4.
Nỗi đau đớn của bà Cà Xợi hôm nay đã dâng lên tới cực độ. Hồi trưa, lúc thằng Xăm giơ dao chém Sứ, bà xô lại phía nó. Nhưng bọn lính xô bà ngã xuống, giẫm đạp lên bà khiến bà ngất xỉu.
... Bà Cà Xợi tỉnh dậy trong buổi chiều tắt nắng. Cà Mỵ chạy về đầu bù tóc rối, khóc và báo cho bà hay bà là Sứ đã chết. Cà Mỵ nói xong lại chạy đi. Chỉ còn lại mỗi mình bà sờ soạng trên bộ vạt tre, giữa gian nhà trống trước trống sau gió giật vách lá hai bên xành xạch, xành xạch. Mãi một lúc, bà mới ngồi nhổm dậy được. Đôi con mắt bà đờ ra, long lanh nắng quái. Đầu tóc vàng sém của bà xổ tung, mà những tia nắng chiều rọi lên, làm mớ tóc đỏ hoe hoe như nhuốm ánh lửa. Rồi khi hết nắng, và đêm nhòa tối, bà vẫn ngồi im không cục cửa. Bóng tối từ ngoài tràn vào phủ kín bóng bà. Đến lúc trăng lên, bóng bà Cà Xợi lại hiện ra, nhưng không phải ngồi trên bộ vạt tre nữa, mà là đứng dưới đất. Người mẹ Khơ me đau kổ đó trong cách đứng coi cũng lạ. Đôi chân bà hơi loạng doạng ra, hai bàn chân châu các ngón vào, bám bíu trên đất nền nhà khô nứt những đường kẻ. Hai cánh tay bà như dán sát vào nách, và bóng bà nổi rõ hơn, hơi chúi về phía trước. Trông như cái cây sắp đổ.
Bà Cà Xợi đứng rất lâu. Có thể là bà đứng như vậy chừng non nửa tiếng đồng hồ. Thình lình, bà bước ra khỏi nhà, vẫn với cái dáng người ngã tới phía trước ấy, mà đi.
Bà mò mẫm đi trên con đường đất dẫn tới ngã ba Sĩ Lỳ. Dọc đường, có khi bà chới với, loạng choạng, hoặc ngã dúi xuống, rồi lại lò mò đứng lên, đi lại. Cái hôm bà đến tiệm thím Ba ú mua rượu, bận về bà cũng vấp ngã. Nhưng lần đó, và cả những lần trước đó, không khi nào bà vấp ngã nhiều như hôm nay, bà Cà Xợi đau đớn đến điên dại thật rồi. Thằng con bà, sau một hời gian vắng xa Hòn Đất, nay trở về đã chém một cô con gái mà người Khơ me lẫn người Việt trên Hòn đều yêu mếm. Cô con gái và mẹ của cô lại là người ơn lớn của bà Cà Xợn. Hai mươi năm về trước, trong một đêm khuya sương giá, hai mẹ đã dìu bà về nhà, bao bọc cho bà sinh ra Cà Mỵ.
Hồi đó, mới mười tuổi mà cô gái ấy đã là một cô bé nhân hậu rồi. Bà quên sao được nó đã tiếp sức với mẹ nó đưa bà về nhà. Đêm ấy, bà còn nhớ hai mẹ con đầu chùm khăn vì trời lạnh. Bà nhớ lắm. Khi anh Thạch Kha chết đi, gia đình mẹ Sáu đều thương bà, thương con Cà Mỵ, hết lòng đùm bọc cho cả hai mẹ con. Ơn lớn của gia đình mẹ Sáu, bà Cà Xợi vẫn ghi trong dạ. Bà không biết lấy gì mà đền đáp cho được. Thỉnh thoảng, bà cùng con Cà Mỵ tới tiếp mẹ Sáu vét mương, làm vườn hay vào ngày mùa thì gặt lúa, đập lúa phụ. Cái ơn kia chưa trả được bao nhiều thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô con gái làm ơn cho bà dạo nọ.
Thằng Xăm giết chết Sứ, đó là cái lý do khiến bà Khơ me già nua chất phác này đêm nay lảo đảo, đi không vững. Nhưng bà Cà Xợi đi đâu, bà muốn đi đâu? Nào ai biết được. Chỉ biết rằng bà đang đi vất vả, trên con đường có trăng và không lấy gì lồi lõm cho lắm... Bà đang đi những bước đi đau khổ. Nhưng rồi cái bóng của bà dưới ánh trăng, cũng lọ mọ hiện tới được chỗ ngã ba Sĩ Lỳ. Tại ngã ba, khi bà đi thẳng, lúc ấy mợi lộ ra ý định của bà. Bà muốn đi lại nhà mẹ Sáu. Nhưng bà đi mò mẫm, rụt rè và sợ hãi. Tới khoảng vườn xoài, bà không dám đi giữa lối, mà tạt vào mé vườn, lẩn qua sau các gốc xoài. Không biết bà đi tới nhà mẹ Sáu mất bao lâu. Chỉ biết khi tới đó, bà đã trông thấy bà con tụ tập đông đảo lắm rồi. ấy chính là lúc mọi người sắp liệm Sứ. Bà Cà Xợi không hề trông thấy cái cảnh mẹ Sáu âu yếm, chải tóc, bới tóc cho con, đứa con gái thuở lên mười đã có lần tận lực dìu bà Cà Xợi từ đồng rạ về nhà nó. Bà không nhìn thấy cảnh ấy, vì bà có dám đặt chân vào tới cái sân đông nghịt người đó đâu! Bà len lén ngồi thụp sau một bụi khóm, ở vệ đường. Tại đó, bà có nghe thấy tiếng khóc của mẹ Sáu trong nhà vẳng ra. Bà run lên khi nghe thấy tiếng khóc ấy. Và bà đưa tay bưng kín mặt.
Khi các ngọn đuốc cháy rực giữa sân, chiếu sáng đến tận chỗ bà, bà hoảng hồn, mọp sát xuống. Lát sau, lúc bà con Hòn Đất người đuốc rầm rộ kéo đi bà ngó thấy cái hòm đỏ chói và mái tóc bạc óng của mẹ Sáu sau kẽ hở của bàn tay mình và kẽ hở của những kẽ lá khóm nhú gai sắc. Bà nín thở nhìn cái hòm, trái tim trong lồng ngực lép xẹp của bà thắt lại tưởng như không sao đập tiếp được nữa. Bởi vì bà biết rất rõ cô gái nằm trong cái hòm đó chính là Sứ. Nay Sứ đã nằm im, đã chết. Bà nhắm nghiền mắt lại. Cho dù bà nhiều lần từng nói thằng ác ôn đó không phải là con của bà, nhưng rõ ràng nó chính là con của bà, vì chính bà đã sinh ra nó. Trời ơi, cái đêm hôm ấy mới oi ả làm sao! Những bức tường của ngôi nhà nền đúc phông tô ấy mới dày kín làm sao! Tại đó, bà nằm rã rượi mồ hôi, bụng đau như xé, oằn oại mãi tới khuya mới đẻ lọt ra đứa bé, là thằng Xăm.
... Đám người đuốc đã lũ lượt kéo đi mút đuôi rồi. Có cả con Cà Mỵ của bà cũng đi nữa. Trong bụi khóm, mấy lần bà Cà Xợi nhấp nhổm muốn chạy theo họ. Nhưng bà không dám. Lần này thì bà không dám đi theo họ thật. Cà Mỵ thì khác. Còn bà, bà thấy mình là kẻ có tội, không phải mới bây giờ, nhưng bây giờ thì ghê gớm hơn, trực tiếp hơn, do đó bà không sao dám cất chân đi theo họ cho được.
Họ đã đi hết rồi. Lửa đuốc chập chờn trên những lá cành phía trước, cuối cùng khuất hẳn. Cái sân sáng lửa ban nãy giờ lại mờ tối, bàng bạc ánh trăng. Chỉ còn lại một mình bà Cà Xợi ngồi bệt sau bụi khóm. Bên kia hàng khóm nhô lá nhọn sắc như những thanh kiếm, hiện mờ mờ cái khoảnh sân, cái bậc thang, cái gian nhà sàn vách ván hãy còn leo lét cháy một thếp đèn mỡ cá. Bà Cà Xợi mở to mắt ngó gian nhà trân trân, bắt đầu tư những nấc bậc thang năm xưa, nơi đó, người con gái Việt mới chết đã có lần ráng sức dìu bà lên. Năm xưa, trong gian nhà leo lét ánh đèn đó, bà đã sinh ra con Cà Mỵ, giữa lúc mẹ Sáu rút ra trong miệng bà những cọng rạ nhừ nát. Rồi cũng tại đây, anh Thạch Kha đến đón bà về.
Xăm ơi, bọn mày ác quá, mày gieo tang tóc cho cái nhà đã đùm bọc mẹ mày trong cơn khốn đốn! Mày đã về hùa với cha mày mà giẫm đạp lên trái tim mẹ mày rồi đó Mày là con dao độc ác cứa đứt mẹ mày ra khỏi mọi người! Vì mày mà mẹ mày phải lẩn trốn trong đêm tối, không dám chạm mặt bà con.
"Sao ả-rạt đâu không vật mày đi cho rồi! Tao cầu ả-rạt vật mày chết, để có đau tao chỉ đau mỗi một lần, khỏi bị cứa đứt như vầy nữa!"
Bà Cà Xợi nguyền rủa đứa con mình. Rồi bà chới với đứng dậy, vạch lá khóm đi ra. Bà đi vào sân nhà mẹ Sáu, bụng nghĩ phải lên tắt thếp đèn đó mới được, chớ để vậy hao mỡ quá. Tới chân bậc thang lên sàn nhà; bà đưa tay rờ rẫm bậc thang, như kiếm vật gì đánh rơi. Cứ đặt chân leo lên mỗi bậc thang là bà lại rờ rẫm, như vậy. Lâu nay bà mới lên đến sàn, lần tới cái cửa bỏ ngõ. Tới cửa bà nhìn thấy ngọn đèn để trên bàn thờ vờn qua vờn lại trước gió. Đồng thời bà trố mắt rú lên khi trông thấy bên cạnh thếp đèn buông rủ một mớ tóc đen nhánh. Bà chỏi hai bàn tay về phía mớ tóc, đi giật lùi, rồi vùng chạy xuống thang. Bỗng nhiên, ngực bà như bị những đôi giày lính ban trưa tiếp tục giẫm mạnh. Bà nín thở một cái, và ngã xuống ở bậc thang cuối cùng.
Vào khoảng gần nửa đêm, mẹ Sáu và những bà con đi chôn Sứ về tới nhà gặp bà Cà Xợi nằm dưới bậc thang. Mọi người lấy làm lạ, vực bà lên nhà, cởi áo xống, đánh gió cho bà. Mẹ Sáu đưa mắt lặng lẽ nhìn đầu tóc vàng sém của bà Cà Xợi rồi ngoảnh đi nơi khác. Mẹ ngồi trân trân một lúc, mội bậm chặt. Bỗng mẹ đứng dậy đi vào bếp. Lát sau, mẹ trở ra, cầm một củ gừng già đưa cho chị Hai Thép. Chị Hai Thép cầm củ gừng, liếc thấy mắt mẹ rân rấn. Nhưng mẹ vẫn cắn chặt môi, không nói một tiếng nào cả. Chị Hai Thép nhai củ gừng cho giập ra, xát mạnh lên lưng bà Cà Xợi. Sau đó, chị dùng cái sống lược cạo sồn sột. Thím Ba ú giựt tóc cho bà. Không bao lâu, đã nghe bà rên khe khẽ.
