Xem bài viết đơn
  #3  
Old 09-04-2008, 01:11 PM
hanhlc hanhlc is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: Apr 2008
Đến từ: HCM
Bài gởi: 14
Thời gian online: 0
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
TÂY TẠNG HUYỀN BÍ
Chương 7


Trại Hoa Hường

Qua ngày hôm sau, Thầy trò chúng tôi sửa soạn để trở về tư tưởng viện Chakpori. Chúng tôi không vội vàng lắm vì chúng tôi cảm thấy được nghỉ ngơi thoải mái tại điện Potala. Trước khi lên đường, tôi bước nhanh lên nón điển để ngắm nhìn phong cảnh một lần cuối cùng. Xuyên qua cái ống dòm nhìn về nóc tư tưởng viện Chakpori, tôi thấy một thiếu nhi sơ cơ đang nằm dài trên sân thượng để đọc sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc để ném những viên sỏi nhỏ lên cái đầu trọc của các sư sãi đang đi qua lại ở sân dưới. Trong ống dòm tôi nhìn thấy nụ cười ranh mãnh của y, khi y vội vàng ẩn núp để tránh những cái nhìn ngạc nhiên mà các nạn nhân của y phóng lên trời. Nhân dịp này, tôi cảm thấy băn khoăn lo sợ vì chắc hẳn là đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhìn thấy chính tôi có nhiều lần đùa nghịch giống y như vậy! Kể từ khi đó, tôi quyết định giới hạn những sự nghịch ngợm tinh quái của tôi ở những góc nhà của tu viện mà người ta không nhìn thấy được từ trên nóc điện Potala.
Giờ lên đường đã điểm. Chúng tôi từ giã và cám ơn các vị Lạt Ma đã giúp cho thời gian lưu trú ngắn ngủi của chúng tôi tại đây được thoải mái và dễ chịu. Chúng tôi cũng tỏ lòng ưu ái cảm tạ viên Huỳnh Môn Quan của đức Đạt Lai Lạt Ma, là người thủ kho lương thực, đã phân phát trà bánh và kẹo mứt ngon có tiếng nhập cảng từ bên Ấn Độ cho chúng tôi dùng tự do tùy thích. Viên Huỳnh Môn Quan chắc hẳn là có thiện cảm với tôi, vì lúc từ giã, người còn đưa tặng cho tôi một món quà ngon mà tôi không ngần ngại đút vào miệng nhai liền khi đó. Sau khi ăn uống no đầy đủ lấy sức, chúng tôi bắt đầu đi xuống cầu thang lớn để trở về tu viện. Chúng tôi vừa xuống được nửa cầu thang, thì nghe những tiếng gọi giật lại, những sư sãi đi ngang qua đó ra dấu cho chúng tôi hãy quay đầu nhìn lại phía sau. Một sư sãi hộc tốc chạy xuống cầu thang vừa thở dốc và chuyển giao một thông điệp cho Minh Gia Đại Đức. Sư Phụ tôi nói:
- Lâm Bá, con hãy đợi ta ở đây, ta đi sẽ không lâu.
Kế đó, người quay lưng đi trở lên cầu thang. Tôi bèn đi dạo chơi thơ thẩn một mình, nhìn xem phong cảnh, và ngắm nhìn ngôi nhà cũ của tôi ở đằng xa. Tôi đang miên man nghĩ đến những kỷ niệm xưa, thì vừa quay đầu trở lại, tôi xuýt nữa thì té ngửa khi tôi thấy cha tôi cưỡi ngựa chạy về phía chỗ tôi đứng. Đúng vào lúc mà tôi nhìn cha tôi, thì người cũng thấy tôi. Cha tôi hơi nghiêng đầu tới trước để xem cho rõ khi người nhận ra tôi. Nhưng cha tôi đi ngang qua trước mặt tôi mà không nhìn tôi nữa. Tôi cảm thấy lòng buồn vô hạn. Tôi nhìn theo cha tôi đi ra xa. Tôi gọi theo: "Cha!" Nhưng người vẫn tiếp tục thong thả cưỡi ngựa đi luôn dường như người không nghe tiếng tôi gọi. Tôi rơm rớm nước mắt và run lên vì xúc động. Nếu lúc ấy tôi đứng giữa đám đông người, thì tôi đã tự chuốc lấy một điều bẽn lẽn, hổ thẹn trước công chúng, và nhất là lại ở trên cầu thang của điện Potala! Với một ý chí làm chủ bộ thần kinh đa cảm của mình, nó làm chính tôi cũng phải ngạc nhiên, tôi ngẩn mặt lên và nhìn về phía thành phố Lhassa.
Nửa giờ sau, Minh Gia Đại Đức đã trở xuống với hai con ngựa và nói với tôi:
- Lâm Bá, hãy mau lên ngựa, chúng ta phải đi mau đến viện Séra, vì một trong các vị sư già mới bị tai nạn.
Nhận thấy ở mỗi bên yên ngựa đều có treo một bao da, tôi đoán rằng đó là những bao đựng đồ y (dược và dụng cụ) của Sư Phụ trên đường Lingkhor, chúng tôi sãi ngựa qua trước nhà của tôi; những người hành hương và hành khất đều tránh qua một bên đường. Không bao lâu, chúng tôi đến tu viện Séra, tại đây đã có một nhóm sư sãi đã đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi xuống ngựa, mỗi người cầm một bao y cụ trong tay; khi ấy một vị sư đưa chúng tôi vào một phòng tại đây có một vị lão tăng đang nằm thoi thóp.
Vị lão tăng có sắc mặt nhợt nhạt như chì, nguồn sinh lực của ông dường như đã sắp tàn. Minh Gia Đại Đức gọi đem nước sôi; nồi nước sôi đã sẵn sàng, người bèn bỏ vào đó vài nhúm dược thảo. Trong khi tôi quậy nồi nước sôi cho ngấm thuốc, Sư Phụ tôi khám bịnh cho vị lão tăng và được biết vị này vừa bị té vỡ sọ từ trên cao xuống đất. Một cái xương dẹp trên đầu bị trật khớp đè lên óc, làm ông ta bất tỉnh nhân sự.
Khi nồi nước thuốc đã nguội bớt, chúng tôi dùng một ít để rửa trán của người bịnh. Sư Phụ cũng lấy nước thuốc ấy để rửa tay và ngâm những đồ y cụ giải phẫu vào nồi thuốc để khử trùng. Nhờ công dụng của chất thuốc ấy, vết thương của ông lão không còn rỉ máu nhiều. Kế đó, Sư Phụ lấy trong nồi thuốc ra hai cái gắp bằng bạc, đầu dẹp và có răng cưa. Người cẩn thận dùng hai cái gắp ấy lật miếng da đầu bị rách lên, đỡ lấy cái xương sọ bị trật khớp và đặt nó nằm ngay trở lại vị trí cũ. Xong, người nói:
- Cái xương sẽ tự nó hàn gắn vào khớp trở lại như thường, và không còn đè lên óc nữa.
Người lại rửa vết thương với chất nước thuốc, và đặt lại chỗ cũ cái mảng da đầu đã đặt lên lúc nãy. Sau đó người mới may kín vết thương bằng lông bờm ngựa trụng nước sôi và đắp thuốc lên trên rồi băng lại cẩn thận.
