Pavlo đã khuân đồ lề về, mọi người chỉ việc chọn thứ mình cần. Có cả mấy cái ống nữa, nhưng không có dụng cụ để lắp các ống sắt tây, ngoài một cái búa và một cái rìu nhỏ. Rồi cũng có cách làm được.
Sukhov đập đập đôi tay đeo bao vào nhau, đặt các ống đầu ống nọ sát vào đầu ống kia, ghép chúng lại với nhau bằng cách xiết chặt các mộng đuôi én lại ở các chỗ tiếp giáp. Xong, lại vỗ vỗ đôi tay đeo găng vào nhau, rồi lại tiếp tục ghép ống (anh giấu chiếc bay của mình ở gần ngay đây. Dù mọi người trong đội đều là anh em, song điều đó cũng không ngăn cản các tướng tráo của nhau. Ngay Kildigs cũng dám lắm).
Mọi ý nghĩ trong đầu Sukhov lúc này bị xua ra ngoài hết. Anh không còn nghĩ đến cái gì, không quan tâm đến điều gì, ngoài việc ghép bằng được cái ống khói, sao cho cái lò khỏi khói um lên. Anh sai Gopchik đi tìm một đoạn dây thừng để buộc đầu ống khói vào cửa sổ cho nó chĩa ra bên ngoài.
Ở góc xưởng còn một cái lò bụng phệ, ống khói xây bằng gạch. Trên nóc lò có một tấm sắt bị nung nóng và bên trên nó băng bám vào cát bị tan ra, cát được sấy khô. Cái lò này đã được đốt, ông trung tá cùng Fechiukov khênh cát đổ lên trên. Việc khênh cát không đòi hỏi đầu óc. Cho nên đội trưởng mới phân cho những người trước đây từng là sếp. Fechiukov có hồi đã từng là thủ trưởng trong một cơ quan nào đó. Hắn còn có cả xe riêng. Những ngày đầu khi ông trung tá hải quân mới nhập trại, hắn toan giở trò bắt nạt ông. Sau khi bị trung tá cho sơi mấy quả đấm, mọi chuyện mới đâu vào đấy.
Có mấy tay cứ xán tới cái lò sấy cát để sưởi, nhưng đội trưởng Turin cảnh cáo :
- Làm đi mấy tướng, muốn sưởi thì đưa đít ra, đây sưởi cho!
Con chó bị đánh thì chỉ cần nhìn thấy roi là sợ. Băng giá đã khắc nghiệt, tay đội trưởng này còn nghiệt hơn. Mấy anh em tản ra, ai vào việc nấy.
Sukhov nghe thấy Turin thì thầm vào tai Pavlo :
- Cậu ở đây trông coi họ, rắn vào. Giờ tớ phải đi đăng ký phần trăm định mức đây.
Mọi thứ phụ thuộc vào cái phần trăm này nhiều hơn là bản thân công việc. Tay đội trưởng nào tinh khôn thì lo lắng về khoản này, chứ không phải về công việc được giao. Bởi gắn với phần trăm là những thứ nhét vào bụng. Nếu việc chưa làm xong, thì cứ làm như có vẻ đã xong, năng xuất thấp thì biến báo cho nó tăng lên. Để làm được những việc này đòi hỏi đội trưởng phải có cái đầu. Nhưng cũng còn phải lo lót cho mấy thằng chó chết trên bộ phận chỉ tiêu thì mới được việc.
Nói cho cùng, những phần trăm ấy đem lại lợi ích cho ai? Chính là cho trại. Các sếp kiếm được từ vụ này hàng nghìn rúp dôi ra, một phần lấy làm tiền thưởng cho các sĩ quan, như hạng Volkovoi với cái roi trong tay ấy. Còn bản thân phạm thì chỉ được thêm 200 gram bánh mì vào bữa tối. Hai trăm gram bánh mì ấy điều hành cuộc sống của họ. Với hai trăm gram bánh mì ấy cả một hệ thống khổng lồ kênh đào Belomor đã được xây dựng.
Hai xô nước đã được xách tới, song trên đường đi nước trong xô đã đóng băng lại. Pavlo nảy ra sáng kiến, tội chó gì mà phải xách nước cho mất công, cứ việc đun tuyết tại chỗ cho nó chảy ra là xong, và thế là họ xúc tuyết vào xô, đặt lên lò sấy.
Gopchik bẻ gấp lại một đoạn dây nhôm còn mới - loại dùng để kéo dây điện. Nó nói với Sekhov :
- Chú Ivan Denhicych! Cái dây này làm thìa tốt lắm. Chú dạy cháu làm thìa với nhé.
Sukhov rất thích thằng ranh con láu cá này (con trai anh mất lúc còn nhỏ, ở nhà chỉ còn hai cô con gái lớn). Gopchik bị bắt vì tội đã mang sữa vào rừng cho quân của tướng Bender [11] và bị lĩnh án như người lớn. Nó dễ thương như một chú bê nhỏ và quấn quýt với mọi người trong đội. Nhưng nó cũng cáo ra phết: nhận được đồ tiếp tế là ăn một mình, thỉnh thoảng ban đêm cũng thấy nhai tóp tép.
Ờ mà làm sao chia hết được cho tất cả mọi người trong đội.
Hai người gấp đoạn dây làm thìa lại rồi giấu vào một góc. Sukhov lấy hai tấm ván buộc lại làm thành một cái thang ghế và sai Gopchik đứng trên đó buộc ống khói. Gopchik thoăn thoắt trèo lên như một con sóc. Nó đóng một cái đinh, móc một đầu dây thép vào đó và quấn xung quanh ống khói. Sukhov lại lấy một cái ống nữa để nó nối tiếp vào miệng cái ống khói đã buộc. Hôm nay không có gió lùa vào hướng này, nhưng ngày mai có thể có, nối thêm ống như vậy để khói không tạt trở lại vào phòng. Thì cái lò này dùng cho quân mình mà lại.
Còn Senka Klevsin thì mãi bây giờ mới làm xong mấy cái nẹp gỗ. Gopchik lại bị sai trèo lên để đóng. Thẳng quỷ con trèo lên cửa sổ, la lối om sòm xuống phía dưới.
Mặt trời đã lên cao, sương mù đã tan nên không còn thấy mấy cái mống trông giống như mấy cái cọc kia nữa. Một màu đỏ ối ở chính giữa mặt trời. Lò đã được nhóm bằng đống củi ăn cắp được. Còn gì sướng hơn đây!
- Nắng tháng Giêng thì chỉ sưởi ấm được da bò thôi. - Sukhov giải thích.
Kildigs cũng vừa sửa xong cái thùng trộn vữa, còn lấy cái rìu nhỏ cố gõ thêm vài nhát nữa. Hắn hô to :
- Nghe đây, Pavlo, xong việc này đội phải trả cho tôi một trăm rúp. Ít hơn, không nhận!
Pavlo cười :
- Cậu sẽ được nhận thêm một trăm gram bánh.
- Để ông công tố bồi dưỡng thêm cho! - Gopchik ở trên hét xuống.
- Hượm đã! hượm đã! - Sukhov gắt lên.
Mọi người cắt giấy dầu không đúng cách, anh ngăn lại và chỉ cho họ cách cắt.
Có mấy tay sà tới bên chiếc lò bằng sắt tây, song bị Pavlo xua đi. Hắn cho Kildigs thêm vài người phụ hồ nữa và ra lệnh làm những cái cáng [12] để khênh vữa lên tầng hai. Sau đó phái hai người nữa đi lấy cát, hai người khác dọn sạch tuyết trên giàn giáo và trên tường. Một người nữa thì xúc cát đã được sấy khô trên lò và hất vào máy trộn bê tông.
Bên ngoài có tiếng động cơ ô tô. Xe chở gạch đã tới. Pavlo chạy ra vẫy vẫy và chỉ cho mọi người chỗ dỡ gạch xuống.
Người ta đóng đinh bịt một lớp giấy dầu che kín cửa sổ, rồi một lớp nữa. Giấy dầu thì che kín nỗi gì, thì cũng chỉ là giấy chứ quái gì. Tuy nhiên, tường trông chắc chắn hơn. Bên trong trở nên tối hơn và lửa trong lò có vẻ cháy sáng hơn.
Aliosa mang than tới. Người thì kêu lên: “đổ hết vào lò!”, kẻ ngăn lại: “không được đổ, đốt củi ấm hơn!”. Aliosa không còn biết nghe ai.
Fechiukov ngồi xuống cạnh lò và cứ thế đưa hai chân đi ủng sát vào lửa. Thằng ngu thế chứ. Ông trung tá nắm cổ hắn lôi ra và đẩy về phía chiếc xe cút kít :
- Đi chở cát, đồ bấc thối!
Ông trung tá hải quân coi công việc trong trại giống như công việc trên tầu của ông: đã lệnh là phải làm ngay! Tháng cuối này ông trung tá trông sút hẳn, song vẫn cố gắng sức.
Lâu hay mau, cuối cùng thì cả ba cái cửa sổ đều đã được bịt kín. Bây giờ ánh sáng chỉ còn hắt vào từ phía cửa chính. Và cái lạnh cũng theo đó mà vào. Pavlo ra lệnh che kín nửa trên cái cửa ra vào lại, chỉ để trống nửa dưới và người ra vào phải cúi khom khom. Các cửa khác cũng được bịt như vậy.
Trong thời gian đó gạch do ba chiếc xe tải chở đến đang nằm lăn lóc trên sàn đất. Làm sao để chuyển đống gạch đó lên được tầng hai mà không cần đến máy nâng?
- Ê, mấy bác thợ nề! Ta thử lên đó xem sao! - Pavlo mời.
Xây tường được xem là một công việc vinh dự. Sukhov và Kildigs cùng Pavlo đi lên tầng trên. Thang đã hẹp mà Senka lại lấy đi hai thanh tay vịn để làm nẹp bịt cửa sổ, nên phải bám vào tường cho khỏi ngã. Thêm vào đó tuyết còn bám chặt trên mặt thang khiến nó trơn tuột, chân không bám vào được, thế này thì khênh vữa lên làm sao đây?
Họ xem xét bức tường xây dở. Phải lấy xẻng dọn sạch tuyết bám vào, sau đó dùng rìu chặt những chỗ băng bám vào gạch rồi dùng chổi quét cho sạch.
Họ tính xem chuyển gạch lên bằng cách nào. Nhìn xuống phía dưới họ quyết định tốt nhất là đừng khuân lên theo lối cầu thang, mà cắt bốn người đứng dưới ném gạch lên dàn giáo thứ nhất. Trên đó có hai người ném tiếp lên tầng hai. Trên tầng hai có hai người làm nhiệm vụ chuyển gạch cho thợ xây - như thế sẽ nhanh hơn.
Ở tầng trên gió không mạnh lắm, song dai dẳng, đủ xuyên thẳng vào người lúc làm việc. Nhưng nếu cúi xuống bức tường xây dở, nấp đằng sau nó thì sẽ thấy ấm hơn nhiều.