Mọi người đã cứu được bà tỉnh dậy.
Nhưng khi tỉnh dậy, hoàn hồn nhớ ra mọi việc và sực trông thấy mẹ Sáu, bà Cà Xợi vụt nhào từ trên ván xuống, lết tới, sụp dưới chân mẹ Sáu mà lạy. Bà vừa lạy vừa khóc ròng. Bà kêu lơ lớ:
Bà giết tôi đi, bà Sáu lấy cây dao cắt cổ tui đi...!
Mẹ Sáu ngồi trơ ra đó. Rồi mẹ cũng khóc mùi
Chị Hai Thép lôi bà Cà Xợi ra, đỡ bà trên tay. Chị nói:
Bà Sáu không giết thím đâu... Thím đừng lạy, đừng khóc nữa. Bà Sáu với lối xóm đây có thù là thù thằng Xăm, thù thằng Mỹ – Diệm chớ không thù bà Cà Xợi đâu.
Tui phải giết thằng Xăm!
Bà Cà Xợi chồm dậy la lớn. Những ngón tay đen đúa của bà co quắp lại. Mắt bà mở trừng trừng nhìn ra ngoài cửa. Thím Ba ú nói:
Thôi bây giờ tôi đưa thím về nhà nghỉ, nghe?
Tui đi, mình ên tui đi được!
Không, tôi đưa thím đi...
Thím Ba ú vừa nói vừa nắm tay bà Cà Xợi dắt đi.
Thím đưa bà đi được một đỗi thì gặp Cà Mỵ cũng đang hoảng hốt chạy tìm mẹ. Thím bảo Cà Mỵ:
Con Mỵ đưa má bây về! Phải coi chừng, má bây vừa mới xỉu nữa đó!
Cà Mỵ dìu mẹ về tới nhà thì gà trong xóm đã gáy rộn. Nhưng Cà Mỵ biết đêm chưa tàn. Đấy là gà ngủ được một giấc, mở mắt thấy ánh trăng ngỡ trời sáng nên cất tiếng gáy.
Cà Mỵ đặt mẹ lên vạt xong, cô ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào chân vạt. Cô gục đầu xuống, đôi tay khoanh nơi gối, nghĩ tới chị Sứ, nghĩ tới cuộc gặp gỡ tại Hang Hòn ban nãy, nghẹn ngào căm tức thằng Xăm. Khác với mẹ mình, Cà Mỵ không đến nỗi đau đớn như thế. Mức độ đau đớn của cô có khác. Cô căm tức nhiều hơn và thương chị Sứ kông biết để đâu cho hết. Sau cái chết của chị Sứ, giờ đây Cà Mỵ càng sẵn sàng lao mình vào bất cứ việc gì để hỗ trợ cho cuộc chiến đấu trong hang, để báo thù cho chị Sứ, đồng thời như là để chuộc lại mọi tội lỗi mà thằng anh tàn bạo của cô đã gieo xuống đất này.
Cà Mỵ ngồi im tới trăng lặn. Giờ thì gà đã te te gáy sáng thật. Cô đứng dậy, đến đằng nhà chị Hai Thép.
Cà Mỵ vừa ra khỏi nhà thì thằng Xăm mò đến. Cùng đi với hắn có tên lính hộ vệ người bé nhỏ, đôi mắt láo liên. Đây là lần thứ hai thằng Xăm ghé qua nhà mẹ. Đầu hắn vẫn đội sụp cái kết ba rèm.
Lưỡi trai vải phía trước che muốn hết cái trán vốn đã ngắn của hắn, chỉ để lộ ra hai tròng mắt trắng dã. Thằng Xăm đi nghiêng nghiêng, vai trái hơi xệ xuống, không nhúc nhích. Tên lính loắt choắt đi trước vào nhà. Thằng Xăm chưa vào. Trong lúc trời đất còn mờ mờ chưa tỏ hẳn, hắn đứng giữa sân, niễng đầu nhìn lu nước, nhìn gian nhà trống trước trống sau... Hắn lắng tai nghe tiếng gió giật chái là xành xạch. Trước mặt hắn cây sua đũa với vòm lá thưa loang thoáng hơi sương lâu lâu lại rụng xuống vài bông trắng. Những cái bông sua đũa êm ái chạm mặt đất, không phát ra một tiếng động. Đâu đây xông vào mũi thằng Xăm mùi bùn non quăng quăng của một cái ao mới cạn. Những cái đó, từ tiếng gió giật, từ cành hoa rụng trong đêm tàn, từ mùi bùn tất cả hình như gieo vào lòng thằng biệt kích ác ôn nỗi trắc ẩn. Đứng lại mảnh sân nhà hiu quạnh của người mẹ, thằng biệt kích chừng như mới bắt đầu có lại được cảm giác thông thường của con người. Nhưng không chịu nổi lâu với cảnh đó, hắn quay phắt, đi lục xục vào nhà. Bà Cà Xợi đã thức dậy, ngồi trên bộ vạt, chân thõng xuống. Bà đã biết có thằng Xăm về, vì tên lính hộ vệ vào trước đã cho bà hay.
Thằng Xăm vào nhà, đi tới đi lui. Hắn dừng lại trước mặt bà Cà Xợi hỏi:
Tụi nó đánh má có đau không?
Bà Cà Xợi không đáp
Thằng Xăm đi tới đi lui, cánh tay trái vẫn ngay đơ:
Mà má đi theo mấy con mẹ đờn bà Hòn Đất làm chi... Phải không có má ở đó, tui ra lệnh bắn té hết!
Đứng lại giữa nền nhà giờ đã sáng ra, hắn đưa tay mặt bợ cánh tay trái bị thương, hậm hực nói:
Cái con Sứ đó cứng cổ quá, chém ba dao không dứt. Đồ đờn bà ngu, theo Việt cộng chi cho t thảm thiết. Con mẹ của nó bạc đầu mà cũng như vậy. Biểu khuyên lơn con, không chịu là không... Nè, má biết hôn, tụi trong hang gần chết hết rồi. Không cơm ăn, không nước uống, chịu sau thấu... Chút nữa ráo ráo sương, tui cho lính chất rơm trộn ớt đốt hang nữa, cho thằng nào con nào ở trỏng cũng phải chun ra hết.
Nghe thằng Xăm nói, bà Cà Xợi vẫn nín thinh. Thỉnh thoảng bà liếc mắt nhìn nó. Cái liếc nhìn của bà sáng nay trông dễ sợ. ánh mắt bà vừa tỉnh táo, vừa dại dại.
Thằng Xăm chợt hỏi:
Má nè, con Mỵ đâu rồi?
Nó đi vô xóm!
Thằng Xăm ngồi lên bộ ván giữa, ngã người nằm xuống. Hắn ngó lên nóc nhà giây lâu bỗng nhổm người dậy:
Lần này tiêu diệt hết Việt cộng rồi, tôi đóng bót ở đây. Ruộng vườn của ông già, tôi lấy lại ráo. Ai làm ruộng phải nộp lúa ruộng, ai làm vườn phải nộp tiền vườn. Mấy năm rồi, ai giựt thì bây giờ phải nộp thoái, không được thiếu một hột lúa!
Bà Cà Xợi nghe hắn nói, ngồi im một chốc mới thốt:
Thằng Xăm mày nói đóng bót vậy chớ có chắc không?
Xăm chỏi chân bật đứng ngay lên:
Chắc chớ. Nhứt định là tôi đóng bót, cất nhà lại đàng hoàng. Má với con Mỵ cứ ở không ăn, khỏi nắn nồi, đươn đát chi cho cực. Lâu lâu tôi cho xe đưa hai người lên Rạch Giá chơi. Tôi biểu vơ tôi sắm cho con Mỵ nhiều quần áo tốt. Con Mỵ mà sửa soạn vô coi ngộ lắm...
Thì để coi coi...
Bà Cà Xợi nói giọng như thường
Đoạn bà bước xuống bộ vạt, đi ra sau chuồng gà bắt luôn hai con gà tơ trói lại. Bà xách hai con gà liệng giữa nhà nói:
Xăm à, mày với chú lính đây ở lại ăn cơm nghe?
Được, được!
Vẻ mặt thằng Xăm hớn hở hẳn lên. Hắn lột cái kết ba rèm, trên đầu liệng xuống ván. Rồi hắn co giày khẽ đá hai con gà, khen:
Hai con gà này mậy đâý
Hắn vui vẻ móc bóp, lấy một tờ bạc hai trăm đưa tên lính:
Hai Nhỏ, mày đi mua rượu. Coi ở tiệm có gì nhậu được không cứ mua thêm!
Thằng lính Hai Nhỏ rón cầm tờ bạc. Thằng Xăm tháo cái bi-đông rượu, chớ một bi-đông thì không thể nào uống đủ. Thằng lính Hai Nhỏ đi ngay. Đi tới cửa nó sực nhớ cây súng trên bộ ván, quay lại tính lấy. Thằng Xăm khoát tay:
Cứ đi đi, để súng đây tao coi cho. Không lẽ Việt cộng ở trong hang lòn ra đây giựt súng sao mà sợ!
Tên Hai Nhỏ đi rồi, thằng Xăm vẫn tiếp tục sống trong cái trạng thái vui vẻ. Có lẽ đời hắn dạo ần đây chưa bao giờ được vui như vậy.
Bà Cà Xợi nhóm bếp, bắc cái trã đất lên nấu nước. Thằng Xăm nói:
ở xứ Hòn này xài cái gì cũng bằng đất, dở quá. Để rồi mua xoong nhôm chảo sắt mà nấu. ở trên Rạch Giá bây giờ đâu có ai xài thứ nồi om trã đất này nữa!
Bà Cà Xợi cầm con dao dâu kề vào cổ con gà, nghe hắn nói thế thì dừng dao ngó xuống. Bà nhổ thêm mấy cái lông nơi cổ gà rồi kề lưỡi dao cắt. Con gà hấp him đôi mắt, kêu khe khẽ trong cuống họng. Máu ở cổ gà phì ra nhểu toong toong xuống cái ơ đất kê bên dưới. Thằng Xăm ngồi chổm hổm một bên coi. Hắn buột miệng lẩm bẩm:
Coi giống máu ở cổ con Sứ nhểu xuống hôm qua quá!