Sau khi bộ óc ông ta được giải tỏa khỏi miếng xương sọ đè lên trên, vị lão tăng đã bắt đầu lấy sức lại và cảm thấy khỏe dần. Chúng tôi đặt thêm vài chiếc gối dưới lưng để cho ông ta có thể ngồi nhổm dậy một cách thoải mái. Tôi rửa sạch các đồ y cụ, rồi lau bằng một miếng giẻ đã khử trùng và sắp lại cẩn thận trong hai cái bao da. Khi tôi rửa tay, vị lão tăng mở mắt ra và nở một nụ cười yếu ớt khi ông ta nhận ra Minh Gia Đại Đức đang ngồi bên cạnh giường. Ông lão nói:
- Tôi biết chỉ có ông là người duy nhất có thể cứu được tôi, vì thế tôi đã gửi một thông điệp bằng tư tưởng đến điện Potala. Sứ mạng của tôi ở thế gian chưa hoàn tất, vì vậy nên tôi chưa sẵn sàng rời bỏ thể xác.
Sư Phụ tôi chăm chú nhìn ông lão và đáp:
- Sư ông sẽ chóng khỏi. Chỉ cần chịu đựng vài ngày khó nhọc nữa, một hay hai cơn nhức đầu, rồi sau đó sư ông sẽ bình phục lại sức khỏe và làm việc như bình thường. Tuy nhiên, trong khi ngủ, phải có một người trực một bên để giữ cho sư ông đừng nằm dài. Nội trong ba hay bốn ngày nữa, là sư ông sẽ thoát nạn.
Tôi bước lại gần cửa sổ. Thật là một điều lý thú mà nhìn xem cách sinh hoạt của các sư sãi của một tu viện khác. Sư Phụ bước đến gần tôi và nói:
- Bây giờ, ta sẽ đưa con đi viếng thăm một cộng đồng sư sãi sinh hoạt rất khác hẳn với tư tưởng viện của chúng ta.
Sau khi đã giao người bịnh cho một vị Lạt Ma săn sóc, chúng tôi bước ra ngoài hành lang. Tu viện này không được gìn giữ sạch sẽ như tư tưởng viện Chakpori. Kỷ luật cũng không được nghiêm ngặt lắm: Các sư sãi đi lại tự do tùy ý. So với tư tưởng viện của chúng tôi, thì các thánh điện của họ không được săn sóc lau chùi tươm tất; mùi nhang khói ở đây cũng nồng nặc hơn. Từng nhóm trẻ con chơi ở ngoài sân: ở Chakpori, thì giờ này chúng phải làm việc ráo riết. Tu viện này hoàn toàn thiếu trật tự, sạch sẽ và kỷ luật mà tôi vẫn thường coi như là những điều luật căn bản. Sư Phụ tôi hỏi:
- Lâm Bá, con có muốn ở lại tu viện này và sống một cuộc đời dễ dãi tự do như họ chăng?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, chắc chắn là không. Con nghĩ rằng họ chỉ là một tập đoàn người man rợ.
Sư Phụ bật cười:
- Thế là ở đây có tất cả bảy người man rợ, và như vậy là hơi nhiều! Chỉ cần có một thiểu số người bê bối là đủ làm cho cả một tập đoàn phải mang tiếng, con biết không?
Một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều biết rõ, là tu viện của chúng tôi có một kỷ luật gắt gao nhất, còn ở hầu hết những tu viện khác thì kỷ luật rất là lỏng lẻo. Ở những nơi đó, nếu một sư sãi muốn giải đãi, lười biếng, thì y được tự do lười biếng mà không ai nói gì. Tu viện Séra, còn biết dưới cái tên riêng là "Trại Hoa Hường," ở cách điện Potala năm cây số và là một thành phần của nhóm cộng đồng tu viện gọi là "Tam Đỉnh Viện." Trong cộng đồng này thì tu viện Drebung với dân số không dưới mười nghìn sư sãi, là tư tưởng viện lớn nhất. Kế đó là tu viện Séra với độ chừng bảy ngàn năm trăm sư sãi, và sau hết là tu viện Ganden với gần sáu nghìn sư sãi. Tất cả ba tu viện này đồ sộ nguy nga như những thành phố thật sự, với những đường sá, trường học, đền thờ và tất cả những cơ quan, dinh thự quản trị hành chánh cần thiết. Những sư sãi cảnh binh xuất xứ từ những vùng Kham đi tuần phòng thường xuyên ở các đường phố. Nhưng bây giờ thì chắc là quân Trung Công đã thay chân của họ! Tu viện Chakpori tuy nhỏ nhưng có thế lực rất lớn. Với tư cách là một Y Viện, nó cũng là Trung Tâm Y Khoa của quốc gia, và có một số đại diện quan trọng trong Hội Đồng Chánh Phủ.
Ở tu viện Chakpori, người ta dạy cho chúng tôi môn võ thuật Tây Tạng. Không phải tất cả các tu viện đều có dạy môn võ thuật này. Trong tu viện của chúng tôi, môn võ thuật ấy được sử dụng để tập luyện cho các thiếu sinh biết tự vệ, làm chủ những phản ứng tự nhiên của mình, làm tê liệt giác quan của một người vì mục đích giải phẫu y khoa, và để có thể di chuyển một cách an toàn trong những vùng nguy hiểm nhất. Thật vậy, với tư cách là những vị Lạt Ma y sĩ, chúng tôi luôn luôn phải di chuyển đến tận những vùng hiểm trở, xa xôi, đầy những sự bất trắc, hiểm nghèo.
Võ sư Tzu, như đã nói trước đây, là một chuyên viên về môn võ thuật tự vệ, có lẽ là vị võ sư giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Ông đã dạy tôi tất cả những gì ông biết, với một tinh thần trách nhiệm và chỉ để lấy làm hài lòng vì đã làm tròn bổn phận của một võ sư. Phần nhiều những người đã trưởng thành và thành niên đều biết một vài thế võ sơ đẳng để hộ thân, nhưng về phần tôi, tôi đã tập luyện những thế võ đó từ khi mới lên bốn tuổi. Chúng tôi nghĩ rằng môn võ thuật này chỉ dùng để tự vệ và tự làm chủ lấy mình, chứ không nên dùng để biểu diễn trên võ đài như những tay thí võ chuyên nghiệp. Ở Tây Tạng, người ta thường nói rằng một người giỏi võ và có sức mạnh có thể rất ôn hòa hiền lành, còn những sự phô trương khoác lác là đặc tính của kẻ yếu. Với môn điểm huyệt, người ta có thể làm tê liệt giác quan của một người, nó có tác dụng như việc chụp thuốc mê để làm cho y không còn biết đau đớn khi cần phải giải phẫu, nắn lại khớp xương bị trặt, hay nhổ răng chẳng hạn. Người ta có thể làm cho một người trở nên bất tỉnh nhân sự, mà y không hay biết mình đã bị điểm huyệt, và vài giờ hay vài phút sau đó, y sẽ thức tỉnh và vẫn sáng suốt như cũ mà không bị một ảnh hưởng nào. Có điều lạ, là một người bị điểm huyệt lúc y đang nói chuyện, bị bất tỉnh và ngủ mê đi, đến khi thức tỉnh dậy y lại tiếp tục câu nói bị đứt đoạn từ lúc đầu. Vì môn điểm huyệt này vô cùng lợi hại như vậy, nên môn võ thuật tự vệ và điểm huyệt bí truyền của Tây Tạng chỉ được truyền thụ cho những môn đồ đã trải qua những cơn thử thách vô cùng gắt gao. Hơn nữa, để cho được cẩn mật và an toàn đến mức tuyệt đối, họ còn chịu một vài phép dẫn dụ bằng khoa thôi miên, để cho họ không thể nào lạm dụng quyền năng về sau này.
