nó hỏi.
Mày biết leo dừa không?
Thằng út mới dợm miệng đinh trả lời "không", mặc dù leo dừa là nghề của nó. Nhưng nó thấy tụi lính tháo xanh-tuya đạn và lựu đạn bỏ đầy trên tấm cải bạt thì nó lại đổi ý, sanh ra muốn cà rà làm quen với tụi lính. Nó đáp:
- Biết chớ... Mờy ông muốn bẻ dừa ăn hả?
- ồ, leo bẻ vài trái dừa mầy! Bẻ xuống tụi mình chặt uống chơi!
- Bẻ thì bẻ!
Thằng út nói rồi thót leo liền. Tụi lính đứa nào cũng khen thằng út leo dừa giỏi hơn sóc. Mà thật, trong nháy mắt, nó đã lên tới ngọn dừa. Nó vặn cho dừa rụng xuống bịch bịch. Tụi lính hí hửng ôm mỗi thằng một trái. Thằng út bẻ tất cả bốn trái rồi tuột xuống. Một thằng lính lăn về phía nó một trái. Nó lắc đầu:
- Tôi không uống đâu, thứ này tôi uống hoài!
Bọn lính lấy dao găm chém vạt dừa sạt sạt. Thằng út ngó thấy tụi lính chém vụng quá, nó mới giành dao chém. Nó chém trái dừa nào coi cũng muốn uống chớ không sần sùi dơ dáy. Nó ngắm nghía cây dao găm Mỷ của tụi lính, khen cây dao tốt, đoạn chồm tới đút do vô cái vỏ giắt nơi xanh-tuya. Tụi lính uống dừa xong nằm ngả ngớn ca vọng cổ. Thằng út vui vẻ bảo:
- Để tôi đờn miệng cho mấy ông hát, nghe!
Nói rồi nó uốn lưỡi tăng tẳng dạo qua một câu. Tới chỗ nhịp vào, nó tróc lưỡi một cái giòn khướu nghe hệt tiếng nhịp của song hoan. Tụi lính phục nó quá, hỏi:
- Ai dạy mày đời miệng vậy?
- Tự ên tôi!
- Dóc, mày phải bắt chước ai mới đờn được chứ?
- Tôi bắt chước ông Tư Đờn, tôi nghe rồi nhái theo ổng.
- Thằng nhỏ này tài quá bây!
Thằng út nghe bọn lính khen, mặt nó cứ tỉnh bơ, chẳng hề tỏ vẻ đắc chí như tụi con nít khác. Tánh nó vậy, nó đâu thèm hí hửng ra mặt. Thành ra bọn lính càng phục nó, cứ giữ nó nấn ná ở lại chơi. Thằng út thì từ nãy giờ đã nhắm một trái lựu đạn ở cái xanh-tuya. Nó rắp tâm đợi trời tối là lấy trái lựu đạn. Trong lúc chờ đợi, nó kể cho tụi lính nghe chuyện cặp rắn hổ mây lớn thường nổi lên ngoài biển, quãng giữa Hòn Me và Hòn Quéo. Bọn lính hỏi có thấy tận mắt lần nào chưa, thì nó nói:
- Tui ngó thấy có một con hè. Mà bây giờ cũng còn có một con thôi. Hồi còn nguyên cặp, nó hay nổi lên nhận chìm ghe, ăn thịt người ta thiếu gì! Ba tui nói hồi đó có một ông bự con lắm, kêu là ông cai Thoại. Bữa nọ vợ chồng ổng chạy ghe bườm ra gần Hòn Tre. ổng để vợ con lái, còn ông ngồi trước mũi thủ một cây roi tre mạnh tông dài. Lúc cặp rắn nổi lên xô ghe như mọi khi, ổng không thèm nói. Đợi lúc con rắn đực ngóc lên tính táp, ông quơ ngọn roi, quật ngang, con rắn gãy cổ chết... Từ đó chỉ còn lại con rắn cái... Chồng nó chết rồi, một mình nó không dám đón đường nhận ghe người ta nữa...
Thằng út để dứt câu chuyện cai Thoại giết rắn thì trời nhá nhem. Không chậm trễ, nó nhè nhẹ thò tay tháo trái lựu đạn. Miệng nó vẫn nói leo lẻo:
- Con rắn cái bây giờ cũng còn nổi lên hoài...