Lần này, bà Cà Xợi bủn rủn muốn buông dao. Tim bà thắt lại, nhưng bà cố nén. Cầm con dao cắt cổ nốt con gà thứ hai. Thằng Xăm thì vẫn ở trong cái tâm trạng vui vẻ. Hắn giúp bà Cà Xợi một tay, vặt lông gà. Bà Cà Xợi lặng thinh làm gà. Một con gà đem luộc nước dừa xiêm, một con đem rang muối. Hai món này người Khơ me rất ưa. Một mình bà đứng trông hai bếp. P bà bắc cái ơ đổ tràn nước dừa, một bếp bà bắc cái nồi om đất. Trong nồi đã có bỏ muối hột và lót vỉ tre. Đợi muối bắt đầu nóng nhảy trong nồi bà Cà Xợi mới đặt con gà đã nhỏ hết nước lên vỉ, rồi đậy kín nắp vung. Bà trông coi hai cái bếp rất kỹ, mắt nhìn nước dừa sủi tăm và tai lắng nghe tiếng muối nổ lắc rắc. Có lẽ trong suốt đời mình chưa có khi nào bà Cà Xợi nấu nướng chăm chú, cẩn thận như buổi sáng nay.
Lúc tên lính Hai Nhỏ xách hai bi-đông rượu về, thì lát sau gà cũng đã luộc và rang xong. Con gà luộc chín mọng. Con gà rang khô se.
Bà Cà Xợi xé gà xếp vun hia vịm nhỏ, đâm muối ớt và xắc chuối cây trộn ghém. Bà bày đầy cc mâm gỗ cũ kỹ mòm mép, dọn lên bộ ván giữa.
Trong bữa ăn, bà Cà Xợi không ăn mấy. Bà uống rượu từng chén, ép thằng Xăm và tên lính cùng uống. Đây là bữa đầu tiên bà Cà Xợi ăn chung mâm với con. Thằng Xăm với tên lính Hai Nhỏ nốc rượu ừng ực, ăn thịt gà ngốn ngấu. Hai bi-đông rượu đều cạn, nhưng gà chỉ còn lại hơn nửa con. Bà Cà Xợi nói:
Để dành cho con Mỵ!
Ăn xong, tên Hai Nhỏ lăn ra ngủ. Thằng Xăm ngồi nói bâng quơ vài câu rồi cũng ngã ra ván quờ tay chụp cái kết vải đậy mặt. Lát sau hắn cất tiếng ngày khò khò.
..... Bây giờ thì Bà Cà Xợi đã đến đứng sát bên bộ ván thằng Xăm ngủ. Tay phải bà xách cây dao dâu. Tay trái bà run rẩy kéo nhẹ cái kết "ba rèm" trên mặt thằng Xăm ra. Mắt hắn vẫn nhắm nghiền, bộ mặt hắn bóng nhoáng, nhờn nhờn. Bộ mặt này trước kia đã có lúc bà Cà Xợi ghì sát vào lòng, hôn hít. Đôi môi này trước đã ngoạm bú vú bà chùn chụt. Nay bộ mặt ấy thay đổi quá. Hồi đó nó còn là một đứa bé. Nay nó là một thằng biệt kích, một kẻ đã từng mổ bụng, moi mật và ăn gan người. Hồi đó nó chả biết gì. Thế mà bây giờ nó biết sống chết cố dựng lại ngôi nhà trên chính cái nền nhà của cha nó bị nông dân phá sụp. Người ơn của mẹ nó thì nó chém chết không thương tiếc, rồi còn bảo con gà bị cắt bcổ nhểu máu thế nào thì người bị nó chém cũng nhểu máu như vậy.
Mẹ nó vốn xuất thân là một người nắn nồi đất, thế mà bây giờ nó nói nồi đất chẳng ra gì, sánh với nồi nhôm. Nó chẳng biết mẹ nó ngày xưa sống được là nhờ những cái nồi đất ấy. Nó cũng chẳng cần biết có nồi đất thì người nghèo như mẹ nó mới nấu được cơm, và có nồi đất thì mới cất được nên rượu nếp nồng nàn mà nó vẫn ưa uống hơn cả.
Thằng Xăm là đứa biết và không biết một cách có ý thức về mọi điều đó.
Tuy nhiên có lúc, hắn còn biết nghĩ đến một điều là nghĩ về mẹ và đứa em gái hắn. Mặc dù điều này cũng rất đỗi mong manh, nhưng chính bởi cái đó nên đã ba lần bà Cà Xợi giơ dao lên rồi lại từ từ hạ xuống.
Khốn thay cái khả năng duy nhất có thể cho phép thằng Xăm thoát hiểm cũng lung lay nốt,ng tội lỗi trên kia đã choáng phủ tất cả, xóa đi tất cả, không để người mẹ còn nhận được hắn là con của mình nữa. Cho nên sau những phút chần chừ do dự, bà Cà Xợi dựng con dao dâu vào vách và chạy ra khỏi nhà. Hồi lâu, giữa lúc thằng Xăm và tên lính hãy còn ngủ có hai bóng người lẻn vào cửa sau. Đó là hai du kích còn náu lại ngoài xóm... Một anh du kích đứng cầm trái lựu đạn gác cửa, còn một anh cầm mã tấu phăm phăm đi riết vào chỗ thằng Xăm ngủ.
Thằng Xăm chết ở nhát mã tấu chem phụt xuống rất nặng và gọn.
Đầu hắn đứt lìa văng ra cách cái cổ đang phun máu của hắn chừng nửa gang tay. Tên lính Hai Nhỏ nghe động giựt mình choàng dậy, chụp súng. Nó cũng liền bị anh du kích chém đổ ngay xuống ván. Nhát mã tấu này ăn xếch từ dưới lạm cằm lên tới mang tai tên lính xấu số. Lưỡi mã tấu mắc dính trong đó, anh du kích loay hoay mất một lúc, mới nhấc ra được.
5.
Nắng trưa đã rọi thẳng xuống đỉnh các ngọn dừa. ánh nắng in thành vệt trên những đống rơm chất dài trong vườn. Cạnh đó, mấy bao tải chứa ớt khô và vôi bột mà bọn giặt mới vác từ suối đến cứ xếp chồng lên nhau.
Đợi mãi chẳng thấy trung úy Xăm đâu, tên thiếu úy Ba ra lệnh cho bọn lính bắt đầu đội rơm lên đầu, chia thành hai cánh, men vào hai bên mép miệng hang. Trông những tên lính vác rơm thật buồn cười. Chúng đi rón rén như kẻ trộm, mặc dù hai khẩu đại liên của chúng đặt trong mé vườn đã được nạp đạn, chĩa nòng vào miệng hang để đề phòng bất trắc. Bọn lính nối đuôi nhau đi mỗi lúc một xa. Khi chúng đi vào tới vạt cỏ ống che khuất, đến lưng, thì chỉ còn thấy những đống rơm biết đi, xô đẩy, hêu hêu trên đầu ngọn cỏ.
Chúng đến hai bên mé hang, hất rơm trên đầu xuống thành hàng đống dài, vàng lóa. Những thằng lính vác các bao ớt bột, vôi bột men ra sau cũng đã đi được nửa đường. Sau rốt tên thiếu úy gọi mấy thằng lính vác sào tre dài lêu đêu, vàng óng, xông vào. (Những cây tre này chúng vừa đốn hồi sáng ngoài bãi tre. Và do đó bà con đã kéo tới chỗ tên thiếu tá làm ầm lên. Khi tến thiếu tá chịu xuất tiền bồi thường thì những thằng lính đó mới vác tre đi được).
Vào đến miệng hang, tên thiếu úy Ba một mặt cho lính chạy vào xóm kiếm thằng Xăm, một mặt cho rạch mấy bao vôi, ớt. Chúng đổ rắc vôi và ớt bột vào tất cả các bó rơm rồi dùng sào tre xiên qua các bó rơm đó, đẩy tới miệng hang. Rơm mới đùn tới miệng hang thì súng trong bắn xổ ra. Rơm khô bị những viên đạn nóng rảy cọ xát, ngún khói và trong nháy mắt cháy bùng lên. Tên thiếu úy nằm rạp xuống cỏ từ nãy giờ thấy thế liền bật cười hô hố. Hắn co chân đạp gió lia lịa, la lên:
Tốt lắm, tụi nó mồi lửa giùm mình, đẩy rơm vô, đẩy rơm vô nữa đi!
Bọn lính cầm sào tre ra sức đẩy rơm tới giữa miệng hang. Lát sau miệng hang dùn đầy rơm, bộn bề, xù xụ. Rơm khô bén lửa cháy phừng lên giữa buổi traư nắng chang chang.
Súng bên trong cũng im mặt không bắn ra nữa. Bọn lính tiếp tục dùng sào đẩy rơm vào miệng hang. Tên thiếu úy vẫn nằm xoài trên cỏ. Theo lệnh hắn, những tên xạ thủ súng máy nằm bên cạnh đã đặt tay lên cò súng, sẵn sàng quét đạn về phía miệng hang nếu có ai từ trong đó vụt chạy ra. Tên thiếu úy chòi chòi hai gót giày giữa khoảng không, đắc chí bảo:
Đ.mẹ, khói ớt mà chịu gì nổi? Trận này chuột phải bò ra khỏi hang thôi. Hễ thằng nào vọt ra, tụi bây quét liền cho tao!
Những tên xạ thủ súng máy mím môi đợi. Nhưng chúng chưa thấy bóng người nào ra cả. Chỉ có đám lính đứng lố nhố gần miệng hang vụt chạy lùi trở lại. Tên thiếu úy hỏi lớn:
Cái gì, cái gì mà chạy?
Bọn lính không đáp. Thằng nào thằng nấy cứ ôm ngực ho sặc sụa, chạy tháo lui. Thì ra rơm cháy lên nhưng khói không chịu lùa vào hang. Luồng khói trắng xám bốc từ đống rơm cháy bị gió trong hang lồng ra, cuồn cuộn tạt qua hai bên miệng hang. Bọn lính đứng gần đó bị luồng khói độc địa phả vào mặt. Chúng hít phải hơi ớt và vôi bột, chịu không nổi, vùng chạy trối chết. Nước mắt, nước mũi trên mặt chúng chảy giàn giụa cả ra. Có thằng bị khói ớt xông lên cay buốt tận đỉnh đầu, đứng không vững phải ngồi khuỵu xuống. Có thằng mở mắt ra không được. Vừa đi vừa quờ tay như bị mù.
Tên thiếu úy Ba ức lắm, nhỏm dậy chạy lại coi. Hắn cũng liền bị khói phả vào mặt, ho sằng sặc và quay lui. Nhưng luồng khói không ngừng miết vào hai mép hang, lùa theo. Hệt như ở trong đó có người đang quạt thốc khói ra vậy. Nhưng kỳ thực trong đó nào ai quạt. Lỗi lầm này là cũng bởi tại bọn giặc quá ngu xuẩn mà thôi. Trong một cái hang đã có sẵn khối thể khí, nay lại dồn khói vào, tất nó không nhận thêm.
Ban sáng khi bọn lính đi cướp rơm của bà con trong xóm có để lộ ý định xông hang thì nhiều bà con đã cười thầm trong bụng rồi.
Ông Tư Đờn đã nói với bọn lính:
Tui tiếc chi ba cọng rơm, mấy người muốn lấy rơm đem xông Việt cộng thì cứ lấy. Tui chỉ e không ăn thua gì đâu!
Sao không ăn thuá
Không xông nổi đâu!
Một tên bảo:
Thôi, đi vác rơm đi tụi mày, ở đó nói lần khân với ổng làm chi, ổng mù, chuyện giặc giã làm sao ổng biết được!