Một tu viện Lạt Ma ở Tây Tạng không phải chỉ là một nơi trú ngụ của những người có chí hướng về đường tu hành mà đó cũng là một thành phố tự trị với những cơ quan quản trị nội bộ và những nơi giải trí, tiêu khiển. Ở đó có cả những hí viện để trình diễn những màn kịch nghệ tôn giáo và văn hóa truyền thống. Những sư sãi nhạc công luôn luôn sẵn sàng biểu diễn tài nghệ để giúp vui và để chứng tỏ rằng không một công đồng tu viện nào khác có những nhạc công tài giỏi như họ. Những sư sãi có tiền của riêng có thể mua sắm các thức ăn, quần áo, đồ xa xí phẩm và sách vở trong các cửa tiệm. Những vị nào mốn tiết kiệm có thể gửi tiền vào những tào ngân khố, hoạt động giống như các ngân hàng. Tất cả những cộng đồng sinh hoạt trên thế giới đều không khỏi có những kẻ bất lương phạm pháp. Trong tu viện Lạt Ma Giáo, những kẻ bất lương này bị các sư sãi cảnh binh bắt giữ và đưa ra một tòa án riêng để xử tội họ một cách công bình. Nếu xét ra họ phạm pháp, họ sẽ phải đền tội trong khám đường của tu viện.
Trong tu viện, có những trường học để cho mỗi đứa trẻ có thể thọ lãnh một nền giáo dục thích nghi với tính chất cùng trí khôn của chúng. Người ta giúp đỡ những đứa học trò ưu tú để xây dựng cho chúng một tương lai, nhưng ở phần nhiều các tu viện, trừ ra tu viện Chakpori, những học trò lười biếng được tự do chơi bời, ngủ nghê hay dùng thời giờ để ngồi không và mơ mộng. Thật vậy, người ta nghĩ rằng vì người ta không thể nào ảnh hưởng đến cuộc đời của kẻ khác, nên tốt hơn là hãy để cho họ vớt vát lại thời giờ đã mất trong một... kiếp sau! Ở tu viện Chakpori thì không thế, và người nào không tiến bộ sẽ bị mời đi nơi khác, đến những chỗ mà kỷ luật được dễ dàng lỏng lẻo hơn.
Trong tu viện của chúng tôi, thường có những khách viếng thăm, những người lái buôn hoặc sư sãi, họ được lưu trú trong khách sạn của tu viện, và lẽ tất nhiên là cũng phải trả tiền. Không phải tất cả các sư sãi đều sống độc thân. Những người nào nghĩ rằng tình trạng độc thân không thuận tiện cho đời sống tinh thần của họ, được tự do gia nhập vào môn phái "Mũ Đỏ" Dugpas, những người trong môn phái này được phép lập gia đình. Nhưng đó chỉ là một thiểu số. Trong giới tu hành, cấp lãnh đạo được tuyển chọn trong số những tu sĩ đã lập nguyện sống độc thân, thuộc về môn phái "Mũ Vàng" Gelugpas. Trong những tu viện "cộng đồng nam nữ, " các sư sãi và ni cô làm việc sát cánh với nhau và gồm thành một tập đoàn hoàn toàn có tổ chức, với một bầu không khí thường là hòa dịu hơn những tu viện chỉ đặc biệt dành riêng cho phái nam.
Sau khi đã đi quan sát mọi nơi ở Trại Hoa Hường, chúng tôi trở lại thăm vị sư sãi già. Trong hai tiếng đồng hồ, bịnh tình của ông ta đã thuyên giảm rõ rệt, và ông ta đã có đủ sức để chú ý đến cảnh vật chung quanh. Ông ta đã có thể lắng tai chăm chú nghe Minh Gia Đại Đức mà ông ta có vẻ rất quý mến. Sư Phụ nói với ông lão:
- Bây giờ chúng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ để lại cho sư ông một ít dược thảo. Tôi sẽ đưa chỉ thị rõ ràng cho vị sư sãi có bổn phận săn sóc sư ông.
Sư Phụ đưa cho ông lão ba cái bọc nhỏ mà người lấy ra trong cái bao da. Ba bọc thuốc nhỏ này sẽ giúp cho ông lão được hoàn toàn bình phục và thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần.
Ra đến sân ngoài, chúng tôi thấy một sư sãi nắm dây cương hai con ngựa đã chực sẵn. Chúng tôi lên ngựa và cho ngựa đi từ từ chậm bước. Trại Hoa Hường chỉ cách con đường Lingkhor có sáu cây số. Tôi không có ý định đi ngang qua nhà cũ của tôi. Sư Phụ tôi có lẽ đọc được tư tưởng của tôi, vì người nói:
- Chúng ta sẽ đi qua đường để ra khu chợ. Chúng ta không có gì phải gấp rút. Ngày mai sẽ là một ngày khác mà chúng ta còn phải sống.
Khi ra đến khu chợ búa với những phố phường đông đảo, với các cửa hàng của người Tàu buôn bán tấp nập, tôi thầm nghĩ:
- A! Lần cuối cùng khi đi đến đây, tôi là một người tự do, khi ấy tôi chưa phải học để trở thành tu sĩ. Tôi chỉ ước mong thời gian qua chỉ là một giấc mộng mà tôi có thể quên hết khi tôi thức tỉnh!
Sau khi đã đi qua đường cái, chúng tôi rẽ về phía tay mặt để đến cầu Ngọc Bích. Sư Phụ quay qua phía tôi và nói:
- Như vậy, con vẫn không muốn trở thành tu sĩ phải chăng? Đó thật là một cuộc đời đáng sống, con biết không? Đến cuối tuần này, những sư sãi sẽ xuất hành như mọi năm để đi hái thuốc trên núi. Thầy không để con đi với họ năm nay. Con sẽ ở lại đây, và chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, để cho con có thể thi đậu kỳ thi tuyển các sư sãi ưu tú Trappa vào năm mười hai tuổi. Thầy đã dự định đem con theo trong một chuyến xuất hành về sau này lên những vùng Thuợng Du, tại đó có mọc những loại dược thảo rất hiếm.
Chúng tôi vừa ra khỏi làng Sho và sắp đến gần Pargo Kaling, ở cửa tây thành Lhassa, thì một kẻ hành khất đứng nép vào tường và rên rỉ:
- Thưa bác sĩ Lạt Ma, xin ngài làm phước đừng chữa khỏi bịnh cho tôi vì nếu tôi lành mạnh, tôi sẽ không còn phương tiện để kiếm ăn!
Sư Phụ có vẻ buồn man mác khi chúng tôi bước qua cửa thành và nói:
- Ở đâu cũng thấy những kẻ ăn mày. Họ làm cho xứ sở của chúng ta mang tiếng xấu ở ngoại quốc. Ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, khi thầy đến đó với đấng "Khôn Lường," người ta nói chuyện về những người ăn mày ở xứ Tây Tạng, nhưng họ không ngờ rằng vài người trong số đó lại rất giàu. Dầu sao, có lẽ sau việc thực hiện lời tiên tri về Năm Con Cọp Sắt (tức 1950, quân Trung Cộng xâm chiếm xứ Tây Tạng), những kẻ ăn mày sẽ bị bắt buộc phải làm việc. Chừng đó, Lâm Bá, trong hai thầy trò chúng ta không ai còn ở lại xứ nhà để chứng kiến việc ấy. Con sẽ sống ở ngoại quốc, còn thầy thì... đã trở về cõi Thượng Giới.