Sukhov nhìn lên và giật mình: trời trong veo. Căn cứ vào mặt trời lên cao thì sắp tới bữa trưa rồi. Thật là lạ, lúc làm việc sao thấy ngày giờ trôi mau thế! Biết bao lần Sukhov nhận thấy ngày trong trại qua đi rất nhanh, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết một ngày. Ấy thế nhưng ngày mãn hạn thì mãi chẳng thấy tới, như thể nó không nhích lên được chút nào ấy.
Họ đi xuống dưới, ở đó mọi người đã ngồi xúm xít quanh cái lò, chỉ có ông trung tá cùng với Fechiukov đang khiêng cát. Pavlo cáu um lên, lập tức xua tám người đi chuyển gạch, hai người đổ cát khô và xi măng vào thùng trộn bê tông, người thì đi lấy nước, người đi lấy than.
Còn Kildigs thì nói với nhóm của mình :
- Các cậu khá lắm, phải làm xong cho nhanh mấy cái cáng.
- Để tôi giúp họ một tay? - Sukhov nói với Pavlo, tự xin việc.
- Ừ, giúp họ đi. - Pavlo gật đầu.
Ngay lúc đó một chiếc thùng sắt được mang tới để đun tuyết cho chảy ra lấy nước trộn bê tông. Có người nào đó nói hình như đã mười hai giờ rồi.
- Lại còn không đến mười hai giờ, - Sukhov nói đế vào - mặt trời đã lên đến đỉnh đầu rồi.
- Nếu mặt trời lên đến đỉnh đầu, có nghĩa không phải mười hai giờ, mà là một giờ. - Ông trung tá sửa ngay.
- Sao lại thế được? - Sukhov ngạc nhiên - Các cụ chả bảo khi nào mặt trời lên đến đỉnh đầu, lúc đó là giờ ăn trưa.
- Đó là mấy cụ người âm lịch nói, - Ông trung tá đập lại - chứ bây giờ đã có luật, mặt trời lên tới đỉnh là đúng một giờ.
- Ai ra cái luật đó?
- Chính quyền Xô Viết!
Ông trung tá mang cái cáng khiêng cát ra ngoài, dù sao thì Sukhov cũng chẳng muốn cãi lý với ông. Chả có lẽ đến mặt trời cũng phải theo luật của họ sao?
Đập gõ một hồi, cuối cùng anh em cũng làm thêm được bốn cái cáng khiêng vữa nữa.
- Thôi được rồi, ngồi sưởi ấm cái đã. - Pavlo nói với hai người thợ xây - Senka ạ, ăn trưa xong hãng xây. Ngồi xuống đi!
Và lúc này thì tất cả mọi người đều có quyền ngồi cạnh cái lò mà sưởi. Đằng nào cũng vậy, không thể xây trước bữa trưa, đánh vữa sớm để cho nó đóng bánh lại à.
Than trong lò cháy phừng phừng và tỏa đều hơi nóng. Nhưng phải ngồi cạnh lò mới thấy ấm, những chỗ khác trong nhà vẫn lạnh như thường.
Bốn người cởi bao tay hơ lên bếp lò. Còn chân đi ủng thì tuyệt đối không được để sát vào lửa, đó là điều cần phải biết. Nếu là ủng da thì nó sẽ nứt, còn ủng dạ thì sẽ ướt sũng và bốc khói, mà chân thì vẫn bị lạnh. Để ủng sát cạnh lửa còn rất dễ bị cháy, rồi là phải đi ủng thủng cho tới tận mùa xuân. Chờ đấy người ta phát ủng mới cho!
- Sukhov thì còn phải lo gì nữa, một chân anh ấy đã ở nhà rồi còn gì. - Kildigs lại bắt đầu đùa.
- Cái chân không kia kìa. - Ai đó chỉ vào cái chân để trần của anh (Sukhov cởi chiếc ủng trái có lỗ thủng ra và đang hơ đám giẻ quấn chân). Mọi người cười ầm.
- Thế là Sukhov sắp mãn hạn rồi.
Bản thân Kildigs bị hai mươi nhăm năm. Trước kia tội như anh tất cả chỉ bị mười năm thôi. Từ năm 49 tới giờ, nặng nhẹ gì cũng hai mươi nhăm năm tuốt. Mười năm còn có hi vọng sống sót mà về, chứ hai mươi nhăm năm thì có mà về cái khỉ mốc.
Sukhov thấy khoai khoái khi mọi người chỉ anh mà nói anh sắp sửa mãn hạn tù. Song anh cũng chẳng lấy làm tin lắm vào chuyện đó. Thì đấy, có những ngưỡi mãn hạn trong chiến tranh, nhưng người ta cứ kéo dài cho đến tận năm 46 đấy. Có người hạn tù chỉ có ba năm, sau bị kéo dài thành năm năm.
Luật lệ bẻ cong thế nào cũng được. Hết hạn mười năm, người ta sẵn sàng bồi thêm cho anh thêm một hạn mười năm nữa, hay tống anh đi đày, không cho về quê quán.
Biết thế nhưng bụng vẫn cứ nôn nao thế nào ấy. Biết đâu số mình lại chẳng gặp may. Chúa ơi! làm sao hình dung nổi cái lúc mình bước chân ra khỏi đây, hả?
Song không khi nào người tù có thâm niên lại nói tất cả những điều đó ra miệng. Và Sukhov chỉ nói với Kildigs :
- Cậu đừng có đếm hai mươi nhăm năm làm chó gì cho mệt xác. Có ngồi tất cả hai mươi nhăm năm hay không, ai mà biết được. Nhưng chỉ biết tớ đã ngồi đủ tám năm rồi, đó là cái chắc.
Thế cho nên cứ phải cúi mặt xuống mà sống, thời gian đâu mà nghĩ: vì sao mình phải vào đây và khi nào mình được thả?
Trong hồ sơ Sukhov bị tù vì tội phản bội tổ quốc. Và anh cũng khai mình như vậy: đầu hàng để bị bắt làm tù binh với ý đồ phản bội tổ quốc. Trước lúc được thả về đã nhận chỉ thị của cơ quan gián điệp Đức. Nhưng chỉ thị gì thì cả Sukhov, cả cán bộ điều tra thẩm vấn, mãi không bịa được, đành phải bỏ lửng như vậy và ghi vào hồ sơ: nhận chỉ thị.
Ở cơ quan phản gián, Sukhov bị tra tấn nhiều lần, và anh đã tính toán rất đơn giản: nếu không ký thì cầm chắc sẽ nằm dưới ba tấc đất, nếu ký thì còn có cơ sống lâu thêm một chút.
Và thế là anh ký.
Thực ra đầu đuôi câu chuyện là thế này: tháng hai năm 1942, cả đạo quân của anh bị bao vây tại mặt trận Tây-Bắc. Họ không thể tiếp tế lương thực cho bọn anh được - không có máy bay. Chả có gì đút vào bụng. Tình hình nguy cấp tới mức lính phải chặt ngựa chết, ngâm vào nước cho mềm ra mà ăn. Và cũng chẳng còn gì để mà bắn. Thế là quân Đức tìm thấy họ ở trong rừng, từng toán một, và bắt làm tù binh. Sukhov ở trong một toán như thế, bị bắt làm tù binh mấy ngày, ngay trong rừng. Sau đó anh chạy trốn cùng với bốn người nữa. Len lỏi, ẩn nấp trong rừng, dưới đầm lầy, và như có phép lạ, bọn anh đã gặp được người đằng mình. Nhưng hai người lập tức bị ngay xạ thủ đại liên của mình bắn chết tại chỗ, người thứ ba chết vì tử thương, chỉ còn hai người sống sót. Gía khôn ra thì phải khai là bị lạc trong rừng, thì chả làm sao. Đằng này lại thật thà: chúng tôi trốn khỏi đoàn tù binh của quân Đức. Sao? Trốn khỏi bọn Đức cơ đấy? Mẹ chúng mày, quân gián điệp cho bọn phát xít. Và thế là bị tống giam. Giá cả năm tên còn sống, thì họ phối kiểm khẩu cung và may ra còn tin. Nhưng chỉ còn hai tên thì vô phương: họ cứ nằng nặc bảo rằng hai thằng khốn nạn đã thông đồng với bọn Đức giả vờ chạy trốn.
Nghễnh ngãng như Senka Klevsin mà cũng nghe thủng câu chuyện về tù binh, anh nói tướng lên :
- Tớ đã ba lần chạy trốn, nhưng cả ba lần đều bị bắt lại.
Senka mới thật khốn nạn, anh bị điếc nặng nên phần lớn thời gian chỉ im lặng: anh đâu có nghe thấy người ta nói gì và cũng không xen vào câu chuyện của mọi người. Vì thế anh em trong đội biết ít về anh, chỉ biết anh từng bị bắt giam ở Buchenvald và ở đó anh tham gia tổ chức bí mật, chuyển vũ khí vào trại giam cho cuộc nổi dậy của tù binh. Bọn Đức phát hiện ra, chúng treo ngược anh lên, trói giật cánh khuỷu, đánh cho đến thủng nốt màng nhĩ tai kia.
- Này Vanhia, cậu ngồi tù tám năm - ở những trại nào vậy? - Kildigs liệt kê những nhà tù. - Cậu cũng đã ở tù dân sự, thế thì được ở với đàn bà và chắc không phải đeo số? Chứ tám năm trong trại hình lại là chuyện khác, chưa có ai sống nổi tới lúc mãn hạn đâu.
- Ở chung với đàn bà! Với mấy khúc gỗ thì có...
Sukhov đăm chiêu nhìn ngọn lửa và nhớ lại bảy năm tù ở miền Bắc. Suốt ba năm dòng anh phải kéo gỗ làm đà đường xe lửa. Đống lửa cháy ở chỗ khai thác gỗ mỗi khi làm đêm cũng bập bùng như bây giờ. Hồi đó trại trưởng đề ra cái luật như sau: đội nào làm ngày không đủ định mức, phải làm bù vào ban đêm. Tới quá nửa đêm mới lê được về tới trại, buổi sáng, mới bảnh mắt đã phải dậy đi vào rừng.
- Không, mấy ông bạn ơi... Ở đây còn dễ chịu hơn nhiều. - Anh phều phào nói - Ở đây ăn ngủ còn có giờ giấc. Làm xong việc hay không xong việc - vẫn được về trại, và ở đây khẩu phần còn cao hơn những 100 gram. Còn sống được. Trại đặc biệt - thì kệ con mẹ nó, bận đếch gì đến mình. Hay đeo số thấy phiền phức chăng? Nó có nặng thêm chút nào đâu.
- Dễ chịu hơn! - Fechiukov gắt gỏng (đã tới giờ ăn trưa, mọi người xúm xít xung quanh cái lò) - Đêm đang ngủ chúng mò đến cắt cổ, dễ chịu gớm!
- Người thường ai cắt cổ, chỉ bọn chỉ điểm mới bị thôi! - Pavlo giơ ngón tay dọa Fechiukov.
Trong trại quả mới có chuyện ấy thật. Hai thằng cha chỉ điểm nổi tiếng bị cắt cổ ngay trong giờ báo thức. Một phạm vô tội cũng bị - chắc là bị lầm với ai đó. Còn một thằng chỉ điểm nữa chạy trốn đến chỗ cấp trên, ở đó người ta phải giấu hắn vào xà lim. Kỳ quặc - những chuyện như thế trong trại tù thường đâu có xẩy ra. Ngay trong trại này trước cũng không có những chuyện như vậy...