Chúng không dè ông Từ Đờn biết rõ: Ông biết không thể nào xông khói vô hang được, nên ông mới nói thế.
Bây giờ lời nói ông đã được chứng thực. Khói cứ vẫn bay ngược trở ra. Tên thiếu úy mắt nhắm mắt mở bảo bọn lính:
Như vậy không xong. Tụi bây phải vác sào chỏi đống rơm đó vô miệng hang sâu sâu một chút mới được.
Ba bốn thằng lính cầm sào tre, mon men lại gần miệng hang vừa đi vừa tránh khói thổi tạt vô mặt. Chúng đứng lóm thóm tại đó một chút rồi liều mạng nhảy đại ra trước miệng hang, cầm sào đẩy rơm vào lia lịa. Đống rơm đang cháy bị đẩy vào sâu hơn. Bọn lính đẩy xong vội vàng chạy lùi về. Nhưng lần này tên thiếu úy và cả bọn lính đều thất vọng. Khói trong miệng hang vẫn cứ cuồn cuộn bay ra. Một bên lính giụi mắt càu nhàu:
Gẫm ra ông già mù trong xóm nói phải. Khói không chịu bay vô mà ăn thua mẹ gì!
Anh Ba à, nhắm không êm thì mình rút về tính kế khác, chớ láng cháng ở đây...
Phải đó, ở đây không nên, rủi tụi nó trong hang xổ ra mình trở tay không kịp1
Tên thiếu úy Ba tức giận quát lớn:
Không nên, không nên cái con c... Tụi nó ra thì sanh tử với tụi nó, không rút đi đâu hết thảy!
Hắn lại chửi thề thêm một câu nữa, rất tục. Rủi thay, giữa lúc hắn đang nổi giận thì từ trong mé vườn có một tên lính hớt hải chạy ra. Đó là tên lính ban nãy theo lịnh hắn vào xóm kiếm thằng Xăm.
Tên này chạy đến nơi, mặt xanh mét không còn một giọt máu. Nó nói như muốn đứt thở:
Trung.... Trung úy chết rồi!
Tên thiếu úy Ba chưng hửng, chưa kịp hỏi thì tên lính lại hổn hển nói:
Thằng Hai Nhỏ cũng chết... Trung úy với thằng Hai Nhỏ bị chém. Trung úy đứt đầu. Châu cha, máu chảy đầy một bộ ván...
Ai chém? Bắt được chưa? Mà chém ở đâu?
Tại nhà bà già của trung úy. Chưa biết ai chém. Tôi bước vô thấy hai người nằm, ruồi bu đầy cổ, chớ không thấy có ai ở đấy hết1
Thôi chết mẹ rồi,Việt cộng trong xóm bắt đầu ám sát rồi!
Tao nghi...
Mặt tên thiếu úy tái hẳn lại. Hắn hỏi:
Cho thiếu tá hay chưa?
Tên lính đáp:
Rồi, tôi chạy lên cho ổng hay rồi!
Ông nói sao?
Ông đương nhậu, buông rớt bể cái ly...
Tên thiếu úy không hỏi thêm gì nữa. Hắn liền ra lịnh bỏ cuộc un hang. Bọn lính vứt sào tre, không màng tới đám rơm còn đang cháy hù hù. Tất cả kéo nhau qua khoảng đất trống. Những tên lính bị chảy nước mắt và những tên lính không bị chảy nước mắt, tất cả đều bị cái tin rùng rợn kia làm cho chân tay bủn rủn. Đây là lần đầu tiên bọn lính biệt kích hoang mang run sợ nhất.
Lâu nay thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Bọn chúng vẫn tin rằng hễ có mặt thằng Xăm trong trận đánh phá nào thì trận đánh phá đó ắt phải kết quả. Chúng tin rằng đi theo thằng Xăm thì chỉ chúng giết được người khác chớ người khác không bao giờ giết được chúng. Lâu nay thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác. Khi phát hiện trên đồng nước một bóng cán bộ nào thì hắn chạy sải tới như ngựa, hạ lệnh rượt đến cùng, dù làng nước ấy ngập có tới gối, dù người cán bộ đó ở cách xa hằng ba bốn cây số. Đi biệt kích, hắn thường đánh thức bọn chúng dậy giữa đêm mưa và nói rằng chỉ có đi trongđêm mưa mới đánh được Việt cộng. Ban đầu bọn chúng còn rụt rè chưa dám ăn thịt người, thì thằng Xăm nhai nghiến ngấu, luôn miệng bảo trên đời không có thịt con nào ngon hơn thịt con người. Đối với phụ nữ, trừ mẹ và em gái, hắn có hiếp bất cứ ai. Sau lúc hiếp hắn còn cắn vú họ, hút máu, và nói rằng máu đàn bà còn bổ hơn máu đàn ông.
Hắn là một đứa như thế. Và chính nhờ thế hắn mới được Ngô Đình Diệm phong là một trong sáu anh hùng của quân đoàn bốn, trấn cứ tại miền Tây Nam Bộ. Đại đội biệt kích của hắn chả khác gì con rắn độc, mà hắn là cái đầu. Bây giờ đầu rắn bị chặt rời nên mình rắn là cái bọn biệt kích kia cũng tức khắc oằn oại.
Trên mặt tên thiếu úy Ba, vẻ hùng hồn đã chết lặng, nhường chỗ cho nỗi hoảng sợ hiện lên làn da mặt mỗi lúc một xanh tái. Từ khoảng đất trống dẫn tới mé vườn, hắn đi vấp ngã mấy lượt. Đôi tên biệt kích còn ngó ngoái lại miệng hang. Hôm nay đứa nào cũng thấy trong người rã rời. Cái tin thằng Xăm bị chết một cách đột ngột cùng cuộc un hang thất bại gieo vào lòng chúng nỗi chán ngán đến mệt mỏi. Sau lưng chúng, đống rơm ở miệng hang đã cháy rụi. Khói trắng bay là là ra tới khoảng đất trống. Đống tro rơm trên miệng hang bỗng sụp xuống và phần trên miệng hang lộ ra.
Cả bọn kéo về tới bên bờ suối. Tên thiếu tá cũng có mặt ở đó. Khi biết việc đốt hang thất bại, hắn lầm bầm chửu tục, mặt quạu quọ
Từ đêm qua tới nay hắn gặp toàn chuyện rắc rối. Mấy hôm trước dân Hòn Đất còn im lặng. Thế mà từ sau khi hắn xuống lệnh giết chết một người con gái thì ngay đêm đó hắn bắt đầu phải đối phó với bao nhiêu vụ. Nào là dân chúng biểu tình ban đêm, nào là dân chúng bắt bọn lính đốn tre dẫn tới chỗ hắn, đòi hắn phải bồi thường. Rồi thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch un hang do hắn bày ra đã hỏng bét.
Sau khi chửi thề, hắn nói với tên thiếu úy Ba:
Thôi được, un hang không được thì sẽ lấp hang. Về vụ này tôi nghi trung úy Xăm và thằng Hai Nhỏ bị con mẹ đằng Thổ chém. Nghe nói con mẻ điên...
Thưa thiếu tá, tôi cũng nghi vậy. Đâu có ai vô đó... Con mẹ đo coi ghê lắm, phải bắt con mẻ đó mới được!
Nó trốn rồi. Tự nãy giờ cho lính kiếm giáp xóm mà không gặp. Tôi tính bắt con nhỏ đằng Thổ lai em của trung úy Xăm đem về khảo thử, nhưng dân chúng họ cự dữ quá, họ giựt con nhỏ đó lại...
Thưa thiếu tá, tụi dân chúng ở đây coi bản mặt đứa nào cũng lầm lầm lì lì. Chắc phải "mổ" vài đứa cho tụi nó hoảng mới được.
Tên thiếu tá không đáp, đưa cánh tay đen nhánh lên nhìn đồng hồ. Hắn nói:
Gần hai giờ rồi. Bây giờ anh cho lính tới đó vác xác hai người đem chôn đi. Tôi còn phải lại trường học coi số lính bị thương hổm rầy ra sao. Nghe nói họ rên la dữ quá. Đ.mẹ kêu trực thăng rát cổ họng mà chớ có tới một chiếc. Bộ bị Việt cộng bắn rớt hết rồi sao không biết?...
Tên thiếu tá nói xong, quay lưng kêu bọn lính đi với mình vào xóm.
.... Tại cái trường học mà ngay từ hôm đầu tiên bọn chúng đã vứt tất cả bàn ghế ra sân, tên thiếu tá đứng trước một cảnh tưởng khủng khiếp. Trên những tấm vải bạt xám trải đất, bọn lính bị thương nằm chặt hết không còn một chỗ trống. Những thân hình xám xịt, hôi hám buộc đầy bông băng cứ ngọ ngoạy tay chân, quờ qua quờ lại. Trên vải bạt vương đầy những miếng bông dán máu khô sẫm và những lớp vải băng tuột ra lòng thòng, giây máu giây đất trông rất bẩn. Bọn lính bị thương chửi rủa luôn miệng và rên rỉ đủ kiểu khác nhau tùy theo thương tích của từng tên. Chúng rên hư hư như trẻ con khóc. Chúng chắc lưỡi hoặc rít dài. Có tên thở hộc hộc và có những tên từ cuống họng chợt phá ra tiếng ơ ớ như người nằm mê gặp mộng dữ, muốn rú lên mà không rú được.
Tại đây chỉ còn lại bọn lính bị thương nặng. Bọn bị thương nhẹ có hy vọng tiếp tục cầm súng đã được chở đi hồi trưa hôm qua, cùng chuyến trực thăng đổ xuống lấy xác tên Mỹ.
Tên thiếu tá chau mày trước những hình hài lăn lộn, đang rên rỉ và chửi rủa. Mấy tên nằm ở gốc ngoài chẳng biết có thấy thiếu tá của chúng đang đứng đấy hay không, mà chúng cứ lôi tên thiếu tá ra chửi. Nghe chửi một lúc, tên thiếu tá nóng mặt hất hàm bảo bọn lính:
Tụi bây biểu nó câm miệng đi, không thôi ta xổ cho một băng đạn bây giờ!
Một tên lính chạy sấn vào nạt lớn:
Im đ, làm gì mà cứ rống lên vậy. Thiếu tá bắn chêt mẹ hết bây giờ!
Đ.mẹ, thiếu tá, thiếu tá đâu? Thiếu tá đâu?
Mấy tên lính càng chửi dữ rồi chồm tới phía cửa, muốn chụp chân tên lính vừa nói. Tên lính hoảng sợ rụt chân, lui lại. Bọn bị thương gào lên như xé họng. Chúng bò nhoài ra phía cửa hông ngôi trường, chửi xối xả vào mặt tên thiếu tá, bảo rằng chính hắn đã bắt chúng đi chết bỏ vợ bỏ con. Tên thiếu tá đứng yên cúi nhìn mấy tên lính bị thương đang chồm về phía mình. Hắn thét:
Câm, tao biểu câm miệng!
Nhưng bọn này vẫn không ngớt lời quyền rủa. Chúng còn hăm nếu mà chúng chết, chúng sẽ bắt hồn tên thiếu tá đi theo.