Tôi cảm thấy lòng buồn vô hạn với ý nghĩ rằng có ngày Sư Phụ mến yêu sẽ từ biệt tôi và không còn sống trên mặt đất này nữa. Hồi đó, tôi chưa biết rằng cõi đời này chỉ là hư ảo, một loạt những thử thách, một trường học lớn để cho ta rèn luyện tâm tánh. Trên đường về, tôi liên tưởng đến những người đi hái thuốc. Mỗi năm, một nhóm sư sãi của tu viện Chakpori lên núi hái thuốcvề phơi khô và dự trữ trong những bao da không thấm nước. Miền núi non xứ Tây Tạng là nơi mà thiên nhiên dành cho con người một kho dược thảo phong phú dồi dào bất tận. Tôi thầm nghĩ rằng mình có thể vắng mặt trong chuyến xuất hành năm nay, và hãy chuẩn bị tinh thần để đi lên miền Thượng Du huyền bí khi nào Sư Phụ xét ra cần thiết.
Các nhà chiêm tinh đã tiên đoán tôi sẽ thi đậu một cách dễ dàng, nhưng tôi biết rằng tôi phải học rất nhiều. Thật vậy, sự thành công chỉ được hứa hẹn với tôi với điều kiện tất yếu là tôi phải tự mình gặt hái lấy nó bằng sự làm việc. Về phương tiện tinh thần, trí não, ít nhất tôi cũng đã phát triển bằng một thiếu niên muời tám tuổi, vì tôi vẫn luôn luôn chung đụng tiếp xúc với những người lớn tuổi hơn tôi và tôi đã phải tự lực tháo vát mọi chuyện trong mọi trường hợp.
TÂY TẠNG HUYỀN BÍ


Tín Ngưỡng Và Sinh Hoạt

Dưới đây là một vài chi tiết về nền văn minh của xứ Tây Tạng nó có thể khêu gợi sự thích thú của quý độc giả. Nền tôn giáo Tây Tạng là một hình thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng nó không có một danh hiệu rõ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Tây phương đã từng biết. Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, còn Phật Giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dầu sao đi nữa, có một điều chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại.
Từ bao nhiêu thế kỷ về trước, các dân tộc phương Đông đã biết rõ về các mãnh lực huyền bí và những định luật thiên nhiên. Thay vì phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy, bởi lý do rằng người ta không thể cân lường hay quan sát phản ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong phòng thí nghiệm, những bậc danh sư bên phương Đông đã cố gắng tăng gia kiểm soát của họ đối với những mãnh lực thần bí vô hình. Thí dụ như họ đã chú ý đến những kết quả thu lượm được do bởi năng khiếu Thần Nhãn. Nhiều người cho rằng điều ấy không thể nào có được: Họ chẳng khác nào như những người mù từ thuở lọt lòng mẹ, nói rằng vốn không có thị giác, bởi vì họ không hề có kinh nghiệm về cái giác quan đó! Làm sao họ có thể hiểu được rằng một vật có thể được nhìn thấy ở cách xa trong không gian, trong khi không hề có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt của con người?
Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương mù muôn màu nghìn sắc: đó là cái hào quang. Những vị có Thần Nhãn nhìn vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu sắc đó mà suy ra tình trạng sức khỏe, đức hạnh và trình độ tiến hóa của người ấy. Cái hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân Ngã, hay linh hồn con người. Đầu người ấy cũng được bao trùm bởi một vòng hào quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, thì cái hào quang ấy tắt hẳn: Linh hồn đã rời khỏi thể xác và phiêu diêu trên một cõi giới khác để bước qua một giai đoạn sinh hoạt mới. Khi đó, nó trở thành một cái "Bóng" phất phơ, có lẽ là bởi vì nó còn hoang mang bởi sự xúc động mạnh khi nó được giải tỏa ra khỏi cái xác thân vật chất. Có thể rằng nó không hoàn toàn ý thức được những gì đã xảy ra. Bởi đó, các vị Lạt Ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối và giảng giải cho họ nghe những giai đoạn ở bên cửa tử mà họ sẽ trải qua. Chứ nếu không, thì linh hồn của họ sẽ bám víu lấy cõi trần do bởi những dục vọng của xác thịt còn chưa được thỏa mãn. Vai trò của các vị tăng lữ là cắt đứt những sợi dây trói buộc đó.
Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để dìu dắt những vong linh người chết. Sự chết không làm cho người Tây Tạng sợ sệt, họ nghĩ rằng một vài nghi thức cẩn mật có thể giúp đỡ rất nhiều để cho linh hồn bước qua cõi giới bên kia một cách dễ dàng. Cần phải vạch một lộ trình nhất định và rõ ràng, và điều khiển những tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi. Những cuộc lễ cầu siêu này được cử hành trong một ngôi đền dưới sự hiện diện của chừng độ ba trăm sư sãi. Một nhóm bốn hay năm vị Lạt Ma có thần thông, có thể giao cảm với cõi vô hình, ngồi thành vòng tròn ở chính giữa, và đối diện với nhau. Trong khi các sư sãi tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư Trưởng, các vị Lạt Ma cố gắng tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vong linh phiêu dạt, vất vưởng trong cõi vô hình. Những lời cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng tôi cũng xin được dịch đại khái như sau:
- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ vô định ở cõi bên kia cửa tử. Âm dương cách trở, người sống và người chết đều sống ở những cõi giới cách biệt nhau. Những gương mặt người chết có thể được nhìn thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể nghe được giọng nói của họ.
Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những linh hồn lạc lõng và chỉ đường cho họ.
- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ lạc lõng không người dìu dắt. Bầu thế giới này là một ảo ảnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Hữu sinh hữu diệt, vật gì có lúc sinh ra ắt phải có lúc chết. Chỉ có Phật pháp là con đường duy nhất đưa đến đời sống trường tồn vĩnh cửu. Cầu cho vong hồn các người siêu sinh tịnh độ.
Cây nhang thứ nhì được đốt lên để kêu gọi những vong hồn lạc lõng và để chỉ đường cho họ.
- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa oai quyền hống hách của thế gian, các người đã ngự trị trên những dãy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có một thời nhưng những tiếng kêu rên siết của dân tộc các ngươi không bao giờ dứt. Do lòng tham vọng chinh phục đất đai, các ngươi đã làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng thở than của những kẻ bị trị còn làm rung chuyền cây cối, thấu đến trời xanh. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.
Một cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các bậc đế vương, cùng những nhà độc tài của thiên hạ và để chỉ đường cho họ.
Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các ngươi đã gây nên tội ác đối với kẻ đồng loại và ngay trong lòng các người không có sự bằng an. Linh hồn các ngươi vất vưởng không nơi nương tựa và công lý không có ngự trong tâm của các ngươi. Cầu cho linh hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ...
Một cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn những kẻ tội lỗi đang phất phơ dật dờ trong cô quạnh.
- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ các chốn lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn mà tội lỗi của các bọn đàn ông đã làm cho ô uế, nay đang đi lang thang vô định trong cõi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.
Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để dìu dắt và giải thoát cho họ khỏi những sự trói buộc của thế gian...
Trong bóng tối ban đêm tỏa khói hương nghi ngút, những ngọn đèn bơ loe lét làm rung rinh những bóng đen ở phía sau các pho tượng thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng: Các vị Lạt Ma đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong hồn đã chết nhưng chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cõi giới phàm trần.
Những sư sãi mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài sinh cầu siêu cho các vong hồn. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ thị đưa ra cho các vong hồn và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm cũng trở nên thưa dần, cho đến khi mọi tiếng động, mọi âm thanh đều dứt hẳn, và tất cả đều đắm chìm trong im lặng.