Lúc nó nói câu ấy thì trái lựu đạn đã nằm nặng trỉu trong túi áo nó rồi. Nó thọc tay vào túi nâng giữ trái lựu đạn, và đứng lên:
- Thôi, mấy anh nghỉ, tôi về!
- Ê, lâu lâu lại đây chơi nghe bồ!
- Mờy anh còn ở đây lâu lắm sao?
- Còn lâu, chừng nào tiêu diệt hết Việt cộng trong hang mới đi!
Thằng út bước chậm lại. Con mực vẫn theo sau. Đi khuất bọn lính, thằng út mới vụt chạy. Về gần tới nhà mẹ Sáu, nó tạt vô vườn lêkima, bới một cái lỗ ém trái lựu đạn. Nó làm dấu, khỏa đất kỹ lưỡng, rồi chạy về nhà mẹ Sáu.
5.
Giữa lúc thằng út đang nằm thao thức nghĩ tới trái lựu đạn thì thằng Bé anh nó ở trong hang Hòn đang trải qua những giờ phút gay go. Thằng Bé vốn gan là thố, mà hồi chiều tới giờ bỗng cất tiếng rên hư hư. Nó đòi uống nước liên tiếp, Quyên thay Năm Nhớ trông coi nó, chỉ cho nó uống thấm giọng bằng nước cháo chớ không dàm cho uống nước. Nó phều phào nói:
- Chị út ơi, sao không cho em uống nước? Em khát em chết...
Quyên cầm cây nến trắng mới thắp, dỗ dành:
- Em bị thương uống nước đâu được. Uống chút chút nước cháo thôi... Chừng nào em bớt thì chị cho em uống!
Thằng Bé vẫn phều phào:
- Cho em uống bây giờ đi!... Em uống một chút thôi. Quyên bậm môi, day mặt đi chỗ khác... Thằng Bé nói giọng giận dỗi:
- Chị út ơi, sao chị không cho em uống. Bộ chị không thương em à?
Quyên đang nhễu những giọt sáp nến xuống phiến đá, nghe thằng Bé nói cách đó thì không chịu nổi, nước mắt muốn trào ra. Cô cặm nến lên phiến đá rồi đi lại chổ anh Thẩm, nghèn nghẹn nói:
- Anh Thẩm à, em Bé đòi uống nước quá, tính làm sao bây giờ?
Thẩm lắc đầu:
- Đòi thì đòi chớ cũng không cho uống. Cô đừng cho Bé uống đấy!
- Em nói hết lời mà Bé không chịu. Nó nói em không thương nó...
Thẩm im lặng một chút rồibảo:
- Tôi thấy cánh tay của Bé phải tính sao chớ để bầy nhầy vậy không được. Về vụ này tôi có thấy rồi, để lâu e nguy hiểm đến tính mạng. Theo ý tôi phải thanh toán cái mớ xương thịt bầy nhầy đó đi. Phải chặt đứt đi!
... Dưới ngọn nến không lay động, thằng Bé từ từ mở mắt nhìn Quyên:
- Chị út đi đi! Em thấy cái tay em nó lướng vướng lắm. Nó... nó không phải là cái tay của em nữa...
Quyên quay nhìn thằn Bé đăm đăm rồi cô cúi xuống, quỳ một gối, đặt tay lên vầng trán ướt rịn mồ hôi của nó. Chợt thằng Bé hỏi:
- Chị út ơi, chị có nhớ anh La Văn Cỗu tự chặt tay mình hồi ảnh mấy tuổi không?
Quyên nhìn thằng Bé, bối rối, một lát mới đáp:
- Chị không nhớ rõ lắm, hình như lúc đó anh Cỗu hăm hai hăm ba tuổi...
Câu nói của thằng Bé làm Quyên lặng đi giây lâu.
Quyên từ từ đứng dậy, đi ngay. Cô sợ thằng Bé lại đòi uống nước, mà cô không cho, thì khổ lắm...
Vừa khi ấy, anh Hai Thép trở lại:
- Tôi đã nói chuyện với chú Bé, chú nói sẵn sàng chịu chặt khúc tay đó. Nhưng chú yêu cầu là làm cho mau...
Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Rèn lần nữa. Ba Rèn bấy giờ như cố sức hất tung một tảng đá vô hình đang đè trĩu trên ngực mình, rồi nói:
- Thôi được, để tôi!