Một bàn tay dài ngoẵng của tên lính đã với lên tới mũi giày da đen cao cổ bám đầy bụi của tên thiếu tá. Tên thiếu tá nháy mắt bảo tên lính mang tôm-xông đứng gác tại cửa:
Bắn nó cho taó
Tên lính kéo tôm-xông ra khỏi vai. Nhưng rồi tên lính ấy cứ đứng trơ ra, miệng há hốc, ngón tay đặt nơi cò súng cứ run lẩy bẩy. Nó không bắn được. Tên thiếu tá không đợi nữa. Hắn thò tay mở bao súng rút khẩu "côn 12" chĩa xuống cái đầu băng bó đỏ lòm dưới cân mình bắn "đẹt" ngay một phát. Người lính bị thương chúi đầu xuống, hai bàn tay ôm lấy ống giày tên thiếu tá từ từ buông rời ra.
Sau khi giết chết tên lính, tên thiếu tá quay mũi súng sang tên lính cầm tiểu liên tôm-xông, nghiến hàm răng vàng lóa:
Ê, sao biểu bắn mày không bắn mậy?
Tên lính không đáp. Nhưng khẩu tôm-xông trong tay tên lính tự nhiện cũng chĩa vào người tên thiếu tá. Hai họng súng đều run run. Tên thiếu tá bỗng tái mặt. Hắn thấy đôi mắt tên lính bây đỏ ngầu, và bàn tay trái của tên lính nắm chặt lấy băng đạn tôm-xông còn đầy ắp. Lát sau, tay súng ngắn gên thiếu tá từ từ hạ xuống. Hắn vừa đưa mắt nhìn tên lính, vừa cho súng vào bao. Tên lính thì vẫn cứ chĩa họng súng vào người hắn. Đến mấy giây sau, tên lính mới chúc mũi súng, khoác mạnh vào vai.
Rời cái trường học cứ văng vẳng tiếng rên la, tên thiếu tá nghĩ: "Mình phải giết thằng này mới được. Nếu không nó sẽ bắn mình".
Tên lính cũng mấy lần liếc nhìn tên thiếu tá: "Thế nào nó cũng trả thù. Có dịp là mình phải bắn hạ nó trước!"
Trên đường đi, hai tên cùng một lúc đoán đúng bụng dạ và ý định của nhau.
Tới gần bốn giờ chiều, một chuyến máy bay trực thăng của giặc đến Hòn Đất. Giữa tiếng sóng biển, động cơ trực thăng vẫn vọng rõ, nghe hù hù, ở bên trên tiếng sóng. Đến lúc người Hòn Đất nghe tiếng động cơ ầm ầm thì ngước mắt lên, họ đã trông thấy tất cả có sáu chiếc từbiển bay vào. Gồm có bốn chiếc trực thăng hai động cơ mà bấy giờ bà con đã quen gọi là "cán gáo". Cái hình thù của những chiếc trực thăng này nom rất quái đản. Nó gieo cho bà con nông dân thuần phác cái ấn tượng về sự bất lương, vừa thô bạo lại vừa rất đỗi ma mị.
Trên vòm trời xanh ngăn ngắt, những hình thù đó hiện ra ngọ ngoạy lủi tới, đe dọa mọi người. Khi chúng bay qua khỏi bờ biển trào sóng, lập tức cả sáu chiếc đều sà xuống thấp. Những cái chong chóng to lớn ở gần đầu và gần đuôi chúng quay tít, kêu lạch cạch, tưởng chừng như chúng sắp sửa đổ xuống đến nơi. Nhưng không, chúng vẫn đang bay. Có điều là chúng bay thấp, nên vườn lá liền chuyển động. Những tàu lá dừa gặp phải trận gió cuộn lốc, lúc oằn xuống, lúc cong vút lên. Vườn vú sữa, vườn măng cụt, vườn li-ki-ma bỗng rào rào, vật vã. Tất cả mọi chiếc lá còn đẫm ánh mặt trời bị thổi riệt bay lật ngược ra sau thân cành.
Đàn trực thăng nặng nề sà qua những vườn quả đó, nơi màu xanh mướt mượt của cây lá tiếp giáp với màu xanh sẫm của biển chiều. Những con quái vật này rít rống, rền rĩ bay quá tu những trái măng cụt nâu rám, trái vú sữa tím ửng, trái mãng cầu ta xanh phơn phớt và như có rắc phấn. Chúng bay qua Hòn Đất nín lặng, bấy giờ ở miệng hang còn lơ lửng vài làn khói rơm yếu ớt, mong manh như những sợi chỉ.
Đàn trực thăng bay qua khỏi Hòn Đất một đỗi bỗng vòng trở lại ruộng trống. Lần này đầu máy bay trực thăng nhủi xuống. Tiếng động cơ nổ ầm ầm, vang rền. Trông chúng giống như những con cá lốc lơi vội, mà những cong chóng trên thân thì lại giống như những cái vây cá đang quạt. Cửa hông sáu chiếc máy bay đều đã hoác và bắc sẫn thang. Mấy tên Mỹ ló đầu ra các cửa sổ ấy, ngó xuống. Tên Mỹ nào cũng đeo kính đen lớn, mặt đỏ gay.
Sáu chiếc trực thăng lần lượt hạ xuống mặt ruộng. Những gốc rạ liền vật vã, cơ hồ như sắp bị nổ bật cả gốc lên.
Khi những chong chóng trực thăng lạch bạch quay chậm lại thì bọn lính trong vườn chạy ùa ra. Hai tên Mỹ trên máy bay bước xuống thang, đi về phía chúng. Hai tên Mỹ xì xồ nói gì, rồi có mấy tên lính chạy trở vào ven vườn. Bọn lính còn lại đi đến chỗ các máy bay đậu, leo lên thang. Chúng khuân trong máy bay ra rất nhiều bao xi măng, một số thùng sắt sơn xám, và cuối cùng là một cái chân máy chiếu bóng cùng những cái loa lớn.
Tên thiếu úy tâm lý chiến bộ mặt vênh váo chạy lộp bộp đến bên thằng lính vác cái chân chả ba. Hắn rờ rẫm cái chân máy chiếu bóng, nói với lũ lính:
ý kiến của tao đã được bên trên chấp thuận. Hay lắm, máy móc và phim đã tới. Anh em sẽ được coi xinê!
Hát bóng hả thiếu úý
Phải, hát bóng!
Bỗng phía sau lưng, một tên lính, thở dài:
Non nước này mà còn mà hát bóng. Vui vẻ gì mà hát!
Tên thiếu úy nghe lọt tai câu nói. Hắn trề môi:
Ê, không phải chiếu cho tụi bây coi đâu. Đây là chiếu cho tụi Việt cộng và dân chúng coi, hiểu chưa?
Sao lại chiếu cho Việt cộng và dân chúng coi, thưa thiếu úy?
Tụi bây khờ quá, đánh với Việt cộng mà đánh bằng súng đâu có được, phải đánh bằng cú tâm lý nữa chớ. Để tao nói cho nghe, bộ phim này là bộ phim của Hoa Kỳ, gay cấn lắm, quay cảnh Huê Kỳ đánh với Trung cộng và Bắc Cao tại một trái núi. Huê Kỳ đánh tan trái núi đó làm tụi Trung cộng và Bắc Cao chết không còn một mạng...
Tên thiếu úy dừng lại, tự trỏ vào ngực:
Sáng kiến của tao đó nghe. Tao yêu cầu trên cho đem chiếu bộ phim đó trước cửa hang để tụi Việt cộng trong hang coi đặng, rủn chí. Chừng chiếu sẽ dồn dần Hòn Đất tới coi nữa, cho nó ngán...
Bọn lính tấm tắc:
Vậy thì hay lắm1
Một tên vọt miệng khen:
ờ, chiếu cái tuồng đó chắc tụi nó ớn. Thiếu tá có sáng kiến thiệt. Hèn chi thiếu úy theo ngành tâm lý chiến là phải
Tên thiếu úy được khen phổng mũi. Hắn lấy giọng nghiêm trang:
Đánh với Việt cộng phải đánh vậy mới được chớ. Nè, mà tao dặn, tụi bây biết vậy thôi. Không được đi nói rum nghe chưa?
Bón lính bảo là sẽ không nói với ai. Chúng hè hụi khiêng vác đồ đạc vô vườn. Bọn này đi vô tới vườn thì gặp số lính bị thương cũng được võng ra tới.Tất cả có đến ngót năm mươi tên, mình mẩy băng bó, đứa nằm cong mình như con tôm, đứa nằm ngoẻo đầu trên mặt võng. Những chiếc võng ấy đi tới đây là đem theo mùi hôi thối và tiếng rên la tới đó. Trên mặt ruộng ngã chiều, bọn lính khiêng võng đi xồng xộc. Võng bố cứ oặt òa oặt oẹo đưa đẩy thân hình các tên lính đang oằn oại kia không chút thương xót. Trong bọn lính cáng võng có những tên ngồm ngoàm cạp một trái mãng cầu ta hoặc một trái vú sữa mà chúng nhặt được trong vườn. Mặt các tên lính đó coi hám ăn, hau háu. Trông chúng mới thản nhiên làm sao, trông chúng vẫn như thường. Dấn thân vào con đường đi đánh giặc mướn, tình đồng loại trong chúng đã chai đi.
Nhưng dù thế, chúng cũng còn ra sức khiêng vác bọn bị thương. Chỉ có bọn Mỹ mới thực là lạnh nhạt. Phần lớn chúng đều ngồi trên máy bay đã đậu im. Chỉ có hai tên xuống lúc nãy, giờ đứng trên khoảnh đồng, miệng ngoạm điếu thuốc dài non gang tay, phì phèo. Cả hai đều đứng xoạc chân, một tay khoanh nơi ngực, một tay thỉnh thoảng lại giật phắt điếu thuốc lá ra khỏi mép.
Khi những chiếc võng oặt oẹo tiến tới, chúng khẽ nhấc cặp kính đen đeo mắt xuống để nhìn. Rồi cả hai tên như cùng một lúc đứng nánh ra, đưa bàn tay phẩy ngang mũi. Từng chiếc võng một cứ thế nặng nề đi qua, cùng với tiếng rên và mùi hôi thối. ở một vài chiếc võng thấy nhễu xuống những giọt gì, không rõ là giọt máu hay là mủ, hay là nước rỉ vàng. Hai tên Mỹ ngoảnh mặt chỗ khác, rít thuốc, khạc nhổ lia lịa xuống ruộng.
Đám lính khiêng võng lần lượt đi qua. Những tên lính đầu sau khi trút bọn bị thương lên sàn máy bay, giờ đã quành lại. Chúng kéo lệt bệt đôi chân giày của chúng và lôi xệch những chiếc võng không trên ruộng rạ.
Sáu chiếc trực thăng bắt đầu nổ máy trở lại. Đầu tiên động cơ gầm gừ làm cho máy bay như rùng mình nhất loạt. Sau đó chúng mới gầm lớn hơn, lớn hơn nữa. Những cái chong chóng gỗ ếp nãy giờ rũ cụp xuống, nay lại dửng lên, từ từ quay. Chong chóng quay nhanh dần, nhanh dần rồi sau cùng chỉ thấy vun vút, loang loáng và phát ra tiếng ù ù, lạch bạch.