Trong lúc thức tỉnh, linh hồn con người dính liền với thể xác và không thể tách rời ra ngoài, trừ phi y đã có trải qua một sự tập luyện về vấn đề này. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự nghỉ ngơi, còn linh hồn thì thoát ra ngoài và bước vào cõi giới tinh thần, cũng như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều, sau giờ tan học. Linh hồn được nối liền với thể xác bằng "sợi dây bạc" nó có thể kéo dài đến vô tận. Sợi dây bạc này vẫn tồn tại luôn luôn khi nào thể xác còn sống; đến lúc chết, nó bị gián đoạn để cho linh hồn bước vào một cuộc đời mới trên cõi giới tinh thần, cũng như đứa hài nhi bị cắt rún để tách rời khỏi mẹ nó. Đối với đứa hài nhi, sự sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bảo bọc che trở trong bụng mẹ. Đối với một linh hồn, sự chết có nghĩa là tái sinh trong một cõi tâm linh tự do hơn.
Khi sợi dây bạc chưa bị cắt đứt, linh hồn được tự do châu du khắp nơi trong giấc ngủ của thể xác, hoặc ngay cả trong lúc thức tỉnh nếu người ta đã có trải qua một sự luyện tập đặc biệt. Sự chu du của linh hồn trong giấc ngủ tạo nên những giấc mộng, nó là những ấn tượng được chuyển di do sự trung gian của sợi dây bạc. Trong cõi giới tâm linh, vốn không có "Thời gian", vì ý niệm về thời gian chỉ có ở cõi phàm trần hạ giới, bởi đó đôi khi những giấc mộng dài và phức tạp dường như chỉ diễn ra trong không đầy một giây đồng hồ. Một kinh nghiệm mà có lẽ ai cũng đã trải qua, là gặp trong giấc mộng một người quen ở cách ta rất xa, có thể ở cách đến muôn dặm trùng dương, ở chỗ tận cùng của thế giới, và nói chuyện với người ấy. Một thông điệp có thể đã được chuyển giao và khi thức giấc, người ta có cái cảm giác rất rõ rệt là: Có một cái gì mà mình phải nhớ. Đôi khi, người ta nhớ rằng đã gặp trong mộng một người bạn hay một người thân thích trong khi họ ở rất xa, mà người ta không ngạc nhiên mà nhận được tin của họ ít lâu sau đó. Đối với những người không luyện tập, thì trí nhớ của họ thường bị đảo lộn và kết quả là họ chỉ thấy những giấc mộng vô lý hay những cơn ác mộng.
Ở Tây Tạng, người ta thường đi châu du khắp nơi không phải bằng thuật khinh thân, mà bằng cách xuất hồn, một kỹ thuật mà họ đã hoàn toàn nắm vững. Bằng phương pháp xuất hồn, linh hồn rời khỏi thể xác và vẫn dính liền với nó bằng sợi dây bạc, trong khi đó người ta tự do di chuyển khắp nơi tùy ý muốn trong cõi vô hình với tốc lực của tư tưởng. Khả năng xuất hồn cũng gọi là xuất thần hay xuất vía, để đi châu du nơi cõi Trung giới, là một việc rất thông thường ở xứ Tây Tạng. Những người mới bắt đầu áp dụng thử phương pháp này thường hay bị xúc động mạnh, đó là do sự thiếu tập luyện. Có thể rằng mỗi người đã có lần cảm thấy mình lướt nhẹ trong giấc ngủ để rồi sau đó, không có lý do gì đáng kể, tự nhiên họ giật mình bừng tỉnh dậy một cách đột ngột. Hiện tượng đó là do bởi sự xuất thần một cách quá mau chóng, sự chia ly quá đột ngột giữa thể xác với thể vía, làm cho sợi dây bạc bị chùn lại và thể vía tái nhập vào thể xác một cách quá mãnh liệt. Sau khi bừng tỉnh dậy, người ta còn có cái cảm giác khó chịu hơn nữa. Linh hồn phất phơ ở phía trên cái thể xác rất xa, cũng ví như một quả bong bóng được thả lên trên không ở đầu cuối một sợi dây. Thình lình, một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như một tiếng động mạnh, làm cho nó nhập vào thể xác một cách quá mau. Đương sự giật mình tỉnh giấc và có cái cảm giác kinh khủng như từ trên cao té xuống vực thẳm và vừa tỉnh dậy kịp thời.
Sự chu du trên cõi Trung giới một cách hoàn toàn làm chủ tình hình và hoàn toàn ý thức mọi việc xảy ra, là một điều khả năng của hầu hết tất cả mọi người. Người ta chỉ cần có một sự luyện tập thích nghi, nhưng trong những giai đoạn đầu tiên, họ cần phải luyện tập ở một nơi vắng vẻ để không sợ bị ai quấy rầy. Cần nói rõ là trừ phi có sự chỉ dẫn của một vị đạo sư lão luyện, người ta có thể bị hoang mang, kinh ngạc. Trên thực tế, sự tập luyện này không nguy hiểm, nhưng không phải là không có sự va chạm hay xúc động mạnh, nếu thể vía rời khỏi hay nhập vào thể xác không đúng lúc. Những người yếu tim không nên tập luyện phương pháp này, bởi vì nếu có người nào đột nhiên bước vào phòng khi họ đang tập, thì thể vía hay sợi dây bạc của họ có thể bị náo động và điều đó thật vô cùng nguy hiểm. Sự va chạm đó có thể làm cho đương sự chết bất đắc kỳ tử và có những hậu quả rất phiền phức: Linh hồn y sẽ bị bắt buộc đầu thai trở lại ngay để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn ở cõi trần trước khi bước qua giai đoạn tiến hóa kế tiếp...
Người Tây Tạng tin rằng thuở xưa kia, trước thời kỳ sa đọa của con người, nhân loại có thể đi chu du bằng cách xuất hồn, sử dụng Thần Nhãn, thực hành khoa thần giao cách cảm và phép khinh thân. Sự sa đọa này, theo chúng tôi hiểu, là do con người đã lạm dụng những quyền năng thần bí, những phép thuật thần thông để thực hiện những mục đích ích kỷ thay vì để giúp ích cho sự tiến hóa chung của nhân loại. Vì sự lạm dụng đó, nên ngày nay nhân loại đã bị mất hết tất cả những quyền năng quý báu kể trên.
Người Tây Tạng quả quyết rằng người ta có thể tiên đoán những việc có thể xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa Chiêm Tinh. Những "ảnh hưởng của tinh tú" chỉ là những vũ trụ tuyến do những bầu tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và chịu sự "tô mầu" hoặc sự thay đổi bởi những bầu tinh tú nầy. Ai cũng biết rằng với một cái máy ảnh và ánh sáng mặt trời, người ta có thể chụp ảnh. Vài loại kiếng lọc ánh sáng, nếu đặt trước ống kính thu ảnh, có thể giúp cho người ta có được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu sắc đặc biệt, cũng y như thế, những vũ trụ tuyến ảnh hưởng đến con người bằng nhiều cách khác nhau đến vô cùng tận tùy theo tác động của những bầu tinh tú khi phản chiếu vũ trụ tuyến xuống quả Địa Cầu.