Cái còi đầu máy hơi nước bỗng huýt lên. Nó không huýt toáng lên ngay, mà lúc đầu còn khục khặc, khàn khàn như người xúc miệng.
Hết nửa ngày rồi - nghỉ trưa, đi ăn thôi!
Mẹ kiếp, cứ dề dà! đáng lẽ phải đi vào nhà ăn mà xếp hàng lâu rồi mới phải. Có mười một đội làm việc trên công trường, mà nhà ăn thì chỉ chứa được hai đội.
Mà mãi không thấy đội trưởng đâu. Pavlo lia mắt nhìn quanh rồi quyết định :
- Sukhov, Gopchik theo tôi! Kildigs! Lúc nào tôi phái Gopchik trở lại là anh phải cùng toàn đội tới ngay!
Mấy người vừa đi khỏi, chỗ của họ liền bị chiếm ngay. Cái lối họ chen vào ôm lấy cái lò, như thể ôm đàn bà vậy.
- Đừng ngủ nữa! - Mấy tướng hét toáng lên - Hút thuốc thôi!
Cả bọn nhìn nhau xem ai châm thuốc. Chả có ai cả. Hoặc cóc có thuốc, hoặc có, nhưng ém nhẹm, không muốn cho ai biết.
Sukhov cùng Pavlo bước ra ngoài. Gopchik chạy tung tăng đằng sau.
- Có ấm hơn rồi đấy. Không quá âm mười tám độ. Giời này xây tốt.
Họ quay nhìn đống gạch. Một số lớn đã được ném lên giàn giáo, một số đã nằm trên sàn tầng hai rồi.
Sukhov nheo mắt nhìn mặt trời xem cái luật mà ông trung tá nói có đúng không.
Ngoài quãng trống không có vật cản, gió vẫn tha hồ thổi và cắn vào mặt nhức buốt, như nhắc ta rằng giờ hãy còn là tháng Giêng.
Nhà ăn của công trường chỉ là một căn nhà gỗ tồi tàn. Giữa nhà là cái bếp lò trên có kê những tấm sắt rỉ để che những khe hở. Bên trong ngăn ra một phần làm bếp, phần làm chỗ ngồi ăn. Cả hai phần đều không có sàn gỗ. Mặt đất bị dẵm nát, lồi lõm. Toàn bộ bếp chỉ độc một cái lò vuông, trên đặt một cái nồi lớn.
Có hai người phục dịch trong bếp: cấp dưỡng và một người kiểm tra vệ sinh. Buổi sáng, trước khi rời khỏi trại, cấp dưỡng đã lĩnh hạt mạch ở bếp chính của trại. Tính ra mỗi đầu người được khoảng 50 gram, cả đội - một kí lô, còn toàn công trường khoảng hơn một yến. Tay cấp dưỡng chả tội vạ gì mà phải vác cái bao hơn chục kí đi hơn ba cây số từ trại đến công trường. Hắn giao việc này cho một phạm tin cậy. Chẳng thà ăn bớt của đám tù để thuê thằng này còn hơn sụm lưng mà mang vác. Các việc khác cũng vậy, xách nước, bổ củi, nhóm lò, thằng cha này chẳng động tay, tất cả đều thuê phạm - bọn vét đĩa, làm hết, và cũng lại bấu vào phần của anh em để cho bọn này. Thì của người phúc ta mà lại. Lại còn cái luật này nữa: không được ăn ở ngoài nhà ăn. Vì vậy ngày nào cũng phải mang bát đi theo (cũng không thể để bát lại ở công trường qua đêm được, dân ngoài sẽ vào lấy hết). Có tới năm chục cái bát, cứ mỗi đội ăn xong là phải rửa ngay cho đội sau, và người thu dọn bát cũng được thêm phần. Để bát không bị tuồn ra ngoài, người ta đã cắt cử một phạm tin cậy đứng kiểm tra ở cửa. Nhưng tha hồ cho kiểm tra anh em vẫn mang được bát ra ngoài như thường, hoặc nói khó với tên kiểm soát, hoặc đợi lúc hắn sơ ý mang lén ra. Thế là lại phải cử thêm một phạm nữa đi khắp công trường, thu gom bát bẩn mang về. Cả tên soát bát ở cửa, lẫn tên này, đều được cho thêm phần.
Bản thân tên nấu bếp thì chỉ làm mỗi việc: đổ hạt mạch và muối vào nồi. Nếu có mỡ thì hắn chia đôi: hắn một nửa và cái nồi một nửa. (Mỡ ngon chả bao giờ đến lượt tù nhân. Chỉ có mỡ xấu mới được bỏ vào nồi. Chính vì thế tù nhân chỉ mong được lĩnh mỡ xấu ở nhà kho). Như vậy công việc của tay bếp chỉ là khuấy cháo lúc sắp chín. Còn cha vệ sinh viên thì ngay cả đến việc này cũng chả làm, chỉ ngồi nhìn. Khi cháo chín đầu bếp múc cho hắn trước tiên, muốn ăn bao nhiêu cũng được. Thằng cha đầu bếp cũng thế. Rồi một trong các đội trưởng làm nhiệm vụ trực - họ thay nhau mỗi người một ngày - đến nếm xem cháo nấu như vậy phạm có ăn được không. Cha này được xuất đúp.
Xong xuôi rồi còi mới huýt. Lúc này đội trưởng các đội mới đến, xếp hàng lần lượt đưa bát vào cho tên bếp để lĩnh cháo cho đội mình. Cháo đựng trong bát loãng toẹt, và đừng có hỏi họ đã bỏ bao nhiêu khẩu phần của anh vào đó, bởi chỉ cần mở miệng họ sẽ cho anh ăn đủ các thứ nhơ bẩn nhất.
Gió rít trên thảo nguyên hoang vu - nơi mùa hè thì khô cháy, mùa đông thì băng giá. Ở thảo nguyên còn chẳng cây gì có thể mọc lên được, huống hồ giữa bốn tầng rào dây thép gai. Lúa mì mọc ở chỗ độc nhất là chỗ phát khẩu phần bánh mì, lúa mạch chỉ được gặt trong kho lương thực của trại. Và dù anh có làm đến gãy lưng hay lê lết ra đó, cũng không thể đào đâu ra thức ăn, ngoài phần trại phát cho. Mà cả khẩu phần này anh cũng không được lĩnh đủ: còn phải cúng cho đầu bếp, cho bọn phạm được thuê làm dịch vụ và đủ thứ hạng khác. Chúng bớt xén, trộm cắp của anh em từ trên xuống dưới và khắp mọi nơi: cả ở đây lẫn trong trại, trước đó cả ở các nhà kho nữa. Mình làm trầy vẩy ra mà chúng cho bao nhiêu chỉ được bấy nhiêu. Và đừng có láng cháng tới gần những chỗ phát đồ ăn.
Ai có thân người ấy khắc tự lo.
Pavlo, Sukhov và Gopchik bước vào nhà ăn - ở đó toàn thấy lưng người là lưng người, chả nhìn thấy bàn ghế đâu. Chỉ có một số đang ngồi ăn, còn phần lớn là đứng. Đội 82 từ sáng tới giờ đào hố ngoài trời, vừa nghe thấy tiếng còi đã xông ngay vào nhà ăn chiếm hết chỗ rồi. Dù đã ăn xong, nhưng họ vẫn ngồi ỳ ra đó. Thì còn có chỗ nào ấm mà nghỉ nữa? Anh em chửi mắng ầm ĩ đòi chỗ, nhưng chẳng thà vạch đầu gối ra mà chửi còn hơn. Họ đâu có nghe, ngồi trong này nghe chửi còn hơn phải ra ngồi ở ngoài trời giá buốt.
Pavlo và Sukhov lấy khuỷu tay chen đẩy đám đông, đến vừa đúng lúc. Một đội đang lĩnh xuất, đội khác đứng đợi, các đội phó đứng cạnh cửa tò vò chỗ phát cháo. Như vậy đôi 104 sắp đến lượt rồi.
- Bát đâu! bát đâu! - Tên bếp la hét đằng sau cửa tò vò, mọi người đẩy bát vào cho hắn. Sukhov nhặt được mấy cái bát sạch cũng tính đẩy vào, không phải để lấy thêm phần cho mình, mà để cho nhanh. Một vài phạm thân tín của tên bếp đang rửa bát bên trong, bọn này đâu có làm không công.
Người đội phó đứng trước đến lượt lấy đồ ăn cho đội mình, Pavlo quay lại hét qua đầu những người khác: “Gopchik!”
- Cháu đây! - Tiếng Gopchik vọng từ cửa vào, giọng nó the thé như tiếng dê con.
- Gọi đội mình tới!
Thằng bé chạy biến đi.
Cái chính là cháo hôm nay không đến nỗi tệ. Vào hạng ngon nhất, được nấu bằng hạt lúa mạch.
Năm thì mười họa mới được như vậy. Thường thì chỉ có món magara ngày hai bữa, hay bột khuấy với nước. Cháo nấu bằng hạt mạch no lâu hơn, quý là ở chỗ đó.
Lúc còn nhỏ Sukhov cho ngựa ăn biết bao nhiêu lúa mạch, anh đâu có ngờ một ngày kia anh chỉ ao ước có được một nắm.
- Bát! bát! - Họ lại hét toáng lên.
Đã tới lượt đội 104. Tay đội phó đứng trước nhận khẩu phần đúp của “lãnh đạo” rồi chen ra.
Cái khẩu phần đúp đó cũng là bấu từ khẩu phần của anh em, song không có ai kêu ca. Mỗi đội trưởng có quyền nhận khẩu phần đúp, anh ta có thể ăn, hoặc cho người phụ tá của mình. Turin cho Pavlo xuất này.
Lúc này nhiệm vụ của Sukhov là lách tới một cái bàn, đuổi hai thằng đang mót đồ thừa đi, nói khó với một bạn tù ăn xong rồi thì đi đi cho, dọn sạch một chỗ trên bàn đủ để anh đặt mười hai cái bát sát cạnh nhau, rồi chồng thêm sáu cái nữa lên trên, và trên cùng chồng hai bát. Bây giờ phải đón những bát cháo từ tay Pavlo. Anh phải đếm lại một lượt nữa và canh chừng không cho mấy tay đội khác thuổng cháo đội mình, hay lấy cùi chỏ huých đổ. Ngay bên cạnh, người đứng lên, kẻ ngồi xuống ăn ào ào. Phải lấy mắt mà vạch rõ ranh giới, xem họ ăn bát của họ hay ăn sang bát của đội mình.
- Hai! bốn! sáu! - Tên bếp đếm ở đằng sau cửa tò vò. Hai tay hai bát, hắn phát liền một lúc. Như thế dễ cho hắn hơn, đếm bát một hay bị nhầm.
- Hai, bốn, sáu. - Pavlo khẽ đếm theo và anh cũng chuyển cho Sukhov hai bát một lúc, và Sukhov xếp bát lên bàn.
Tuy không đếm thành tiếng, nhưng Sukhov đếm kỹ hơn ai hết.
- Tám, mười.
Sao đến giờ Gopchik chưa đưa đội mình tới nhỉ?