Nói xong, Ba Rèn vùng đứng dựng:
- Nhưng tôi đề nghị nhân tiện để tôi xử luôn vợ chồng thằng Ba Phi cho rảnh, Không có gạo nước cho mình, có đâu để nuôi nó?
Anh Hai Thép nói:
- Khoan đã, để khai thác them vài bữa nữa rồi xử lý nó cũng không muộn. Nên để nó lại, có đông đủ bà con xử tội nó thì hay hơn...
- Phải, bây giờ nó ở trong tay mình, gấp gì?
Hai Thép nói:
- Thôi, Năm Nhớ đi lấy thuốc đỏ với bông băng lại đây. Chỉ cần Ba Rèn và tôi ở lại với chú Bé thôi. Còn tất cả các đồng chí trở về chỗ mình hết đi. Phải cảnh giác dữ mới được, biết đâu ban đêm tụi nó lại mò vô!
Ngạn đứng dậy cùng anh em xách súng trở ra ngoài. Quyên cũng đi theo. Lát sau, Năm Nhớ đã đem túi đựng dụng cu y tế vào. Anh Hai Thép nói với năm Nhớ:
- Cô nấu nước, để anh Ba Rèn khử cây mã tấu của ảnh. Nước đó để uống luôn. à, còn mũi thuốc tê nào không?
- Còn hai mũi.
- Vậy trước khi chặt, tiêm cho chú Bé được không?
- Được, tiêm thì đỡ đau hơn!
- Vậy cô nói với Ba Rèn chuẩn bị, chừng nào xong cho tôi hay!
Hai Thép cùng một anh du kích đi lại chỗ thằng Bé nằm. Thằng Bé ngó anh như có ý hỏi: "Sao lâu vậy?"
Hai Thép ngồi xuống bên nó. Anh nói chuyện bình thường, kể cho nó nghe hôm nay giặc bị đánh chạy khỏi hang ra sao, ta lấy đôực những súng gì. Thằng Bé nghe nói mặt sáng long lanh. Nó chặc lưỡi, tiếc rẻ:
- Phải chi cháu không bị thương...
- ờ, không bị thương thì tốt hơn... Nhưng bị thương rồi cũng không sao. Chắc đứt khúc tay bầy nhầy thì cháu khỏe. Có thuốc tê, cũng không đau lắm đâu!
- Có đau cháu cũng cắn răng chịu. Chỉ tiếc mất một tay.
- Mất một tay cháu buồn không?
Thằng Bé ngần ngừ giây lâu rồi đáp"
- Buồn mà không buồn!
Hai Thép khẽ nhếch miệng cười. Thằng Bé cũng cười. Nó nói:
- Cháu buồn là sợ không bắn được súng thôi, chớ cháu không sợ bị tật đâu hồi vô du kích, cháu gẫm mình giết được tụi nó khi minh cũng phải bị thương. Cháu tính rủi có chết, cháu cũng không buồn!
Anh Hai Thép rất đỗi ngạc nhiên về câu trả lời của thằng Bé. Bản thân anh cũng đã có lúc nghĩ như thế. Anh lẩm nhẩm: "Phải, nếu thấy rõ mọi cái đó để sẵn sàng chịu đựng thì sẽ không biết sợ. Thằng Bé mới mười bảy tuổi nhưng thật có đầy đủ tư thế của người cầm súng chiến đấu lắm!"
Anh day lại, khẽ bảo anh du kích:
- Ra coi Ba Rèn chuẩn bị xong chưa?
Thằng Bé chợt hỏi:
- Chú Hai ơi, chị út đâu rồi, sao chị út không vô đây với cháu? Kêu chị út vô đây đi!
- Được rồi, chú sẽ kêu chị út vô.
Anh Hai Thép nói với anh du kích:
- Kêu út Quyên vô đây luôn nghe!
Nét mặt thằng Bé vẫn không thay đổi. Khi Quyên vào đến thì nó day qua phía Quyên. Nó đưa cánh tay phải bíu lấy tay Quyên. Còn cánh tay trái bị thương của nó thì được Hai Thép khẽ nhấc đặt lên một chiếc khăn xếp dày. Hai Thép đốt thêm một cây nến nữa, cầm trên tay. Quyên nghe tiếng Năm Nhớ cưa ống thuốc và cả tiếng ngón tay Năm Nhớ búng khẩy cho đầu ống thuốc văng đi. Bàn tay phải của Bé lúc này lại bíu chặt tay Quyên hơn chút nữa.