Lúc máy bay sắp cất cánh, tên thiếu tá ra tới. Hắn bắt tay hai tên Mỹ đứng dưới ruộng, nói chuyện với chúng. Trong câu chuyện, đôi khi hắn cau mày. Mặt hai tên Mỹ thì cứ khinh khnh. Thằng trung úy Mỹ vừa nói bằng cái giọng như nghẹt mũi vừa hút thuốc, hút hết điếu này lại mồi điếu khác. Về sau một tên Mỹ trên máy bay thò tay ra cửa sổ ngoắc và la:
Quick, quick!
Hai tên Mỹ quay lưng chạy về phía máy bay. Tên thiếu tá chạy theo đến bên chiếc máy bay "cán gáo" mà hai tên Mỹ vừa leo lên. Tên Trung úy Mỹ thò đầura, vẫy tay chào hắn. Hắn đứng khựng, mái tóc chải ốp xửng lên, cứng còng trước cơn gió cuộn của cánh quạt trực thăng. Sau cùng hắn giơ cả hai cánh tay ra, nói lớn:
You please, if you please
Tên trung úy nhếch miệng cười, gật gật đầu. Hắn khoát tay ra ý bảo tên thiếu tá lùi ra. Tên thiếu tá vội đi giật lùi.
Máy bay bắt đầu nổ máy mạnh hơn. Cặp thứ nhất bốc thân mình khỏi mặt đất. Chúng bay lên từng cặp một.
Tên thiếu tá giờ như đứng giữa trận dông khô. Đồng rạ dưới chân hắn chấp chới như muốn bứt gốc bay lên hết cả. Lúc những bụi rạ ấy đứng yên lại như cũ thì lạ thay, có những bụi không cất lên được nữa. Màu rạ mới trước vàng tươi, nay chợt xám ngoét.
Không phải chỉ có chỗ trực thăng hạ, cũng không phải những bụi rạ này cũng bị sức gió thô bạo của những cái chong chóng trực thăng kia xô bẹp. Đây là do những mùi máu hôi thối từ các võng nhểu xuống ban nãy, cộng thêm ánh nắng hắc của ngày tàn, nên mấy bụi rạ đó mới sinh thối lây, rủ nhẹp xuống, tên thiếu tá theo cái lối mòn rạ rũ đó mà đi vô vườn. Trong lúc sáu chiếc trực thăng một lần nữa ầm ã chở những tên lính hấp hối sà ngang vườn cây Hòn Đất, bay ra biển.
Tên trung úy ngồi ló đầu ra cửa sổ máy bay. Sau lằn kính râm màu xám nhợt, hắn nhìn thấy sóng biển chạy trườn vào bờ, rồi sóng ấy sủi trào, giạt trở lại. Hắn còn nhìn thấy bãi cát dợn lên lăn tăn, dấu vết của nước triều cùng ngày tháng. Và kia, những cọc nò nhô khỏi mặt biển không ngớt bị sóng vỗ vã. Một cái nhà trại cất trên những cột to phơi đầy lưới, chung quanh bồng bềnh vài chiếc ghe và xuồng.
Trại nò với hàng rào cách khoảng ấy gợi tên trung úy nhớ tới những cái tháp đèn và những phù tiêu trên một cửa biển nào đó mà hắn đã có dịp đi qua. Đấy là ranh giới cuối cùng đã đặt cái hòn xanh thẳm rất đỗi xa lạ kia ở lại sau lưng hắn.
Những chiếc trực thăng bay với tốc độ mau hơn. Giữa tầng không, bấy giờ chợt hiện ra mấy cụm mây khói đen trĩu nước và biển bên dưới hình như đã bắt đầu sôi sục. Sóng biển trong nháy mắt chuyển từ màu xanh mênh mông trở thành màu chỉ xám xịt.
Tên thiếu úy rụt đầu vào, hạ tấm cửa kính dầy xuống lẩm bẩm:
Trời xấu rồi!
Có lẽ sắp mưa. Tên thượng sĩ ngồi bên nói
Tên thượng sĩ nói xong đứng bật dậy khỏi ghế da, ghé mắt dòm xuống mặt biển chao sóng, miệng thì thào, run run:
Thưa trung úy, chúng ta ra tay đi thôi:
Còn gần bờ lắm.
Tên trug úy đáp và đưa tay lên xem đồng hồ. Hắn bảo:
Năm phút nữa.
Cánh tay đeo đồng hồ của tên trung úy đặt lên tấm kính cửa sổ, rờ rờ. Mấy ngón tay múp míp mọc đầy những sợi lông vàng xoăn của hắn lướt trên mặt kính, ngọ ngoạy, bồn chồn.
Từ khi bốc lên khỏi mặt đất, thân máy bay rung chuyển không ngớt. Những người lính bị thương nặng, nằm trên sàn máy bay càng thêm vật vã. Tiếng rền rĩ của họ bị động cơ ầm ầm lất ái đi không còn nghe thấy nữa.
Thân máy bay rung chuyển bắt máu từ các vết thương họ chảy ộc ra. Trường hợp chấn thương này mới gớm ghê hơn cả mọi trường hợp chấn thương khác. Nó không va xốc mạnh, nó chỉ đánh động từ từ, với nhịp độ đều đều mà không dứt. Nó là sức máy, vì vậy nó lâu bền một cách độc ác. Máu của từng người lính bị bị xốc cho chạy ra, lúc đầu còn ri rỉ, về sau cứ tuôn ồng ộc. Sàn máy bay làm bằng chất nhựa đỏ rám mặt sạn bây giờ ướt sũng máu. Và máu đó tìm chỗ chảy. Qua các đường hở nơi bậc thang, máu nhểu giọt, hòa vào cơn mưa đã bắt đầu giăng kín bầu trời, bay xiên xuống mặt biểng trắng mịt như sương như khói.
Tên trung úy Mỹ đứng dậy bỏ chân bước ngang mình bọn lính bị thương nằm nơi sàn. Hắn rẽ ngoặt vào buồng đặt máy vô tuyến điện thoại. Lát sau hắn trở ra, bước vụt qua mình các tên lính. Hắn bảo tên thượng sĩ:
Bắt đầu đi?
Tên thượng sĩ cởi áo, rón gót giày bước tới sát vách máy bay. Hắn rùn chun nắm chặt lấy một vòng sắt coi giống như cái "vô-lăng" xe có quấn đầy dây cáp, thòi ra nơi vách. Tên thượng sĩ đưa mắt liếc nhìn bọn lính nằm dưới sàn nhựa lần nữa, rồi nghiến răng xoay mạnh cái vòng sắt. Dây cáp tuồn tuột tháo ra. Lớp sàn bỗng nhiên trụt hẳn xuống, trống hoát một lỗ vuông vứt độ hai thước cạnh. Bảy tám tên lính bị thương vụt chuổi người theo khoảng sàn nhựa vừa ha ra đó, bay hắt đi. Còn vài tên không nằm đúng trên khoảng sàn, lập tức bị tên trung úy Mỹ co giày đạp hất xuống. Có tên chỉ kịp kêu "trời ơi!" rồi lọt thỏm xuống ngay. Tên sau rốt, lọt cả người xuống rồi. Nhưng hai tay với kịp, cố bám rịt lấy thành sàn. Thằng trung úy co giày định hất đôi tay ấn ra. Nhưng không biết nghĩ sao, hắn lại khom lưng cúi nhìn bàn tay người lính đang cố víu lấy mép sàn. Đôi bàn tay của người lính lóng cóng, các đốt tay ngón tay rã rời buông dần, buông dần từng phân sàn nhựa. Cuối cùng không cưỡng nổi sức gió bên dưới, mấy ngón tay đó buông hẳn.
Đám lính dẫu bị thương nặng mấy, lúc rớt xuống biển họ cũng chợt tỉnh lại. Vì nước biển chiều mưa âm ấm đã lay dậy sức sống cuối cùng trong ngót năm mưới cái cơ thể đớn đau. Chính làn nước biển đã giúp họ hiểu ra những cái phút giây khốn đốn nhất của đời họ. Khi biết rằng đây là cái chết thật sự, những con người đó bơi lội giẫy giụa một cách tuyệt vọng trong sóng. Máu hòa vào nước biển. Và nước biển mặt lại xát vào các vết thương trên người họ. Không mấy chốc họ đều đuối sức. Những lớp sóng màu chì lần lượt nhận họ chìm xuống. Những người cố vùng vẫy nhất rốt cuộc cũng bị sóng đánh gục. Tất thảy bốn mươi sáu người lính bị thương đều chỉm nghỉm xuống mặt biển chiều hôm đang gầm gào, xám xịt mưa giông.
6.
Hạ sĩ Cơ nhấc ly rượu uống một hơi. Ba người lính bảo an trạc tuổi anh ta cũng nhấc ly lên uống.
Họ đặt mấy cái ly không xuống ván, thò tay rón lấy mỗi người một thớ khô mực xé để trên đĩa.
Mưa rơi trên mái quán thí Ba ú mỗi lúc một nặng hạt. Từ nãy giờ thím Ba đứng ngoài cửa nhìn trời. Thấy trời đổ mưa to, thì thím mừng lắm. Ngay từ lúc mây khói đen bay nhanh và gió trở ngọn lành lạnh, thím đã bảo bụng: "ờ, mưa đi ông, làm ơn mưa giùm một trận lớn cho anh em tôi trong hang nhờ coi!"
Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. Đặt hai bàn tay xòe hết ngón nơi cạnh sườn, thím ngóng nhìn cụm mây đen kịt. Chưa bao giờ thím trông đợi trời mưa như bữa nay. Khi mưa rắc hột xuống mái nhà, thím lại mong tiếng rơi của nó hãy nặng hơn.
Ông trời làm coi được quá mấy cậu ơi!
Thím bước vô nhà và nói với bốn người lính như vậy.
Hạ sĩ Cơ bảo:
Chẳng biết mấy ổng ở trỏng có hứng được nước mà uống hay không?
Được chứ
Thím Ba ú nói nho nhỏ
Vậy, thì mấy ổng hết khát rồi!
Phải, không khát đâu. Hễ có mưa là nước chảy lọt vô kẽ hang, thiếu chi!
Hạ sĩ Cơ nói:
Mọi khi ra gần giêng ít khi có mưa lớn lắm!
Thím Ba ú cười tủm tỉm, nói giọng nửa giỡn nửa thật:
Thì mọi năm có như vầy đâu.... Tôi gẫm ông trời ổng ủng hộ cho Việt cộng đó a mấy cậu!
Một anh lính ngồi ở trong góc ngó chầm bầm những giọt mưa trên mái nhà tí tách rơi xuống cái rãnh ngoài cửa bấy giờ đã có nước cuộn chảy và nổi nhiều chiếc bong bóng nhỏ xíu. Người lính ấy nói:
Còn tôi, hễ ngó trời mưa là tôi rầu thúi ruột. Hồi giữa cái năm tôi bị bắt lính thì mái nhà tôi đã rệu quá cỡ. Lợp lá "cần đốp" thì giỏi gì một năm cũng phải lợp lại. Đằng này chịu đựng gần hai năm, chịu sao thấu? Rầu nhứt là đêm mưa, vợ la con khóc, vác chiếu chạy tới góc nào cũng đều bị dột. ở trong nhà không khác chi ngoài sân. Nên ông trời ổng đổ mưa là ổng hại tôi. Giờ tôi ngồi đây chớ vợ con ở nhà không biết chừng bị ướt ráo trọi rồi cũng nên...