- Mười hai, mười bốn... - Trong bếp vẫn tiếp tục đếm.
Vừa đúng lúc đó trong bếp đã hết sạch bát. Nhìn qua đầu và vai Pavlo, Sukhov thấy tên bếp đặt hai bát cháo lên thành cửa, hai tay vẫn giữ lấy bát như đang nghĩ gì. Chắc hắn đang ngoái vào bên trong chửi mấy tên rửa bát. Cùng lúc ấy có người đẩy qua cửa tò vò vào cho hắn một chồng bát không. Hắn phải buông hai bát cháo ra để bê chồng bát vào.
Sukhov thôi không canh mấy bát cháo trên bàn nữa, quay lại, bước qua cái ghế dài, lôi hai bát cháo trên thành cửa tò ra và nói khẽ: “Mười bốn!”. Nói cho Pavlo nghe, chứ không phải cho tên bếp.
- Để lại, lôi đi đâu thế? - Tên bếp rống lên.
- Của bọn tôi, của bọn tôi. - Pavlo hét lại.
- Của các anh thì của, chứ đừng làm cho người ta đếm nhầm.
- Thì mười bốn rồi. - Pavlo nhún vai nói. Tự mình hắn chả bao giờ làm cái trò này, còn phải giữ uy tín của một đội phó chứ. Song hắn đã về hùa với Sukhov, vả lại đã có Sukhov rồi, có chuyện gì xảy ra thì cứ đổ cho anh ta là xong.
- Tôi đã đếm mười bốn rồi! - Tên bếp nổi cáu.
- Đếm rồi, nhưng cháo chưa đưa, hai tay chả giữ khư khư ấy là gì.- Sukhov nói chõ vào - Không tin cứ đếm lại, tất cả đang còn ở trên bàn đây này.
Sukhov quát trả lại tên bếp, song cũng đã nhìn thấy cặp Estoni đang tiến đến gần, anh liền ấn hai bát cháo vào tay họ, và còn kịp quay trở lại bàn, kịp đếm xem các bát cháo có còn nguyên tại chỗ không. Hóa ra đội bạn chậm chạp quá, chưa nẫng được bát nào, mặc dù chẳng có ai canh chừng cả.
Cả cái khuôn mặt đỏ gay của tên bếp lấp đầy khung cửa sổ.
- Bát đâu? - Hắn hỏi, giọng nghiêm nghị.
- Đây, nhìn đi! - Sukhov hét lên - Đứng lùi ra ông bạn, để cho người ta nhìn - anh đẩy một người nào đó. - Hai này! - Anh nhấc hai bát cháo chồng trên cùng lên cao - Còn đây là ba bát nữa, bốn bát một hàng, đếm đi!
- Đội của các bố chưa đến hả?
Tên bếp nhìn Sukhov qua khuôn cửa tò vò. Cửa làm hẹp để mọi người khỏi nhìn được vào bên trong xem cháo còn bao nhiêu.
- Chưa, chưa đến. - Pavlo lắc đầu.
- Đội chưa đến mà đã lĩnh cháo, các bố làm trò gì thế hả? - Hắn cáu um.
- Họ đến kia rồi! Sukhov kêu lên.
Và tất cả đều nghe thấy cái giọng oang oang của ông trung tá, như thể ông đang nói trên đài chỉ huy :
- Chen chúc nhau làm gì ở đây thế này? Ăn xong rồi thì phải đi ra lấy chỗ cho người khác vào với chứ!
Tên bếp còn cằn nhằn cái gì đó rồi đứng thẳng lên, và ta chỉ còn trông thấy hai bàn tay hắn qua lỗ cửa tò vò như lúc trước.
- Mười sáu! mười tám!
Và một xuất đúp - hai bát cuối cùng :
- Hai mươi ba. Xong! đội khác!
Những người trong đội len tới và Pavlo chuyển cháo cho họ, còn những người ngồi ở bàn bên thì anh phải đưa cháo qua đầu người khác mới tới được họ.
Vào mùa hè, mỗi ghế dài thường ngồi được năm người, mùa đông quần áo mặc to sù sụ, nên chỉ ngồi được có bốn, thế mà cũng không có chỗ để khuỳnh tay xúc thìa.
Nghĩ thầm trong bụng mình sẽ được một trong hai bát cháo vừa thuổng được, Sukhov bèn ăn vội xuất của mình. Anh co đầu gối chân phải vào bụng, rút cái thìa có ghi “Ust-Izma, 1944 ra, bỏ mũ xuống kẹp vào nách bên trái, rồi bắt đầu khuấy cháo.
Bây giờ phải để hết tâm trí vào việc ăn. Phải vét lòng bát cho thật sạch, đưa thận trọng vào miệng, lấy lưỡi đảo đi đảo lại. Song cũng lại phải ăn cho nhanh để Pavlo thấy hết mà đưa thêm cho bát nữa. Thằng cha Fechiukov lúc nãy đến cùng với cặp Estôni, đã chứng kiến vụ hai bát cháo thừa, đang đứng ngay trước mặt Pavlo. Hắn hau háu nhìn vào hai bát cháo đó và muốn Pavlo hiểu rằng hắn cũng phải được hưởng xuất đó, ít nhất là một nửa.
Tuy nhiên đội phó Pavlo trẻ tuổi, da ngăm ngăm, vẫn ăn bình thản. Nhìn nét mặt hắn không thể hiểu được hắn có nhìn thấy người bên cạnh hay để ý tới hai bát cháo thừa kia không.
Sukhov ăn gần hết bát cháo. Không biết có phải vì cái dạ dầy được chuẩn bị trước cho hai bát cháo hay không, mà ăn xong một bát anh vẫn chưa thấy no như mọi khi được ăn cháo mạch. Anh luồn tay vào túi áo, lấy nửa miếng cùi bánh tròn không bị lạnh cứng bọc trong tấm rẻ trắng, vét cho sạch những hạt mạch còn dính trong lòng bát và chung quanh thành bát, vun vào một chỗ. Được một miếng kha khá, anh lấy lưỡi liếm thật sạch, rồi lại vét lại lần lữa. Khi ăn xong, cái bát của anh sạch như đã được rửa, chỉ có điều mờ mờ, chứ không bóng lên như thế. Anh quài tay qua vai đưa chiếc bát cho mấy tên rửa bát, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, mũ cắp nách.
Tuy Sukhov là người chớp được hai bát cháo, song Pavlo là người có quyền chia.
Pavlo bắt anh đợi thêm chút nữa cho tới khi hắn ăn xong. Hắn không liếm bát, mà chỉ lấy thìa vét sạch cháo, sau đó cất thìa và làm dấu thánh. Khi đó hắn khẽ chạm vào hai trong bốn bát cháo - bàn nhiều bát quá, không thể đẩy chúng được, - ra điều cho Sukhov đó là hai bát cháo của anh.
- Ivan Denisevich, anh lấy một bát, còn một bát đem đến cho Sezar.
Sukhov nhớ ra là phải mang một bát cho Sezar ở trên văn phòng (Sezar chẳng bao giờ hạ mình ngồi ăn ở nhà ăn, cả ở đây lẫn ở trại), - nhớ ra, song khi Pavlo chạm tay vào hai bát cháo, tim anh như ngừng đập: liệu Pavlo có cho mình cả hai bát không? Khi biết chỉ được một, tim anh đập bình thường trở lại.
Và bây giờ khi anh cúi xuống cái của kiếm được hợp pháp đó và bắt đầu ăn một cách có lý trí, thì anh chẳng còn cảm thấy những cú huých vào lưng của những người mới tới. Anh chỉ khó chịu không biết Pavlo có cho Fechiukov bát cháo thứ hai không. Fechiukov hơn người về tài bòn mót, nhưng không đủ gan tăm tia.
Ông trung tá hải quân Buinovski ngồi gần đó. Ông đã ăn xong từ lâu và không biết trong đội có cháo thừa, cũng không đếm xem có bao nhiêu bát còn lại ở chỗ đội phó. Đơn giản là ông đang thư giãn, đang ngồi sưởi ấm và không đủ sức đứng dậy đi ra ngoài trời rét buốt, hay trở lại chỗ nhà máy điện chẳng có lấy chút hơi ấm nào cả. Lúc này ông cũng đang chiếm chỗ của những người mới đến, giống như những người mà năm phút trước ông đuổi quầy quậy bằng cái giọng chói tai của mình. Ông vừa mới vào trại và cũng vừa mới làm việc chung với mọi người, cho nên chính những giây phút này thực sự là những giây phút quan trọng đối với ông (mặc dù ông không biết điều đó) - những giây phút biến ông từ một sĩ quan hải quân to mồm, hách dịch, thành một tù nhân chậm chạp, thận trọng. Chỉ có thế ông mới có thể qua được hai mươi nhăm năm trong trại.
... Người ta la hét, chửi bới ông, thúc vào lưng ông đòi chỗ.
Pavlo nói :
- Trung tá! Trung tá!
Buinovski giật bắn mình, như bị đánh thức và quay lại.
Pavlo đưa bát cháo cho ông, không hỏi xem ông có muốn ăn hay không.
Cặp lông mày của Buinovski dựng ngược lên, hai mắt nhìn vào bát cháo như thể nhìn vào một vật lạ chưa từng thấy bao giờ.
- Cầm lấy, cầm lấy. - Pavlo nói cho ông yên tâm, rồi cầm lấy bát cháo cuối cùng cho đội trưởng, đứng dậy, bước ra ngoài.
Nụ cười ngượng ngập nở trên đôi môi nứt nẻ của viên trung tá, người đã từng bôn ba bốn biển, vòng quanh châu Âu và vùng cực Bắc mênh mông. Ông sung sướng cúi xuống bát cháo mạch đong vơi, loãng hoét, không một chút mỡ, chỉ có hạt mạch và nước.
... Fechiukov hậm hực nhìn Sukhov và trung tá rồi bỏ đi.
Theo Sukhov thì việc Pavlo cho ông trung tá bát cháo là đúng. Rồi sẽ đến lúc ông ta tự học được cách xoay xở, chứ như bây giờ ông còn ngu ngơ lắm. Sukhov còn có thêm một niềm hi vọng mỏng manh nữa: Sezar có thể sẽ cho anh bát cháo của hắn chăng?
Sau khi ăn xong xuất thứ hai, Sukhov lại lấy cùi bánh vét sạch lòng bát, vừa lau vừa liếm miếng bánh, cuối cùng thì anh ăn hết miếng bánh đó. Xong xuôi anh mới bưng bát cháo đã nguội của Sezar và đứng dậy đi ra ngoài.
- Mang lên văn phòng! - Anh ẩy tên phạm canh bát đĩa ở cạnh cửa định không cho anh ra.
Văn phòng là một cái nhà gỗ thô mộc cạnh trạm gác. Vẫn như lúc sáng, khói cuồn cuộn tuồn từ trong ống khói ngôi nhà ra. Bếp lò lúc nào cũng được một tên cần vụ kiêm tùy phái trông nom. Hắn được trả lương khoán để làm những việc này. Đối với văn phòng người ta không tiếc củi.
Sukhov kẹt mở cửa ngoài, rồi đến một cửa nữa được nhồi kín chặt bằng những sợi đay. Anh bước lẹ vào mang theo một đám hơi nước băng giá, vội vàng sập cửa lại (kẻo lại bị la tướng lên: “Ê, đồ ngu, đóng cửa lại!”).