Kể từ thế kỷ thứ mười một trở về sau, tất cả những vấn đề chính sự quan trọng ở xứ Tây Tạng đều được quyết định bằng khoa Chiêm Tinh. Cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đã được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri này bằng chữ Tây Tạng, mà bản dịch như sau:
"Năm Con Rồng bằng Gỗ (Mộc Long). Trong nửa năm đầu Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được bình yên, sau đó những kẻ xâm lăng hiếu chiến sẽ tiến vào lãnh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải lâm chiến. Đến cuối năm, sẽ có sứ giả hòa bình và chiến tranh sẽ chấm dứt."
Lời tiên tri này bắt đầu có trước năm 1850, nói về tình hình năm 1904, tức năm Con Rồng Gỗ. Đại tá Younghusband, tư lịnh quân đội Anh, có xem thấy bản văn lời tiên tri này ở thủ đô Lhassa.
Nói về vấn đề tiên tri, có người đã hỏi tôi: "Tại sao tôi không tránh khỏi cạm bẫy và thử thách gian lao nó chờ đợi tôi, khi mà những điều đó đã được tiết lộ cho tôi biết trước?"
Tôi chỉ có thể trả lời rằng: "Nếu người ta có thể tránh khỏi những tai nạn, đau khổ đã được tiết lộ cho ta biết trước, thì việc ấy chứng tỏ những lời tiên tri đó là sai!"
Những lời tiên tri, đều căn cứ trên sự "có thể xảy ra" của một vài sự việc, chứ không có nghĩa là con người phải chịu một cái định mệnh khắt khe, bất di dịch mà y không có tự do ý chí để sửa đổi. Trái lại, con người có thể sử dụng ý chí của mình một phần nào. Thí dụ một người kia muốn đi từ Tân Đề Li đến Hoa Thịnh Đốn, lẽ tất nhiên y biết rõ khởi điểm và mục tiêu cuộc hành trình. Nếu y chịu khó thăm dò trên bản đồ, y sẽ biết được những điểm then chốt mà y sẽ đi ngang qua trên một lộ trình ngắn và tiện lợi nhất. Tuy rằng y cũng có thể dùng một lộ trình khác, nhưng điều này không phải là sáng suốt khôn ngoan, vì nó sẽ làm mất nhiều thời giờ và tổn phí tiền bạc.
Cũng y như thế, trong trường hợp một chuyến từ Paris đến Marseille chẳng hạn, một người tài xế khôn ngoan sẽ thăm dò trên bản đồ và noi theo một lộ trình đã vạch sẵn bởi một tổ chức du lịch. Như vậy, y sẽ có thể tránh khỏi những con đường gồ ghề lồi lõm; hoặc nếu y bắt buộc phải theo những con đường này và không thể làm sao hơn, thì y sẽ biết trước để giảm bớt tốc lực và để tránh khỏi tai nạn. Khoa tiên tri cũng có tác dụng giống như vậy.
Tuy nhiên, noi theo những con đường êm ái, dễ dàng, không phải luôn luôn là một điều tốt. Là một Phật tử, tôi tin ở định luật Luân Hồi và tôi tin rằng người ta sinh ra ở cõi trần là để "Học hỏi, " kinh nghiệm. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trui rèn và thử thách chúng ta để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan, và minh triết hơn.
Nhờ những lời tiên tri mà tôi được biết trước cuộc đời tôi, đó đã là nhiều lắm. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí hiểm, thí dụ như những lời tiên tri về xứ Tây Tạng: Tại sao xứ ấy lại bị nạn ngoại xâm? Một xứ êm đềm, yên tĩnh, chỉ có sự ước mong duy nhất là phát triển trên địa hạt tâm linh, tại sao lại phải chịu nạn ấy? Tại sao những nước khác lại thèm muốn chiếm đoạt lãnh thổ đất đai của chúng tôi, và đặt dân tộc xứ này dưới cái ách nô lệ? Ước vọng duy nhất của người Tây Tạng là được sống trong hòa bình và tự do. Tuy vậy, người ta lại trông cậy nơi tôi để đi sang nước Trung Hoa, là một nước sẽ xâm lăng xứ Tây Tạng trong tương lai, để chữa trị và săn sóc thương binh trong một cuộc chiến tranh còn chưa bắt đầu!
Dưới đây là một vài biến cố quan trong trong lịch sử xứ Tây Tạng trong số những biến cố quan trọng khác đã được tiên tri một cách chính xác: Năm 1910, cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa; năm 1911, cuộc Cách Mạnh Trung Hoa và Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập; cuối năm 1911, quân đội Trung Hoa bị đánh bật ra khỏi Tây Tạng; năm 1914, cuộc Thế Chiến Thứ Nhất; 1933, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trần; năm 1935; đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh trở lại; năm 1950; quân Trung Công xâm xứ Tây Tạng. Một nhà ngoại giao Anh là Sir Charless Bell đã thấy tất cả những lời tiên tri này ở Lhassa.
Tất cả nghị lực trẻ trung của tôi đều hướng về một mục tiêu duy nhất: Làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. Vì ngày lễ sinh nhật muời hai tuổi của tôi đã sắp đến, nên tôi học bớt lại từ từ. Tôi đã trải qua những năm học ráo riết về các môn Chiêm Tinh, Y Khoa, Giáo Lý, Sinh Ngữ Tây Tạng và TrungHoa, và Toán Pháp.
Ngày thi đã đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi đến phòng thi với độ mười lăm thí sinh khác. Mỗi thí sinh được đưa vào một phòng nhỏ hẹp, đặt dưới sự canh gác thường xuyên của các sư sãi "Cảnh binh" đi tuần ở ngoài hành lang. Mỗi ngày chúng tôi phải làm bài luận hoặc giải đáp các câu hỏi về một trong sáu môn học kể trên. Trong sáu ngày liên tiếp, chúng tôi bắt đầu làm bài từ sáng sớm cho đến chiều, một vị sư sãi đem cho chúng tôi trà pha bơ và tsampa mỗi ngày ba lần. Phần thi các bài viết chấm dứt vào chiều ngày thứ sáu, kế đó chúng tôi được nghỉ vài ngày. Ba ngày sau, những bài viết đã được chấm xong, mỗi thí sinh phải ra trước hội đồng giám khảo để trả lời những câu về những điểm yếu kém của họ. Phần thi sát hạch chiếm trọn hết một ngày. Ngày hôm sau, tất cả mười sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để biểu diễn môn quyền thuật. Mỗi thí sinh phải đấu võ với ba thí sinh khác. Những thí sinh yếu kém nhất sẽ bị loại rất mau, rồi đến lượt những thiếu niên khác, và sau cùng chỉ còn lại một mình tôi thủ đài. Sự thành công này là nhờ sự huấn luyện võ nghệ dưới sự chỉ dẫn của võ sư Tzu, mà hồi nhỏ tôi vẫn cho là bất công và bạo tàn. Ít nhất tôi đã được chấm hạng nhất về môn quyền thuật. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới là ngày tuyên bố kết quả. Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu: Chúng tôi đã trở nên những giáo sĩ kiêm y sĩ. Minh Gia Đại Đức, mà tôi không gặp trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi lại. Người lộ vẻ vui mừng trên nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến trình diện trước mặt người:
- Lâm Bá, khá khen cho con vì con đã đậu hạng nhất. Vị Sử Trưởng đã gởi một phúc trình đặc biệt cho đấng Thậm Thâm. Người muốn đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt Ma ngay lập tức, nhưng ta đã chống lại việc ấy.