Người lính dừng lại. Hai ngón tay anh ta se sẽ thớ khô, nói tiếp:
ở chỗ tôi lá lợp nhà mắc lắm. Hồi thời bình lái lá ở miệt Thủ chở lên còn dễ. Bây giờ giặc giã, khi lên khi không, mà bây giờ lái lá có chở lên cũng phải bán cho nhà vựa, chủ nhà vựa là mấy lão hội đồng xã mua của lái với giá hai ngàn một thiên, bán ra hia ngàn tám, ba ngàn sấp lên. Vợ con tôi đào tiền đâu ra mà mua?... Kẹt lắm, ở xứ tôi kẹt lá lắm!
Xin lỗi vậy chớ xứ cậu ở đâu
Thím Ba ú hỏi
ở Chắc Cà Đao, trong khu trù mật!
Thím Ba ú liếc nhìn người lính:
Chắc Cà Đao thì tôi biết... Nhưng... nhưng mà....
Thím nói tới đó, liền hạ thấp giọng vừa đủ để người lính nghe:
Cậu... cậu tính đi mà lại đi về khu trù mật nữa sao?
Không, không, khu trù mật đó bể rồi... Bể hồi tháng chín!
Thím Ba mới vỡ lẽ:
ạ, ạ... ra vậy...
Trong lúc bên ngoài mưa tầm tã, thím Ba khi bước xuống đất, khi ngồi lên ván, đong rượu rót rượu. Hết khô thì thím chế rượu đó ra đĩa, nướng khô bằng ngọn lửa rượu chờn vờn, tim tím. Hết dấm thì thím sớt dấm. Mọi việc đó thím lo chu tất, gọn gàng. Mấy người lính đều khoan khoái, song cũng có vẻ hơi cóm róm. Họ xuýt xoa miệng, họ xoắn đôi bàn tay vào nhau hoặc rờ rẫm đưa lướt tay tới lui trên đùi. Xem ra họ có vẻ sung sướng lắm, chừng như trong cuộc ời làm lính mướn khổ nhục của họ thì cái buổi chiều mưa lạnh được ngồi nhâm nhi này không phải là dễ kiếm. Mà cũng không phải người chủ quán nào cũng đối xử tử tế như thím Ba đây. Nên trong sự khoan khoái cóm róm kia của họ còn có sự cảm động. Gần một tuần lễ ở đây, họ đã tới quán thím Ba năm bảy lượt. Đầu tiên là hạ sĩ Cơ, về sau hạ sĩ Cơ rủ rê dắt thêm họ. Hôm kia hạ sĩ Cơ đã ngỏ ý với thím Ba là họ muốn bỏ trốn, nhờ thím mối mang giúp đỡ họ lọt qua Vàm Răng, thì thế nào họ cũng kiếm cách về được nhà ở Mặc Cần Dưng, Ba Dỗu, Vĩnh Hanh, và Chắc Cà Đao. Nên bữa chiều nay họ lại tới quán.
Mấy người lính tiếp tục uống rượu. Thím Ba ú cứ đưa tay rờ rờ mép cái đĩa đựng khô mãi một lúc rồi nói:
Tôi thấy mấy cậu đi cực khổ, bỏ vợ bỏ con thì tôi cũng bứt rứt, nên tôi có hứa giúp mấy cậu. Hứa là hứa vậy, chớ thiệt ra cũng ăn thua ở mấy cậu thôi... Không biết mấy cậu đã quyết ý chưa, tôi cũng ngại.
Hạ sĩ cơ vội bảo:
Thím đừng ngại, tụi tôi nhứt quyết rồi mà. Xin thím giúp cho được sớm chừng nào tốt chừng ấy. Hồi nãy thím không thấy trực thăng nó tới chở tụi bị thương bay khẳm dừ đó sao. Nếu mà thím thiệt lòng muốn tụi tôi thoát cảnh đó thì thím phải giúp tụi tôi mới được.
Đành là tôi giúp... nhưng mấy cậu phải dứt khoát không do dự...
Dứt khoát chớ, bộ thím không tin tụi tôi sao?
Người lính quê ở Chắc Cà Đao nói
Thím Ba ú bèn cười. Lát sau thím buông rời hai ngón tay ra khỏi mép đĩa, nghiêng người sang hạ sĩ Cơ nói ghé vào tai anh ta:
Thôi được, ngày mai trời sụp tối, cậu Chín dắt anh em lại ngã ba đây, tôi đợi....
Dà!
Nhớ nghe, mấy cậu phải y hẹn. Nếu trật vuột thì không có dịp nào nữa đâu, tôi đã...
Được rồi, được rồi!
Hạ sĩ Cơ gật đầu liên tiếp hai ba cái
Thím Ba lại rỉ tai anh ta:
Cậu dặn kỹ anh em là phải giữ kín. Thôi tin ở cậu...
Không sao, thím đừng lo!
Hạ sĩ Cơ uống thêm một ly nữa rồi bước xuống đi ra cửa. Thấy cơn mưa đã ngơn ngớt, anh nói:
Thôi, uống hết chỗ rượu đó rồi về anh em!
Ba người lính uống cạn ly rượu. Họ bước ra đứng nơi cửa, lóng ngóng rồi kẻ trước người sau chạy vụt ra đường. Sực nhớ lời chị Hai Thép mới căn dặn, thím Ba còn níu áo hạ sĩ Cơ dặn thêm:
Về vụ súng ống, có thêm cây nào nữa thì càng hay, nhưng khó quá thì thôi nghe, không nên lấn cấn lâu, dễ lộ. Cứ vác bốn cậu bốn cây cho chắc... Nhớ sụp tối ra ngã ba, tôi đợi mấy cậu ở đó... Bà con có gom góp được ít tiền cho mấy cậu làm lộ phí, đừng lo....
Hạ sĩ Cơ nghe vậy thì cúi thấp đầu, mắt hấp hái. Anh ta khẽ nói:
Thôi tôi về nghen thím!
Anh bước thoắt ra cửa, bấm mũi giày lên mặt đường đất trơn nhẫy, chệnh choạng chạy theo ba người lính phía trước. Chốc sau, anh đã đuổi kịp họ. Trong cơn mưa dịu bớt, anh vừa nhanh chân bước vào lào phào nói cho ba người lính biết những điều mà thím Ba ú vừa nói với anh.
Cơn mưa ngớt, nay lại đổ ào xuống, lớn hơn. Bốn người lính chạy lại, tay giớ lên, chới với.
Mưa mỗi lúc một to. Thoáng thấy bóng cây me lờ mờ hiện ra sau màn mưa giăng, hạ sĩ Cơ chỉ tay nói:
ở đó có nhà của ông già mù. Rấn tới đó đụt
Họ chạy riết tới cây me. Bốn người dừng đứng dưới gốc me, rũ rũ quần áo một lúc rồi chạy vô nhà ông Tư Đờn.
Ông già đang ngồi nứt vành cái rổ xúc, nghe tiếng giày lộp bộp thì biết ngay là lính. Ông còn phân biệt được đâu là tiếng giày bố nữa, nên biết chắc là lính bảo an. Đứa cháu gái khoảng mười hai mười ba tuổi ở trong bếp chạy ra, đứng quệt quệt tay vào ống quần hỏi:
Mấy ông kiếm gì?
Không, ghé đụt mưa chút mà em!
Một anh lính đáp và day sang nói với ông Tư:
Bác làm ơn cho tụi tôi đụt nhờ nghe bác!
Ông Tư vẫn buộc cái vành rổ:
Mấy ông cứ đụt!
Đứa gái nhỏ liếc mắt ngó họ rồi chạy vào bếp. Bốn người lính ngồi chồm hổm dưới đất, khoanh tay rế, ngó coi ông Tư nứt vành rổ. Một anh tấm tắc:
Bác đương cái rổ xúc này khéo quá!
Tui đương vụng chớ không đặng khéo đâu!
Ông Tư thoái thác. Anh lính hơi cụt hứng, xẽn lẽn. Nhưng anh ta lại cố hỏi thêm:
Như bác đương một ngày được mấy cái?
Có nan sẵn thì hai cái!
Ông Tư đáp gọn lỏn. Hỏi câu nào ông trả lời câu đó chớ không trả lời hơn.
Bác đương rổ như vậy kiếm ăn đủ không?
Ông Tư từ từ ngước cặp mắt tối đục:
Không đủ thì cũng phải đủ chớ ông. Tật nguyền: như tui thì làm bữa nào đong gạo bữa nấy. Đâu thể bẳng thiên hạ được....
Tụi tôi đi đây không chỉ đủ ăn gạo như bác thôi, chớ sung sướng khỉ gì?
Ông già nghe nói chợt buông lỏng cọng mây trên tay:
Mấy ông nói tui nghe không lọt. Thân già tàn tật như tui bì sao được với mấy ông kia chớ. Mấy ông còn đủ tay chân, cầm súng rong ruổi, tháng tháng lãnh lương, rồi thường khi còn kiếm được con gà con qué, mà mấy ông nói không sung sướng. Tôi nghe không lọt...
Nói bác không tin, chớ tụi tôi cực lắm...
Tui biết mấy cậu cực, cực mà đi tới đâu cũng có thịt trâu, thịt gà ăn...
Hạ sĩ Cơ buồn rầu chắc lưỡi:
Bác ơi, bác đừng nhiếc tụi tôi chi tội nghiệp. Tụi tôi không phải như mấy thằng bắn trâu bắt gà của bà con đâu!
Ông Tư mò kiếm cọng mây, tiếp tục xỏ buộc vành rổ:
tui đâu dám nhiếc mấy ông. Mà tui cũng đâu biết là ông lính nào bắt gà, ông lính nào bắt gà, ông lính nào không bắt gà... Tui chỉ biết lính mấy ông cốt tử là hay bắn trâu, bắt gà. Mới hôm qua đây bắt con gà mái đẻ của tui còn nằm trên ổ, cháu tui chạy theo giành hết sức mà giành không lại.
Tụi nó khác, tụi tôi khác bác ạ. Tụi tôi trước cũng là dân ruộng, chết đói thì chết chớ không giựt đồ của cô bác đâu!
Mấy ông nói vậy thì tui biết vậy chớ tui đâu biết hơn được!...
Tụi tôi nói thiệt mà!
Thôi thì tui cũng cho là mấy ông nói thiệt. Kể như bây giờ mấy ông còn tử tế, nhưng tui e đi hoài kiểu này thế nào mấy ông cũng làm ẩu. Đi lính "quốc gia" mà không giựt đồ, tui không tin!
Bốn người lính ngó nhau, không biết nói năng sao với ông Tư nữa!
Mưa bên ngoài vẫn tầm tã. Trời tối mịt. Ông già bỗng dịu giọng và đổi cách xưng hô.