Anh thấy trong phòng nóng như nhà tắm hơi vậy. Qua lớp băng chảy trên mặt kính cửa sổ, mặt trời vui vẻ đùa nghịch, không giận dữ như ở phía trên nhà máy điện. Và khói từ trong chiếc tẩu của Sezar nhả ra cuồn cuộn như hương trầm trong nhà thờ. Còn lò thì cháy đỏ rực, các ngài ở đây xài củi khiếp thật. Đến cả ống dẫn khói cũng đỏ rực.
Nóng như thế này ngồi xuống một tí là ngủ ngay.
Văn phòng chia làm hai căn. Cửa phòng của ông giám công hé mở, tiếng ông oang oang vọng ra :
- Ta đã chi quá mức cho quỹ tiền lương và cho vật liệu xây dựng. Có những tấm gỗ rất quý, đây tôi còn chưa nói đến những bộ ván, tù nhân đem bổ ra chặt làm củi sưởi, thế mà các anh chẳng biết gì cả. Mấy ngày hôm nay trời gió to như vậy mà tù nhân bốc dỡ xi măng ở cạnh kho, lại còn lấy cáng mà khiêng xi măng đi đến cả chục mét. Xung quanh kho đâu cũng thấy xi măng ngập đến mắt cá chân, lúc ra về áo tù không phải màu đen nữa, mà là màu xám. Mất mát bao nhiêu các anh có biết không hả?
Chắc trưởng giám công đang họp với mấy tay quản công ở trong phòng.
Ở góc cửa ra vào, một tay cần vụ đang ngủ gật trên chiếc ghế dài. Cạnh hắn là Skuropachenko, B-219, cao như cây sào và cây sào này đang uốn cong bên cửa sổ nhìn chăm chú ra ngoài xem có ai có tha lôi gì ở nhà kho vật liệu ra không. Thế mà bọn này vừa nẫng được một cuộn giấy dầu ở đó đấy anh giai ạ.
Hai người kế toán - cũng là phạm, đang nướng bánh mì trên lò. Họ lấy dây thép đan thành cái vỉ để nướng bánh cho khỏi cháy.
Sezar đang ngồi ngả ngốn trên ghế, miệng hút thuốc. Anh ta ngồi quay lưng lại nên không trông thấy Sukhov.
Ngồi đối diện với anh ta là X-123, một lão già hom hem - tù nhân khổ sai mười hai năm. Lão đang ăn cháo.
- Không, bố già ơi, - Sezar cố nói giọng nhẹ nhàng - khách quan mà nói Eizenstein là một thiên tài. Phim “Ivan Hung đế” chẳng lẽ không phải một tác phẩm thiên tài? Cảnh các lính thị vệ đeo mặt nạ nhảy múa, rồi cảnh trong nhà thờ nữa!
- Uốn éo làm bộ làm tịch! - Đưa thìa lên ngang miệng, X- 123 giận dữ nói. - Có quá nhiều nghệ thuật để cuối cùng chẳng có nghệ thuật gì cả. Cứ như ớt và hạt hướng dương thay cho bánh mì vậy! Lại còn cái tư tưởng chính trị của nó mới đê tiện làm sao chứ - bênh vực cho ách thống trị chuyên chế của một cá nhân. Một sự phỉ nhổ ký ức của cả ba thế hệ trí thức Nga (cháo mà ăn vào cái miệng chẳng phân biệt được ngon hay không của lão già, có phí không cơ chứ)
- Nhưng còn biết thể hiện đề tài như thế nào để người ta thông qua đây?...
- Ôi chao, thông qua?! Thế thì đừng có nói là thiên tài! Hãy nói đó là thằng bợ đít, thực hiện đơn đặt hàng chó má. Một thiên tài đâu có cái kiểu thể hiện đề tài của mình theo ý thích của quân bạo chúa!
- E hèm, e hèm. - Sukhov dặng hắng. Anh ngại không muốn phá ngang cuộc đàm thoại học thức cao siêu này. Nhưng chả lẽ cứ đứng ở đó mãi.
Sezar quay lại, giơ tay đón lấy bát cháo, cũng chẳng nhìn Sukhov, cứ như thể bát cháo tự nó bay đến, vẫn nói, khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình :
- Nhưng ông hãy nghe đây, nghệ thuật không phải nói cái gì, mà nói bằng cách nào.
Chớp được ý, X-123 đập tay xuống bàn :
- Không! Quỷ tha cái “như thế nào” của cậu đi, nếu như nó không gợi lên trong tôi những tình cảm tốt đẹp!
Sau khi đưa bát cháo, Sukhov nán lại một chút theo đúng phép lịch sự đòi hỏi. Anh chờ xem Sezar có thết mình một điếu thuốc hay không, nhưng hắn đã quên hẳn sự có mặt của anh.
Thế là Sukhov đành quay lưng, lặng lẽ bước ra.
Bên ngoài không đến nỗi tệ lắm. Không lạnh quá. Hôm nay mà xây tường thì nhất rồi.
Sukhov bước trên con đường nhỏ và nhìn thấy một mảnh sắt nhỏ nằm lăn lóc trên tuyết. Miếng sắt gẫy ra từ một con dao nào đấy. Hiện tại anh không biết dùng nó vào việc gì, song biết đâu nay mai lại chẳng có lúc dùng đến. Anh nhặt miếng sắt lên, đút vào túi quần. Anh sẽ giấu nó vào một chỗ trong nhà máy điện. Năng nhặt, chặt bị.
Khi tới nhà máy điện, việc đầu tiên Sukhov đi lấy cái bay ở chỗ cất giấu và giắt nó vào dây thừng buộc bụng. Rồi anh khom người chui vào chỗ trộn vữa.
Vừa ở ngoài nắng vào Sukhov thấy ở đây tối hẳn và chẳng ấm gì hơn bên ngoài. Mà còn có vẻ ẩm hơn thì phải.
Tất cả các anh em trong đội xúm xít xung quanh cái lò tròn mà Sukhov đặt cạnh cái lò sấy cát đang bốc hơi nghi ngút. Ai không kiếm được chỗ cạnh lò thì ngồi lên thành cái thùng trộn vữa. Đội trưởng đang vét nốt bát cháo. Cháo được Pavlo hâm nóng trên lò sưởi.
Mọi người đang thì thào chuyện trò. Họ tươi tỉnh hẳn lên. Họ cho Sukhov biết đội trưởng đã khóa được phần trăm định mức tốt, hắn ở văn phòng về vui vẻ lắm.
Việc phịa ra thành tích của đội là công việc của hắn - một đội trưởng có đầu óc. Nhưng cả sáng nay đội anh đã làm được những gì? Đốt lò và làm chỗ trú là làm cho bản thân, chứ đâu phải là công việc sản xuất. Nhưng trong phiếu công tác cũng phải ghi đã làm được những việc gì đó vào. Trong chuyện này, có thể Sezar cũng có nhúng tay - đội trưởng vì nể hắn, hẳn là phải có lý do.
Khóa được phần trăm định mức tốt, có nghĩa đội anh sẽ nhận được những khẩu phần hời hơn trong năm ngày tới. Năm ngày, cũng có thể chỉ bốn ngày: các ông trên bớt xén của đội anh một ngày, nhưng đến khi nghỉ “bảo dưỡng” thì toàn trại như nhau tuốt, đội làm việc tốt, cũng như đội làm việc dở. Có vẻ như không làm mếch lòng ai, tất cả đều bình đẳng, nhưng kỳ thực người ta đã trấn của phạm những thứ đáng ra họ được nhét vào bụng. Thì có làm sao, bụng tù thì thế nào mà chả chịu được. Hôm nay gắng chịu, mai mốt rồi sẽ được ăn thoải mái. Mơ ước này anh em mang vào cả giấc ngủ trong những ngày nghỉ “bảo dưỡng”.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy ấm ức: làm năm ngày, mà chỉ được ăn có bốn.
Cả đội yên lặng. Ai có thuốc thì lặng lẽ giở ra hút. Họ ngồi quây quần trong bóng tối và ngắm nhìn ngọn lửa. Giống như một gia đình. Mà đội của Sukhov đúng là một gia đình. Tất cả lắng nghe đội trưởng kể chuyện cho hai ba người ngồi cạnh lò sưởi. Hắn rất kiệm lời, bởi vậy khi nào hắn thao thao, có nghĩa lòng hắn đang vui.
Hắn, Andrei Prokofich, tới giờ cũng vẫn không học được cách đội mũ trong lúc ăn. Không đội mũ trông hắn già hẳn. Đầu hắn trọc như tất cả mọi người, ánh lửa hắt ra từ lò sưởi soi rõ vô số những sợi bạc lẫn trong đám tóc đã ngả sang màu xám.
- ... Đứng trước tiểu đoàn trưởng mình đã run bỏ mẹ, đằng này lại là trung đoàn trưởng! “Chiến sĩ hồng quân Turin đã có mặt theo lệnh của thủ trưởng...”, mình báo cáo. Ông ta ngó mình trừng trừng, lông mày dữ phát khiếp. “Tên là gì, họ là gì?”. Mình nói. “Năm sinh?”. Mình nói tiếp. Khi ấy, năm ba mươi, mình mới hăm hai tuổi, một thằng oắt con. “Phục vụ thế nào, Turin? - “Phục vụ nhân dân lao động!”. Ông ta bỗng nổi sung lên, đập tay đánh bốp xuống bàn. “Phục vụ nhân dân lao động, mày là thằng nào hở quân lưu manh?!”. Mình đã sôi tiết lắm rồi, song vẫn cố nhịn: “Xạ thủ đại liên hạng nhất. Điểm cao nhất về quân sự và chính trị...” - “Hạng nhất cái gì hở đồ khốn nạn? Bố mày là culac! Đây này, có giấy từ Kameni gửi đến đây này! Bố mày là culac, còn mày thì bỏ trốn. Người ta truy nã mày hai năm nay”. Mặt mình tái dại, miệng câm như hến. Ròng rã một năm mình đâu dám biên thư về nhà, sợ để lộ tông tích. Chẳng biết người nhà còn sống hay đã chết. Họ cũng chẳng biết gì về mình. Lão trung đoàn trưởng lại gầm lên, cả bốn gạch trên cầu vai áo cùng rung lên: “Mày có lương tâm không đấy, hả thằng khốn? Dám lừa cả chính quyền Công - Nông?”. Lúc ấy cứ tưởng lão sẽ nện cho mình một trận. Nhưng lão không đánh. Lão ký lệnh trong vòng sáu tiếng đồng hồ tống mình ra khỏi cổng doanh trại. Lúc đó là tháng mười một. Chúng lột hết quân phục mùa đông của mình, chỉ để lại quân phục mùa hè, một đôi tất cũ nát và một chiếc áo khoác cũn cỡn. Lúc ấy mình ngu, chứ không nộp chúng cũng chẳng làm gì được mình. Và thế là chúng ấn cho mình một cái giấy giải ngũ khốn nạn thế này: “Bị sa thải khỏi quân ngũ vì là con phú nông”. Với cái giấy chứng nhận như thế có mà đi xin việc! Đi về nhà phải mất bốn ngày trên tầu hoả, chúng chẳng cho lấy một tấm vé, một ngày ăn đường, chỉ cho một bữa cuối cùng rồi a lê hấp, cuốn gói khỏi trại lính.