Thấy tôi hơi có vẻ bất mãn, Sư Phụ tôi nói thêm:
- Tốt hơn con hãy cố gắng học hỏi thêm và đạt tới quả vị ấy bằng khả năng của chính mình. Nếu con lãnh tước vị Lạt Ma ngay bây giờ, con sẽ bỏ lãng sự học và sau này con sẽ thấy rằng sự học của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con ở căn phòng kế bên, vì con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị Lạt Ma khi thời giờ sẽ đến.
Quyết định của Sư Phụ thật rất hữu lý. Dầu sao, tôi chỉ mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của người và Sư Phụ lấy làm vô cùng hân hạnh mà làm thầy của một đứa trẻ đậu hạng nhất trên các môn khảo thí.
Vài ngày sau đó, một thư tín viên cưỡi ngựa phi nước đại đem cho tôi một thông điệp của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài gởi lời khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và ra chỉ thị rằng kể từ nay tôi được đối xử như một Lạt Ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt Ma mà thụ hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy. Ngài cũng đồng ý với Sư Phụ tôi, để cho tôi khảo thí vào năm mười sáu tuổi, vì theo lời Ngài viết trong thơ: "Như vậy con sẽ học hỏi thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ mở mang những kiến thức của con cho thêm sâu rông."
Thế là tôi đã trở nên một vị Lạt Ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc "Thượng Nhân." Những điều này cũng có những sự bất lợi: Trước kia, tôi phải giữ ba mươi hai giới luật của Dòng Tu Sĩ, điều mà tôi vẫn coi như là một con số đáng e ngại. Khi đã trở nên một vị Lạt Ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới của cấp đẳng nầy lên tới hai trăm năm mươi ba. Và ở tu viện Chakpori, một vị Lạt Ma chân chính phải giữ hết tất cả bấy nhiêu giới luật đó, không bỏ sót một giới luật nào?
Còn sự làm việc? Chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng chúng tôi cũng không thiếu những sự vui về tinh thần và những cuộc chơi tiêu khiển. Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn mà được sống gần những người như Minh Gia Đại Đức, mà tư tưởng duy nhất trong đời là gieo sự Bằng An và phụng sự nhân loại. Thật cũng là một phần thưởng tinh thần mà được nhìn thấy trước mắt cái phong cảnh êm đềm, với một thung lũng xanh tươi, cây cối xầm uất; với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc quanh co theo những dãy núi đồi ngoạn mục; với những ngọn tháp vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, những tu viện cổ kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở, và chiêm ngưỡng với một lòng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện Potala ở gần bên và những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo Kang ở xa hơn về phía đông. Tình đồng môn của các vị Lạt Ma trong tu viện, lòng ưu ái của các sư sãi, mùi hương trầm quen thuộc phưởng phất trong các đền thờ, tất cả những thứ đó là cái bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và đó cũng là một cuộc đời đáng sống. Còn những khó khăn, chướng ngại thì cũng có rất nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể cộng đồng, luôn luôn vẫn có những phần tử không thông cảm, những kẻ đố kỵ ganh ghét. Ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy thật tình chỉ là một thiểu số.
Kể từ đó, các vị Lạt Ma và sư sãi trong tu viện đều đối sử với tôi một cách lễ độ, cung kính. "Cung Kính" là bởi vì tôi là học trò của Minh Gia Đại Đức, một nhân vật trọng yếu được toàn thể mọi người đều yêu mến, bởi vì tôi được nhìn nhận như một vị "Hóa Thân."
Đối với quý vị độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây Tạng có thể nhận ra một vị Hóa Thân. Tôi xin trình bày vài điểm sơ lược dưới đây:
Cách cư xử khác thường của một đứa trẻ nhỏ có thể làm cho cha mẹ nó nghĩ rằng nó có khả năng cao hơn mức trung bình hay những kỷ niệm đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích được một cách hợp lý. Trong trường hợp đó, cha mẹ nó đến trình với vị Sư Trưởng của tu viện ở gần nhất, vị này mới chỉ định một ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét đứa trẻ. Trước hết, ủy ban này lấy một lá số Chiêm Tinh hay Tử Vi cho đứa trẻ, sau đó mới xem tướng mạo và tìm ấn chứng trên khắp thân hình nó. Thí dụ như đứa trẻ có những chỉ tay đặt biệt trên hai bàn tay, hoặc những ấn chứng trên chả vai hay chân. Nếu đứa trẻ có những ấn chứng đó, người ta tìm cách truy ra tiền kiếp nó. Có thể rằng các vị Lạt Ma sẽ nhìn ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nhìn ra được chăng những đồ vật dụng riêng của nó hồi kiếp trước. Cuộc thử thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi. Người ta nghĩ rằng với tuổi đó, cón quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi những gì cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu thử vào lúc nó còn trẻ hơn nữa thì lại càng hay. Cha mẹ đứa trẻ không được dự vào cuộc thử thách, mà nó phải chọn lựa chín món đồ vật trong số ba chục món khác. Chỉ chọn sai hai món cũng bị loại, nếu đứa trẻ chọn đúng không sai món nào, thì nó được nhìn nhận như một vị Hóa Thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt. Khi nó lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể hiểu được ý nghĩa rõ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó. Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết đúng y như vậy.

TÂY TẠNG HUYỀN BÍ
Chương 8

Tôi Trở Về Nhà

Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng, nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự. Ngày rằm tháng riêng, Ðức Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo Kang. Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu đi diễn hành một vòng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường đi vòng quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc.
Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đã thi hành xong bổn phận đối với các đấng Thần Minh, thì giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đã diểm. Trên những đài từ mười đến mười lăm thước bề cao, người ta đặt những mô hình nổi khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lãm những cảnh tượng huyền thoại rút trong các kinh thánh. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để chiêm ngưỡng trước mỗi mỹ phẩm trình bày và ban giải thưởng hàng năm cho những tác phẩm khéo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đã triển lãm những mỹ phẩm ưu tú.
Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải trí này, mà chúng tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng Lhassa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của các nhân vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn. Những pho tượng này gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân mình, bên trong ruột trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một kiểu rất tự nhiên. Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt, có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn rung rinh lập lòe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động. Những sư sãi cao lớn lực lưỡng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như những người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường lộ, trong khi đó, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân; có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới vì đường trơn trợt. Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, thì đó mới là một thảm kịch thực sự!
Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ chung quanh mình tôi vì bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra. Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà khêu, bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà mỗi lần hắt hơi đều hăm dọa sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi làm thân hình tôi rung chuyển, lại làm cho tình trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng thêm vì những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và... vì cạo trọc nên nó càng "Nhậy cảm" hơn. Khi trời nóng bức một cách kinh khủng, tôi lại bị ngộp thở muốn đứng tim vì hít phải hàng mùi lụa cũ, mốc meo của chiếc áo cà sa bị cất giữ trong kho đã lâu ngày. Tôi bị vây khốn bởi những đám mối mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, tôi bị phỏng rát da đầu vì bơ nóng của các ngọn đèn; tình cảnh của tôi lúc ấy vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân mình pho tượng để nhìn ra ngoài lại không ngang với cặp mắt tôi. Thành thử, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, thì đủ biết rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng gì hơn tôi lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma đang nhìn chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễn hành trong tìng trạng đó, vừa bị ngộp thở vừa bị bơ đổ nóng đến hết phân nửa cái sọ dừa của tôi! Chắc hẳn là tôi đã sút mất vài ký lô trong ngày hôm đó!
Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi:
- Lâm Bá, con đã trình diễn rất khéo. Con có thể trở nên một tài tử thiện nghệ!
Tôi phải giữ kín không thố lộ cho ông ta biết rằng những cử chỉ mà tôi đã làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi, và kể từ đó, tôi không bao giờ đi diễn hành trong pho tượng nữa!