Mưa lớn quá, trời tối chưa mấy cậu?
Tối rồi!
Ông Tư réo cháu:
Tím ơi, đốt đèn đi con!
Con bé ở trong bếp đang thổi lửa phù phù. Hồi sau nó rón rén bưng thếp đèn mỡ cá đi ra, đặt lên chõng tre. Rồi nó dọn đĩa chén. Nghe đứa cháu quơ đũa rột rẹt, ông Tư buông cái rổ hỏi ốn người lính:
Mấy cậu ăn cơm chưa?
Dạ rồi!
Tưởng chưa thì ở ăn cơm. Tui kêu nó nấu!
Dạ, cảm ơn bác, tụi tôi ăn rồi!
Ông Tư Đờn đứng dậy, khom lưng, tự đấm vào lưng mình thùm thụp. Ông quơ bàn tay tới trớc sờ thành chõng, ngồi lên. Con Tím đưa cho ông nó đôi đũa và chén cơm mới bới.
Ông cầm đũa, xới xới cơm trong chén. Bỗng ông giụi đầu đũa xuống chén, im đi một chốc rồi hỏi:
Vậy trước khi đi đây mấy cậu là dân ruộng?
Dạ phải
Hạ sĩ Cơ đáp
Sao không ở nhà mần ruộng, đi đây chi?
Ông Tư hỏi xong, chậm rãi và cơm. Con Tím gắp chỗ có nạc trong tô canh chua bỏ vào chén cho ông. Tô canh này đặt phía bên ông Tư. Hình như đứa cháu gái nấu tô canh riêng cho ông nó ăn. Thấy nó chỉ nhỏ nhẻ ăn với cá khô. Giữa lúc hai ông cháu ăn cơm, một anh lính thấy cây đờn độc huyền treo nơi vách thì bước tới coi. Anh ta khều sợi đồng bật lên tiếng kêu thánh thót, thốt nói:
Cây đờn này mà tiếng tốt quá!
Ông Tư vẫn lặng thinh và cơm. Nhưng đôi con mắt tối đục của ông chợt hướng về phía sợi dây đờn còn ngân rung chưa dứt. Ông bảo, giọng nghiêm trang:
Cậu nào đờn được thì lấy xuống đờn chơi, đừng khều phá!
Anh lính được dịp bợ cây đờn xuống, ra ngồi ngoài bậc cửa lẩy tăng tăng. Anh ta cũng quào được mấy câu vọng cổ. Tiếng đờn nhấp nhem của người lính nghe cứ lẩng cẩng, lúc dài ra thậm thượt, lúc lại hẫng đi như người bị nấc.
Ông Tư ăn cơm xong, mưa vẫn không ngớt. Ông bước xuống mò kiếm một cọng tre, ngồi xổm gối trên manh đệm, xỉa răng. Hai hố mắt ông ngó ra ngoài trời mưa chớ không màng tới tiếng đờn của người lính.
Anh lính quào hoài có mấy câu ý chừng cũng ngượng. Anh nói ướm
Nghe nói bác đờn hay lắm. Bác đờn nghe chơi!
Ông Tư như sực tỉnh, ngước mắt hỏi:
Cái gì? Tui đờn é à?
Phải, bác đờn đi, bác đờn đi!
Hạ sĩ Cơ cũng khẩn khoản
Ông già nín thinh hồi lâu, mới nói:
Ngón đờn của tui không tươi đâu...
Không, tụi tôi biết bác đờn hay lắm, bác đờn cho con em đây nó ca cái bản gì mà "đề cờ đề cờ" đó đi! Trời còn mưa dữ quá, tụi tôi chửa về được đâu!
Ông già vẫn khước từ:
Thiệt... không nói giấu gì mấy cậu, đời tui nghèo cực không thôi, nên chữ đờn của tui không đặng tươi. Người ta chê chữ đờn tui nghe nó ai oán lắm!...
Mặc dù ông Tư từ chối, hạ sĩ Cơ vẫn bợ cây đờn trên tay người lính nọ, trao lại cho ông.
Ông Tư sợ cây đờn rớt, bèn rút gối chân xuống, ôm cây đờn vào lòng. Ông đưa tay run run rờ lướt trên thân đờn hồi lâu, chép miệng nói:
Tối hôm nọ cũng có mấy cậu lính tới biểu tôi đờn cho mấy cậu nghe, thấy họ ăn nói tử tế như mấy cậu, mà lại cứ nài nỉ hoài, tui mới đờn... Về sau họ tới nghe chật nhà, bỏ cả canh gác tần phòng sao đó nên ông đại úy đi kiếm chửi bới om sòm. Ông đuổi mấy cậu lính về, quát tháo tui: "Ông già, tôi cấm ông không được tụ tập quyến rũ lính tới đờn ca nữa nghe!" Tui thưa: "Bẩm ông, tui đâu có tụ tập quyến rũ mấy cậu. Từ đầu tui đã nói với mấy cậu là tui không đờn, nhưng mấy cậu cứ một mực khăng khăng bắt tui đờn cho mấy cậu nghe, buộc lòng tui mới đờn...." Ông đại úy hăm tui: "Từ rày trở đi ông đừng đờn nữa, không thì tôi đập nát cây đờn của ông đa!" Tui mới thưa: "Dạ từ rày mấy cậu mà có rủ tui cũng không đờn nữa!"
Ông Tư kể và bàn tay gày guộc của ông không ngớt rờ rẫm vuốt ve thân đờn. Coi tuồng như cây đờn nay còn nằm trong lòng ông là một sự may mắn lắm vậy.
- Bây giờ bác cứ việc đờn đi, khỏi sợ. Ông đại úy "nghoẻo" hồi hôm kia rồi.
- Tui có nghe. Tui nghe đồn ổng bị bắn chết trước miệng hang.. phải không?
- Phải, chết trước miệng hang!
Vậy cái ông mới lên thay ổng thì sao. Nhắm có đòi đập bể đờn tui nữa không?
- Giọng hỏi của ông già bấy giờ chợt như có náu tiếng cười. Mấy người lính nói:
- Không đâu, thằng cha trung úy mới lên thay này nó không chú ý đâu!
Vậy thì được, để tui đờn mấy cậu nghe!
Ông Tư nói rồi liền vặn trục đờn kèn kẹt. Ông rút cây găm tre ở cuối thân đờn, cất tiếng gọi cháu:
- Tím ơi, rửa chén rồi chưa con?
- Chút xíu nữa ngoại ơi!
- ờ, rửa rồi ra đây ngoại biểu
Ông già quắp cây găm đờn trong năm ngón tay, ngồi đợi. Bốn người lính ngồi nhích tới.
Lát sau con Tím nhong nhong đi ra. Ông Tư nghe tiếng bước chân nó, liền giơ tay:
- Ngồi xuốngđây con. Ngoại đờn, con ca bản Nam ai cho mấy cậu này nghe
Đứa cháu gái nghe ông nó bảo thế thì mặt lộ vẻ không vui. Nó với tay kéo cái đuôi tóc nhỏ xíu như cái đuôi mèo ra trước ngực, nói ngủng ngoẳng:
- Con hổng ca đâu!
Ông Tư cười, bảo mấy người lính:
- Mấy cậu thấy không. Nó còn giận vụ con gà mái đẻ đó!
Rồi ông nhỏ nhẹ nói với cháu:
- Ca đi con. Mấy cậu lính đây tử tế chớ không phải như tụi hôm qua đâu. Mấy cậu.. cũng nghèo như mình.
Con Tím chẳng nói chẳng rằng, nó với cái khăn sọc vắt trên vai ông nó lau đôi bàn tay nhỏ ướt nước. Lau rồi, nó vắt khăn lên vai ông nó như cũ. Dưới ánh đèn mỡ cá chập chờn, nó mở to mắt nhìn chằm chằm xuống đệm. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn mấy người lính. ánh mắt của con Tím hơi dịu bớt vẻ hằn học. Khuôn mặt của nó coi sáng sủa, nhưng da mặt bị rỗ huê lấm tấm (chắc là dấu vết của một trận đậu mùa khủng khiếp nào đó để lại).
Ông già biết chắc cháu mình thế nào cũng sẽ hát, nên một tay cầm trục đờn, một tay cầm găm ông bắt đầu dạo vô. Khi những ngón tay khô gầy của ông xeo nhẹ cây găm, tức khắc sợi dây đồng chợt như rùng mình nức nở. Khúc dạo vô chưa chi nghe đã rưng rưng, thê thiết. Con Tím như bị tiếng đờn của ông nó thu hút. Đôi mắt con bé từ từ ngước lên, long lanh sáng rực. Nó nhìn ra đêm mưa rơi, và bàn tay bé nhỏ của nó bỗng bíu chặt lấy vạt áo mốc cời của người ông. Chữ đờn cuối của khúc nhạc dạo chợt ngắt ngang. Bàn tay cầm trục của ông Tư co quắp lại, giật bắn lên. Còn bên tay cầm găm của ông thì cất quá khỏi sợi dây đờn lúc ấy đang ngân cao vời vợi.
Không khí gian nhà bỗng như lắng xuống. Con Tím liền cất tiếng ca:
Khi vâng ơ..chiếu chỉ ra đề cờ..
Cây găm trong tay ông Tư cũng liền lẩy đờn rất nhanh. Chữ đờn của ông dìu đưa tiếng ca của đứa cháu bay theo:
Từ chàng đi ơ.. thiếp bặt tin đợi chờ
Như hồng nhạn cao phi
Sông Hớn ơ..bơ vơ..
Não nùng tiếng ngẩn ngơ
Má phấn ơ.. duyên phai lợt
Hồng nhan luống đợi chờ
Trướng lý đành để dính bụi trần nhơ..
Tiếng ca của con Tím nghe non nớt quá, mà tiếng đờn của ông Tư là tiếng đờn già dặn của cả một đời người sáu mươi năm tủi cực đau thương dồn nén. Sự khác biệt đó tạo nên một mối tương phản lạ lùng:
..Kìa cờ ai tiếng trống gióng xa xa
Ai hay là chiếu chỉ triệu chồng ta
Chốn giang biên chàng có hay chăng là
..
Giọng ca của con Tím chấp chới
Từ chàng ra chốn cung đao..
Thiếp trông tin chàng như cá trông sao..
Sợi dây đờn bây giờ không lẻ loi nữa. Dường như không phải chỉ có mỗi mình nó trên thân đờn nữa mà là có rất nhiều sợi. Đây thật không thể nói là ngón đờn tươi hay không tươi, ai oán hay không ai oán. Đây là tiếng đờn chạnh lòng chạnh dạ, buộc người xa vợ phải nhớ vợ, ai xa con sẽ nhớ con. Đây là sợi tơ đồng réo gọi tình thương nhớ làng quê, nhớ sông nước bến bờ, nhớ mồ mả tổ tiên. Bốn người lính đều cúi đầu, tóc phủ xõa gối.
Trong lúc tiếng đờn vẫn cứ khoắc khoải vẳng lên những tiếng đờn ly biệt, bồn chồn. Ngoài mưa vẫn không ngừng rơi. Ánh đèn mỡ cá lù mù rội những hạt mưa ngoài cửa đang bay xiên, loang loáng.