... Ấy thế mà hồi ba mươi tám mình lại gặp lại ông trung đoàn trưởng ở trại chuyển vận Kotlas, cũng bị mười năm tù. Qua trung đoàn trưởng mình mới biết tiểu đoàn trưởng và chính trị viên trung đoàn, cả hai đều đã bị xử bắn năm ba mươi bảy. Vô sản hay phú nông, có lương tâm hay không có lương tâm, lúc ấy, nào có khác gì nhau... mình làm dấu thánh, nói: “Dù sao vẫn có Chúa trên trời, đấng sáng tạo muôn loài. Người chịu đựng biết bao đau khổ, nhưng khi người trừng phạt cũng rất đau”.
Ăn xong hai bát cháo, Sukhov thèm thuốc chết được. Anh nghĩ bụng phải vay tạm của ai đó, khi nào mua của thằng cha người Litva ở trại bảy hai ca thuốc sợi, lúc đó sẽ trả sau. Anh khẽ nói thầm vào tai gã Estoni - thuyền chài :
- Nghe này, Eino, cho tớ vay một điếu, sáng mai sẽ trả. Tớ không qụyt đâu mà sợ.
Eino nhìn thẳng vào mắt Sukhov, rồi nhìn sang anh bạn đồng hương lúc nào cũng kè kè như hình với bóng. Hai tên này cái gì cũng chung, kể cả một sợi thuốc. Chúng nói nhỏ gì với nhau, và Einô rút cái bao đựng thuốc có dây buộc màu hồng. Hắn véo một nhúm thuốc lá sợi nhà máy, rồi bỏ vào lòng bàn tay Sukhov. Hắn nhìn nhúm thuốc, rồi rút thêm vài sợi nữa. Chỉ vừa đủ vấn một điếu thuốc, không hơn.
Sukhov có ít giấy báo. Anh xé ra một miếng, quấn điếu thuốc, rồi mồi bằng mẩu than hồng rơi giữa hai chân đội trưởng, - và rít một hơi dài! Một hơi thật dài! Toàn thân ngất ngây, thậm chí có cảm giác như say từ đỉnh đầu tới gót chân.
Chỉ vừa mới rít được vài hơi Sukhov đã thấy đôi mắt xanh lè nhìn mình xuyên xuốt gian trộn bê tông: Fechiukov. Kể cũng thương hại hắn, hay cho cái thằng mót rác này mẩu thuốc thừa, nhưng hôm nay anh đã nhìn thấy hắn liếm bát. Tốt nhất là để dành cho Senka Klevsin. Anh ta chẳng nghe thấy đội trưởng kể chuyện gì, ngồi ủ rũ trước lò sưởi, đầu ngoẹo sang một bên.
Lửa từ lò sưởi hắt ra soi sáng cái mặt rỗ của đội trưởng. Hắn kể về hắn một cách không thương tiếc, như thể kể về ai đó :
- Lúc ấy mình bán tất đồ đạc cho một gã buôn ở Barakhol với giá chỉ bằng một phần tư. Sau đó mua ở chợ đen được hai ổ bánh mì. Dạo đó đã có tem phiếu rồi. Mình tính nhẩy tầu hàng về nhà, nhưng luật mới đề ra rất nghiêm: bắn bỏ tất cả những ai nhẩy tầu hàng... Còn vé, ai chẳng nhớ, hồi ấy đến có tiền cũng không mua được, huống hồ không có. Trên quảng trường cạnh ga đầy những mũ đàn ông, rất nhiều người đã chết đói vì không đi khỏi đấy được. Còn vé là để giành cho các sếp, người có giấy công tác, cho quân đội. Muốn vào trong sân ga cũng khó: ở các cửa ra vào đều có dân quân, hai bên đường xe lửa đều có lính gác đi lại. Trời đã về chiều, mấy vũng nước đóng băng cả lại, - đêm nay ngủ ở đâu bây giờ? Mình bèn leo lên một bức tường đá nhẵn thín, ôm hai ổ bánh mì nhẩy đại vào bên trong rồi chạy vào nhà vệ sinh ở sân ga. Mình đứng ở đó một lúc, không có ai đuổi ra. Rồi mình đi ra như một hành khách, mặc đồ lính đàng hoàng. Mà tầu Vladivostok - Moscva lại đỗ ngay trên đường ray mới may chứ. Hành khách thì đang chen nhau lấy nước sôi, còn cầm cả ấm mà phạng vào mặt nhau. Có một em mặc áo xanh loanh quanh ở đấy, tay cầm cái ấm hai lít, không dám chen vào, sợ bị bỏng hay bị người ta dẵm lên đôi chân nhỏ xíu của mình. Mình bèn đưa hai ổ bánh cho cô nàng giữ hộ, bảo: “Này, cầm lấy cái này, để tôi lấy hộ cho”. Khi mình vừa lấy xong nước, thì đoàn tầu bắt đầu chuyển bánh. Cô nàng khóc thút thít, hai tay vẫn ôm hai ổ bánh của mình, không biết nên giữ hay nên quẳng đi - ngay đến cái ấm cô nàng cũng chẳng cần. “Chạy đi, mình gào lên, chạy đi, tôi sẽ đuổi theo”. Cô nàng chạy đằng trước, mình chạy đằng sau. Mình bắt kịp nàng, một tay đẩy nàng lên tầu. Tầu bắt đầu chạy, mình nhẩy lên theo. Người kiểm soát không đánh mình, cũng không đẩy xuống: trong toa có nhiều lính và hắn tưởng mình cũng ở trong đám này.
Sukhov lấy cùi chỏ huých vào mạng sườn Senka: này cầm lấy mà hút, ông thợ săn tồi. Anh đưa cho hắn cả cái tẩu thuốc, kệ, cho hắn mút, chẳng sao. Senka là một tay kỳ quái, hắn làm điệu bộ giống như nghệ sĩ, một tay ép vào tim, đầu cúi xuống. Ôi dào, cái nhà ông điếc này!...
Đội trưởng vẫn kể :
- Họ là sáu cô gái, những sinh viên ở Leningrad đi thực tập, ở cùng một cúp-pê khép kín. Trên chiếc bàn nhỏ bày nào bánh, nào bơ và các thức linh tinh khác. Áo khoác đung đưa trên mắc áo, những chiếc va li nhỏ được bọc vải. Họ đâu có biết cuộc đời thật là gì, mọi thứ đều đã bầy sẵn dưới chân...
Cả bọn làm quen, tán dóc, pha trò, uống trà cùng nhau. Rồi họ hỏi tớ ở toa nào vậy? Mình thở dài và thú nhận tất cả: tôi ở cái toa mà, các cô gái ơi, các cô thì sống, còn tôi thì chết.
Trong nhà im phăng phắc. Lò sưởi đỏ rực.
- Sau một hồi “ô, a”, các cô gái bàn nhau... họ giấu mình trên giường tầng ba, lấy áo khoác ngoài phủ lên, khi những người kiểm soát đi tới. Vấn đề không phải là vé, mà là mạng người. Các cô gái giấu mình tới tận Novosibir... à mà sau này mình đã có dịp trả ơn cho một trong những cô gái đó ở nhà tù Petchora: năm ba mươi nhăm cô ấy dính vào vụ Kirov [13], phải làm việc khổ sai, mình thu xếp cho cô ấy một chỗ ở xưởng may.
- Cho trộn vữa chứ? - Pavlo hỏi thầm đội trưởng.
Nhưng đội trưởng không nghe thấy.
Mình về đến nhà vào đêm khuya. Lần vào theo lối vườn rau. Bố thì bị giải đi rồi, mẹ và các em thì đợi bị giải đi. Đã có điện gửi về địa phương, chính quyền xã đang lùng bắt mình. Cả nhà run như giẽ, phải tắt điện và ngồi trên sàn, nép sát vào tường, sợ những phần tử tích cực đi tuần trong thôn nhòm qua cửa sổ. Ngay đêm hôm đó mình mang theo thằng em chuồn xuống miền Nam ấm áp, tới Frunze. Mình chẳng kiếm được gì cho nó và cho mình ăn. Ở Frunze người ta đang nấu nhựa đường trong một cái chảo lớn, bọn trẻ con bụi đời vây xung quanh. Mình tới cạnh chúng, nói: “Nghe đây, các ngài quần thủng! Hãy nhận giúp thằng em tôi đây, hãy dậy dỗ nó nên người!”. Chúng nhận thằng bé... Tiếc là mình không nhập bọn với chúng.
- Thế anh chẳng bao giờ gặp lại thằng em nữa à? - Ông trung tá hỏi.
Turin ngáp.
- Chưa, chưa một lần gặp lại.- Hắn lại ngáp và nói - Thôi, đừng ủ rũ thế các cậu, ta lấy cái nhà máy điện này làm nhà vậy. Ai được phân công trộn vữa, làm quàng lên, đừng có đợi còi.
Đội trong trại là thế. Trưởng trại đố có bảo được tù rời khỏi chỗ, kể cả trong giờ làm việc, vậy mà tổ trưởng trong giờ nghỉ chỉ cần nói một tiếng là tất cả đều răm rắp đứng dậy đi làm. Với lại buộc mọi người làm việc không phải anh ta không có lý do.
Nếu không trộn bê tông trước khi còi huýt, thì đám thợ xây đứng chơi à?
Sukhov thở dài đứng dậy.
- Thôi, tôi đi cạo băng đây.
Anh cầm một cái rìu nhỏ và một cái bàn chải sắt để cạo băng đóng trên gạch. Và để xây, anh cầm một chiếc vồ, thước đo và dây dọi.
Kildigs mặt mũi hồng hào, nhìn theo Sukhov nhăn mặt - việc cái gì mà chưa hô đã xung phong thế nhỉ? Là bởi vì Kildigs không cần phải nghĩ cái ăn của đội từ đâu ra: hắn ta, đồ quỷ hói, có nhận ít hơn hai trăm gram cũng chẳng sao, hắn còn sống bằng đồ tiếp tế.
Nhưng Kildigs vẫn đứng dậy và leo lên tầng hai. Không nên vì mình mà cả đội bị chậm.
- Đợi tớ với, Vanhia, tớ đi đây! - Hắn gọi với theo.
Rõ đồ mặt mâm, giá mà làm cho hắn thì hắn đã chả chạy vội (Còn một lý do nữa khiến Sukhov đứng vội lên, anh muốn chiếm cái dây dọi trước Kildigs. Cái dây dọi này họ nhận được từ kho công cụ).
Pavlo hỏi đội trưởng :
- Có ba người xây tường à? Có nên cho thêm một người nữa không? Hay vữa trộn không kịp?
Đội trưởng chau mày nghĩ ngợi.
- Người thứ tư sẽ là tớ, Pavlo. Cậu nói cái gì? Trộn kịp vữa hay không á?! Cái thùng trộn to đùng thế kia, cắt sáu người trộn vữa. Làm như thế này này: lấy vữa đã trộn ở đầu này, còn đầu kia vẫn tiếp tục trộn vữa mới, làm thế nào để tớ không được nghỉ lấy một phút thì làm!