Khỏng năm sáu tháng sau cuộc "Trình Diễn" đó, một cơn giông bão thình lình nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy tôi cùng với một thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa chỗ bị dột. Cơn giông làm tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác độ sáu bảy thước thấp hơn, từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi mãi, làm cho tôi lại rơi một lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi xuống một vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu. Tai nạn này làm cho tôi sợ hãi mất bình tĩnh, khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở chả vai bên trái. Tôi bò trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ gì nữa, tôi chỉ có một ý nghĩ: “Trở về tu viện càng sớm càng hay”. Như một người mù, tôi bước tới một cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngã; dọc đường tôi gặp những sư sãi vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đã xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng không may đứa trẻ này đã chết vì té xuống những chỗ có tảng đá gồ ghề.
Các sư sãi khiêng tôi vào phòng. Sư phụ tôi khám nghiệm những thương tích trên người tôi rồi nói:
- Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta không nên để chúng ra ngoài khi thời tiết như vầy!
Kế đó, người nhìn tôi vào tận mắt:
- Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đòn gánh bị gẫy... Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, nhưng thầy sẽ làm cách nào để cho con chỉ đau tối thiểu mà thôi.
Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ý thức được việc gì xảy ra, người đã nắn lại cái xương đòn gánh bị trặt và đặt lại cho đúng khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn nhưng không lâu, vì người đã mau ráp cái xương bị trặt vào đúng khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không thể cử động.
Qua ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói:
- Con đã bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong phòng này. Cũng như tất cả mọi người, con cảm thấy e dè khi phải học những đề tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e dè bằng phương pháp thôi miên.
Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian phòng đắm chìm trong bóng tối.
Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên.
Tôi đã ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi nhìn thấy xuyên qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập lòe ở các cửa sổ trong điện Potala và ở chung quanh các vách tường rào: Người sư sãi có phận sự túc trực ban đêm đang đi canh tuần. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhassa đang vươn mình trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi bước vào và nói:
- À, con đã tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đã nhận thấy cõi Trung Giới vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du trên đó. Thầy nghĩ bây giờ chắc con đã đói, phải chăng?
Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật tình tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, Sư Phụ nói với tôi:
- Trong trường hợp thông thường, thì có lẽ con đã chết vì tai nạn vừa qua, nhưng khoa chiêm tinh đã nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong giờ phút này, các sư sãi đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ giã chúng ta. Nó đã chết ngay trong lúc bị tai nạn.
Những người bước qua cõi giới bên kia cửa tử làm cho tôi mong ước số phận của họ. Kinh nghiệm của tôi đã giúp cho tôi nhận định rằng những cuộc ngao du trên cõi Trung Giới rất là thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai thích cái trường học ở thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi... Cuộc đời trên thế gian là gì, nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi đã bị gẫy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!"
Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc bình thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến cái xương gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặt xương đã được hàn gắn lại như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn còn thấy đau. Một buổi sáng, vừa bước vào phòng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức thơ. Sư Phụ ngước mắt nhìn tôi và nói:
- Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân mẫu của con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và con có thể ở lại nhà trọn ngày.
Tôi đáp:
- Con chắc rằng cha con không muốn gặp con, vì ông ấy không nhìn con một hôm nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala.
- Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái hân hạnh được đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến, bởi lẽ đó, người không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt Thầy, vì chính đấng Khôn Lường đã đích thân phú thác gửi gấm con cho Thầy rồi.
Sư Phụ nhìn tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói:
- Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đã đi Gyangtsé trong vài ngày.
Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân và nói:
- Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn choàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt Ma, là người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hãy cưỡi một trong những con ngựa bạch quý nhất của tu viện để trở về nhà. Con hãy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần phải vận động.
Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn choàng bằng lụa theo truyền thống để tỏ lòng cung kính. Tôi nhìn kỹ cái khăn choàng một cách hoài nghi, vì không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi tới nhà cha mẹ tôi.
Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường Lingkhor như thường lệ. Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con đường ở ngoại ô thành phố, tôi nhìn thấy ở đằng xa cái cổng lớn của nhà tôi.
Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. Rất may mắn thay, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy xuống đất.
Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi khăn choàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt Ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hãy ban ân huệ cho gia đình và toàn thể nhân viên cư ngụ trong nhà này."
Tôi đáp:
- Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu.
- Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lịnh cho tôi đưa công tử vào.
Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường (làm như tôi không biết đường đi một mình), tôi rút cái khăn choàng ra và phủ ngoài cái bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên lầu trên để vào phòng khách của mẹ tôi. Tôi thầm nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi còn nhỏ." Nhưng ý nghĩ đó liền nhường chỗ cho ý muốn mãnh liệt là chạy vắt giò lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng phòng khách của mẹ tôi đầy những khách... đàn bà!
Trong khi tôi còn đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, thì mẹ tôi đã bước đến gần và tiếp đón tôi trước:
- Đại Ðức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đã ban danh dự cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy.
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, những quy luật trong dòng tu ngăn cấm con không được tiết lộ những gì ngài đã nói với con. Minh Gia Đại Đức có truyền đem dâng mẹ bao dược thảo này cùng với một khăn choàng bằng lụa.
- Hỡi con yêu quý, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thường xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ kiếng có thể xuyên qua vách tường nhà?
Tôi đáp:
- Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng Giáo của dòng tu chúng con. Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi.
Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói:
- Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!
Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, vì chị tôi đã trở nên một thiếu nữ dậy thì, nở nang trọn vẹn và... hấp dẫn. Tôi cảm thấy e dè sợ hãi. Tất cả là tám hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Những người nam phái thì tôi đã biết cách xử thế đối với họ còn nữ giới thì tôi chịu thua! Họ cứ nhìn tôi với những cặp mắt tò mò, dường như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Tôi chỉ còn có một giải pháp là thoát thân. Tôi nói:
- Thưa mẫu thân, con đã chuyển giao thông điệp và quà tặng của Sư Phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Tay con vẫn còn đau và con có nhiều việc phải làm.
Nói xong, tôi chào từ giã tất cả các quan khách rồi quay lưng đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. Vì quản gia đã trở lại văn phòng của người, vì vậy một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói:
- Anh hãy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, vì tôi mới bị gãy xương ở tay và vai, và tôi không thể lên yên ngựa một mình.
Người giữ cửa mở cổng đưa tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao lơn và nhìn theo sau lưng tôi.
Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ nhìn tôi vào tận mắt và hỏi:
- Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện đấng Thậm Thâm và muốn biết những gì ngài đã nói với con. Con đáp rằng trong dòng tu của chúng ta nghiêm cấm con tiết lộ cho họ nghe bất cứ chuyện gì. Và con đã chạy thoát thân... Sư Phụ hãy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt nhìn con như cọp rình mồi!
Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của Sư Phụ thì người lại càng cười giòn giã hơn nữa. Người nói: - Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay con còn nghĩ đến việc trở về với gia đình.
Đời sống tu viện đã làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi về đời sống xã hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp:
- Gia đình con là ở đây. Con không muốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát ngấy... Họ nhìn con với một vẻ mặt lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho trước một con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lãm nông nghiệp! Họ thốt ra những tiếng kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía của họ thật là... dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở về nhà nữa!
Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt Lai Lạt Ma rất chú ý đến tôi, và đã quyết định cho tôi trở về nhà ở một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đình.
Tài sản của hanhlc

Trả Lời Với Trích Dẫn