- Ê! - Pavlo bật dậy, hắn còn trẻ, máu còn nóng, đời sống trong trại chưa vò nhàu được hắn. Đôi má hắn vẫn còn phinh phính vì từng tọng lắm bánh trôi Ucraina - Anh xây gạch, tôi trộn vữa, xem ai làm nhanh hơn ai! Cái xẻng to nhất ở đây biến đâu mất rồi?
Đấy, đội trong trại là thế đấy! Đối với anh chàng Pavlo đã từng vác súng vào rừng, đôi khi còn tập kích các làng nữa, thì việc gì hắn phải làm sụm lưng ở đây nhỉ. Nhưng với đội trưởng - đó lại là chuyện khác!
Sukhov cùng Kildigs leo lên tầng hai. Họ nghe thấy tiếng khò khè của Senka ở sau lưng. Ông bạn điếc chừng cũng hiểu là đã tới lúc làm việc.
Ở tầng hai tường nhà mới bắt đầu được xây: phần lớn mới chỉ xây được ba hàng gạch, đôi chỗ cao hơn một chút. Đây là phần việc nhẹ nhất - xây từ đầu gối đến ngực, không cần dàn giáo. Mấy cái dàn giáo không biết bị chở đi đâu - chở sang khu xây dựng khác, hay phạm đã đốt mất rồi - chỉ là để các đội khác không mó tới được. Bây giờ, nếu muốn làm cho ra làm, thì sáng mai phải đóng dàn giáo mới, không thì chịu chết.
Trên tầng hai cái nhà máy điện không mái này, có thể nhìn rất xa: cả một khu công trường mênh mông tuyết phủ trắng xóa trông như sa mạc (các phạm đã tìm chỗ sưởi ấm trước lúc còi rúc), các tháp canh đen ngòm và những hàng cột căng dây thép gai. Nếu nhìn theo hướng nắng, những gai thép rõ mồn một, nhưng nhìn ngược hướng nắng, sẽ chẳng thấy gì. Mặt trời chói lòa khiến mắt không mở ra được.
Không xa lắm là một toa xe đặt máy phát điện chạy bằng hơi nước. Nó nhả khói mù mịt, che lấp cả một vùng trời. Nó thở dốc. Bao giờ trước khi rúc lên, nó cũng khò khè như người bị bệnh. Đấy, nó đang rúc lên đấy.
- Ê, lao động tiền tiến [14]! Căng nhanh cái dọi lên! - Kildigs thúc Sukhov.
- Cậu nhìn xem gạch chỗ cậu có bao nhiêu băng bám vào kìa, chắc đến tối mới cạo xong? Vác bay lên đây cũng bằng thừa. - Sukhov chọc lại hắn.
Hai người định xây bức tường mà hồi sáng họ đã chọn, nhưng đội trưởng ở dưới gọi vọng lên :
- Này, mấy tướng, hai cậu xây chung một bức tường đi, để vữa khỏi bị đóng cứng lại. Sukhov lấy Senka phụ vữa, còn Kildigs thì để tớ phụ cho. Nhưng trước đó Gopchik thay tớ cạo băng chỗ tường của Kildigs đã.
Sukhov và Kildigs liếc nhau. Ừ, phải đấy. Làm như vậy sẽ dễ hơn. Họ cầm lấy rìu.
Và Sukhov không còn nhìn thấy cái hồ phía xa, nơi ánh nắng chói lòa trên tuyết, không nhìn thấy đám tù nhân tản ra khỏi những nơi sưởi ấm, kẻ thì đào nốt những cái hố đang đào dở buổi sáng, người thì đi dựng các đòn tay trên mái công xưởng. Bây giờ anh chỉ thấy bức tường đằng trước mặt - từ góc trái tường xây thành các bậc cao ngang thắt lưng, và đến tận góc bên phải, nơi nối với tường của Kildigs. Anh chỉ cho Senka chỗ phải băm, chặt lớp băng bám vào gạch, bản thân cũng hùng hục chặt cả bằng đầu rìu lẫn lưỡi rìu, khiến những mảnh băng văng tung toé, bắn cả vào mặt. Anh làm phăng phăng, song đầu óc anh không để vào công việc này. Toàn bộ ý nghĩ của anh dồn vào bức tường mà anh đang xăm soi trước mặt dưới lớp băng bám vào - bức tường ngoài của nhà máy điện dầy hai lớp gạch. Anh không biết trước đây ai đã xây bức tường chỗ anh đang làm, song tên thợ nề này hoặc là kẻ không thạo việc, hoặc là kẻ ẩu tả. Sukhov quen dần với bức tường như chính tường nhà anh. Kia có một hòn gạch bị tụt hẳn vào bên trong, để làm phẳng bức tường xây, xây lại một hàng không được, anh phải xây lại đến ba hàng, và cũng phải trát vữa dầy hơn. Còn chỗ này tường xây bị lồi hẳn ra - lại phải làm phẳng bằng cách xây lại hai hàng. Và anh chia bức tường bằng mắt - phần anh sẽ xây từ chỗ góc trái, phần Senka đảm nhiệm, hắn sẽ xây tiếp đến chỗ Kildigs. Anh đoán là ở đầu đằng kia Kildigs, theo quán tính, sẽ không ngừng tay, xây lấn sang phần của Senka, và như vậy ông điếc này sẽ rảnh tay hơn. Trong khi họ loay hoay bận bịu ở góc đó thì anh sẽ xây lên quá nửa bức tường để họ khỏi bị tụt lại đằng sau. Đồng thời anh tính xem cần bao nhiêu gạch để xây. Và khi những người khênh gạch vừa mới leo lên tầng hai, anh tóm vội lấy Aliosa :
- Mang đến đây cho tôi! Đây, đổ xuống chỗ này, cả chỗ này nữa.
Senka băm nốt chỗ băng bám cuối cùng, lập tức Sukhov lấy chiếc chổi sắt, dùng cả hai tay cạo khắp nơi, cho tới khi lớp gạch ngoài hiện lên màu xám nhạt giống như màu tuyết bẩn, tuy không thật sạch, song vữa có thể bám tốt, nhất là ở các khe, rãnh. Trong khi Sukhov hì hục chải chải, cạo cạo, thì đội trưởng cũng đã leo lên tới nơi, dựng chiếc thước vào góc. Thước của Sukhov và Kildigs đã dựng ở đó từ lúc nãy.
- Ê! - Pavlo hét vọng lên - Trên đó có ai còn sống không? Nhận vữa đi!
Sukhov phát hoảng: dây dọi chưa căng được vữa thì sắp ùn ùn kéo tới. Anh quyết định: dây dọi căng không cho từng hàng một, mà cho luôn ba hàng, để dự phòng. Và để Senka đỡ vất vả, anh giành xây phần tường mé ngoài, cho hắn xây một ít bên trong.
Trong lúc căng dọi, anh giải thích cho Senka cả bằng lời lẫn bằng cử chỉ chỗ tường hắn sẽ xây. Gã điếc đã thủng. Hắn cắn môi, liếc mắt, đầu hất về phía tường của đội trưởng, ra điều: ta cho chúng biết tay? Không chịu thua chứ? Rồi hắn toét miệng cười.
Vữa đã được chuyển lên thang. Bốn cặp khiêng bằng cáng gỗ. Và đội trưởng quyết định, để không bị đông nhanh, vữa sẽ để nguyên trong máng, thợ xây sẽ lấy vữa trực tiếp từ máng để xây. Còn những người khiêng vữa, để không bị chết cóng trên cao, sẽ chuyển gạch cho mấy người xây. Khi nào hết vữa thì ngay lập tức, không để phí thời gian, cặp khác lại khênh lên, còn cặp kia xuống dưới nhà. Ở đó, cạnh lò họ gỡ chỗ vữa đã đông bám chặt vào máng, còn mình thì tranh thủ sưởi lấy một chút.
Họ khênh liền một lúc hai máng vữa cho Sukhov, hai máng cho Kildigs. Vữa bốc hơi nghi ngút, song nó cũng chẳng cho được một chút hơi ấm nào trong cái lạnh ghê người này. Lúc ném vữa lên tường phải lấy bay miết cho thật nhanh kẻo nó đông lại ngay. Nếu mà để cho nó đông lại, thì lúc đó có mà lấy bay hay vồ nậy cũng chẳng được. Và nếu đặt trật một viên gạch, thì vữa đông lại bám chịt lấy chỗ đó. Lúc ấy chỉ có cách lấy cuốc chim mà nậy ra, hay lấy rìu mà chặt cho vữa rụng ra.
Nhưng Sukhov không mắc lỗi trong khi xây. Gạch thì chả viên nào giống viên nào. Viên thì vỡ góc, viên thì sứt mép, viên bị vữa bám vào. Sukhov ngay lập tức tia ngay được những khuyết tật đó và tìm được chỗ trên tường cho từng viên. Anh lấy bay xúc ít vữa bốc hơi, rải nó xuống hàng gạch và nhớ rãnh gạch chạy thế nào để đặt viên sau lên chính giữa. Bao giờ anh cũng trát vừa đủ vữa cho mỗi viên gạch. Rồi anh nhặt một viên từ đống gạch (sao cho găng tay khỏi bị rách, giống gạch sứt này là sắc lắm), lấy bay san đều lại hàng vữa và đặt gạch lên đó. Và ngay lập tức anh lấy cạnh bay gõ gõ viên gạch sao cho mé tường ngoài thẳng theo dây dọi, và hàng dọc cũng như hàng ngang những viên gạch nằm đều chằn chặn như những con xúc xắc. Và viên gạch đóng cứng ngay tức thì.
Sau đó, nếu vữa thừa lòi dưới viên gạch sang hai bên, thì phải bấy bay hất nó đi tức thì (mùa hè còn dùng cho viên gạch khác, chứ bây giờ đừng có mà tiếc) và lại phải nhìn những rãnh nối phía dưới, ở chỗ có những viên gạch sứt ở đầu, phải trát vữa dầy thêm một chút, và khi đẩy sát những viên gạch vào nhau, y như rằng vữa bị lòi ra. Sukhov càng làm, càng hăng tiết. Công việc đã cuốn hút anh. Vữa đâu, cho tiếp!
Công việc đã vào guồng. Ta đã xây được thêm hai hàng, những chỗ lồi lõm, xiên xẹo trước đó đã được chỉnh sửa, nhìn chung là trôi chảy. Nhưng bây giờ lại càng phải tinh mắt hơn!
Anh phải nhanh tay bắt kịp Senka ở hàng gạch ngoài. Còn Senka từ chỗ của đội trưởng cũng đang tiến lại phía anh.
Sukhov giục giã mấy người khênh vữa - nhẩu lên, mấy bố, mang vữa tới ngay cho con nhờ! - Anh làm như điên, nước mũi chảy ròng ròng cũng chẳng kịp vắt.
Khi anh gặp Senka thì hai người phải dùng chung một máng vữa. Chẳng còn mấy tí.
- Vữa! - Sukhov gào lên sau bức tường.
- Có ngay đây! - Pavlo ở dưới cũng hét tướng lên.
Một máng nữa được khiêng tới nơi. Hai người vét nốt chỗ vữa đang còn mềm, còn vữa xung quanh máng đã đông cứng - kìa cạo ngay đi chứ mấy bố, định khuân cả xuống dưới hay sao. Đổ xuống đất! Đưa máng mới vào!
Sukhov và mấy người thợ xây khác đã không còn thấy lạnh nữa. Công việc khẩn trương và cuốn hút khiến cơ thể họ bắt đầu nóng lên. Cái nóng đầu tiên làm cho mồ hồi toát ra dưới các lớp sống áo. Song họ không nghỉ, cứ thế tiếp tục xây lên cao mãi. Một giờ trôi qua, tiếp đến cái nóng thứ hai - cái nóng này làm mồ hôi khô ráo. Băng giá không bò được vào chân họ, đó là điều chủ yếu, những cái còn lại chẳng đáng gì, cả ngọn gió nhẹ buốt - đều không thể làm cho họ sao nhãng việc đang làm. Chỉ có Klevsin cứ đập chân nọ vào chân kia - hắn mang cỡ giầy số 46, nhưng kiếm đâu ra ủng cỡ đó cơ chứ, thành thử con nhà giời phải đi hai chiếc ủng đã không cùng kích cỡ, lại chật ních.
Đội trưởng chốc chốc lại gọi tướng lên: ‘V- ư-ã!”. Sukhov cũng : “V- ư-ã!”. Người nào làm việc bền bỉ, năng xuất hơn, thì người đó trở thành đội trưởng chốc lát trong con mắt của những người bên cạnh. Sukhov cố không để tụt hậu, giá có thằng em ruột ở đây, anh cũng bắt nó khiêng vữa trên cái thang làm tạm, trơn tuột kia.
Sau bữa trưa, Buinovski cùng khiêng vữa với Fechiukov. Nhưng thang dốc và trơn, nên trung tá lúc đầu ì ạch lắm. Sukhov khẽ giục ông :
- Trung tá, nhanh lên! Trung tá, cho vữa đây!
Khi quen việc, mỗi lúc trung tá một nhanh nhẹn hơn lên, nhưng Fechiukov thì càng lười hơn: lúc khiêng vữa hắn làm cho cái máng nghiêng đi, cố tình làm đổ vữa cho nhẹ bớt.
Có lúc Sukhov phải huých vào lưng hắn :
- Đồ chó đẻ! Khi làm giám đốc chắc mày hành công nhân lắm thì phải?
- Đội trưởng! - Trung tá gọi toáng lên - Cho tôi làm với người khác, tôi không khiêng với thằng đụt này!
Đội trưởng sắp xếp lại công việc: Fechiukov chuyển gạch từ dưới lên bệ, và hắn phải làm một mình để còn tiện đếm xem hắn xếp được bao nhiêu viên, còn Aliosa - Tẩy lễ khiêng vữa với trung tá. Aliosa là người hiền lành, ai muốn ra lệnh với hắn cũng được.
- Nào thủy thủ, cho tàu chạy hết tốc lực! - Trung tá đe hắn - Nhìn xem người ta xây kia kìa!
Aliosa cười nhường nhịn :
- Cần nhanh - sẽ có nhanh. Thế nào cũng được.
Rồi hai người rậm rịch xuống cầu thang.
Ở trong đội, người hiền lành dễ bảo như thế quả là của hiếm.
Đội trưởng đang la hét ai đó ở phía dưới. Hình như có một xe chở gạch nữa mới tới. Chả bù cho nửa năm nay không có lấy một viên, bây giờ thì ào ào chở đến. Có gạch thì mới làm được việc. Hôm nay là ngày đầu tiên. Sau mà bị kẹt, lại không có gạch nữa, thì lúc ấy có mà lấy lại cái đà này được khối.
Dưới nhà, đội trưởng vẫn tiếp tục chửi bới. Hình như về cái máy nâng thì phải. Sukhov muốn ngó xuống xem chuyện gì, song chẳng còn lúc nào: phải nắn cái tường cho thẳng. Những người khiêng vữa tới nơi, họ kể lại có một phạm làm nghề thợ điện tới sửa động cơ của cái máy nâng. Đi cùng anh ta là tay quản công phụ trách về điện. Tay này là công nhân tự do và hắn chỉ khoanh tay đứng xem anh thợ điện sửa.
Đời là vậy: một thằng làm, một thằng đứng ngó.
Giá mà họ sửa nhanh nhanh được cái máy nâng thì đỡ biết bao, vừa chuyển nhanh được vữa, vừa chuyển được gạch lên cho họ.
Khi Sukhov đang xây hàng thứ ba (Kildigs cũng bắt đầu hàng thứ ba), thì một vị thủ trưởng nữa leo thang để lên tầng trên. Đó là quản công phụ trách xây dựng. Tên hắn là Der, người Moscva, nghe đâu ngày trước từng làm ở bộ.
Sukhov đã đứng gần Kildigs, chỉ cho hắn thấy Der.
- À-à! - Kildigs phẩy tay. - Tớ chẳng dính dáng tới thủ trưởng, nhưng nếu ông ta mà ngã cầu thang thì hãy gọi tớ.
Chắc lại tới đứng đằng sau nhìn đám thợ xây làm đây mà. Sukhov khó chịu nhất là hạng chống nạnh quan sát người khác làm. Cũng kỹ sư cơ đấy, đồ mặt lợn! Có lần hắn dạy anh em cách xây gạch làm cho Sukhov cười muốn vỡ bụng. Theo như lề lối của dân ta, phải xây cho xong một ngôi nhà bằng chính bàn tay mình, lúc ấy hãy nói đến chuyện kỹ sư. Ở quê anh không xây nhà gạch, chỉ có nhà gỗ ghép. Trường học cũng được làm bằng gỗ đẽo, người ta thuê chặt gỗ và chở từ rừng về những cây gỗ dài sáu xa-gien [15]. Ở trong trại anh phải làm thợ nề, và thế là anh trở thành thợ nề. Ai học được hai nghề, thì cả mười nghề cũng học được.
Không, Der không bị ngã, hắn chỉ vấp có một lần, leo gần hết thang hắn chạy vọt lên.
- Tu-r-in! - Hắn hét lên, mắt lồi ra - Tu-rin!
Pavlo chạy lên thang theo hắn, tay cầm chiếc xẻng.
Áo bông của Der cũng là áo tù, nhưng còn mới và sạch sẽ. Đầu hắn đội chiếc mũ da tốt. Nhưng trên đó cũng có số hiệu, như tất cả mọi người: B-737.
- Gì đấy? Turin tay cầm bay bước ra, chiếc mũ trên đầu lệch sang một bên, che mất một mắt.
Xẩy ra chuyện gì rồi đây. Nhưng không thể ngừng tay được, vữa sẽ bị đông lại mất. Sukhov vẫn tiếp tục xây. Vừa xây, vừa dỏng tai nghe.
- Mày làm gì thế hở?! - Der gầm lên sùi cả bọt mép.- Đây không phải tội nằm nhà đá nữa, mà là tội hình sự, Turin. Mày sẽ phải lãnh thêm hạn tù thứ ba!
Bấy giờ Sukhov mới thủng chuyện. Anh nhìn Kildigs và thấy hắn cũng đã hiểu ra. Giấy dầu, giấy dầu, nó đã nhìn thấy giấy dầu trên cửa sổ.
Sukhov không sợ cho bản thân, vì anh biết đội trưởng chẳng bao giờ bán rẻ anh em. Anh lo cho đội trưởng. Đối với anh em đội trưởng là cha, còn đối với họ, chẳng là cái thá gì. Chắc cũng vì những tội tương tự như thế này mà đội trưởng đã được “gia hạn” tù ở miền Bắc này.
Ôi cái mặt của đội trưởng lúc này trông mới khiếp làm sao! hắn vứt đến toạch cái bay xuống dưới chân, tiến một bước về phía Der. Der ngoái nhìn lại phía sau - Pavlo đứng đó, tay giơ cái xẻng lên.
Cái xẻng! cái xẻng! không dưng nó mang theo cái xẻng...
Và Senka, tuy nghễnh ngàng, song cũng đã hiểu: hai tay chống nạnh, hắn lừng lững đi tới. Mà hắn mới to con làm sao, thằng quỷ hói này. Der chớp mắt lia lịa, ngó quanh tìm chỗ thoát thân. Đội trưởng ngó sát mặt Der, nói khẽ nhưng rõ từng từ một, đủ cho anh em tầng trên nghe thấy :
- Thời của chúng mày qua rồi, đồ sâu bọ! Lãnh thêm án cơ đấy! Nếu mày chỉ cần hở một lời, là đời mày tàn luôn, sẽ là ngày cuối cùng của mày đấy, rõ chưa!
Đội trưởng tức run lên bần bật. Nỗi tức giận không thể kìm nén.
- Từ từ thôi các cậu! - Mặt mũi tái mét, Der đứng nhích xa cái thang.
Đội trưởng không nói thêm một lời, cúi xuống nhặt chiếc bay và đi về chỗ tường của mình.
Còn Pavlo thì xách xẻng chậm chạp đi xuống dưới nhà.
Thật chậm.
Phải. Máu của ba thằng tù vẫn như đang còn trước mắt... Ba thằng bị cắt cổ, mà trong trại chẳng một ai hay biết.
Der ở cũng dở mà xuống cũng dở. Hắn đứng nấp sau lưng Kildigs. Còn Kildigs thì vẫn cứ xây - bản mặt hắn giống như người bán thuốc đang đếm thuốc trong hiệu: tiếng tăm của ông bác sĩ cũng chẳng làm cho hắn phải vội vàng. Hắn đứng quay lưng lại Der, làm ra vẻ không thấy hắn.
Der rón rén lại gần đội trưởng. Bây giờ hắn giở giọng khác :
- Tôi phải nói thế nào với ông giám đốc đây, Turin?
Đội trưởng tay vẫn xây, đầu không ngoái lại.
- Cứ nói là nó đã có ở đấy từ trước, trước khi bọn này tới.
Der đứng thêm một lát. Hắn hiểu mọi người sẽ không giết hắn. Hắn khẽ đi đi lại lại, tay đút túi.
- Ê, S-854, - Hắn nói với Sukhov, giọng gầm gừ - sao vữa lại trát mỏng thế hở?
Cũng phải xả cái tức lên đầu ai chứ. Không bắt được lỗi Sukhov về điểm gì, hắn bèn vặc đến chuyện vữa mỏng vậy.
- Bẩm, xin được báo cáo ạ - Sukhov lào thào qua mấy cái lỗ răng hổng, anh nói kháy Đê - Nếu trát dầy thì cái nhà máy điện này đến mùa xuân chỗ nào cũng sẽ chảy nước ạ.
- Anh là thợ, anh phải nghe theo lời quản công. - Der cau có, hai má phồng lên, hắn có cái thói quen như vậy.
Ừ thì trên tường cũng có chỗ dầy hơn, chỗ mỏng hơn thật, nhưng đó là họ không bắt xây vào mùa đông lạnh đến như thế này. Đáng ra phải có chút tình người, đằng này lúc nào cũng chỉ nghĩ tới công việc.
Nhưng nói với hạng này, thà vạch đầu gối mà nói.
Der lặng lẽ đi xuống dưới thang.
- Ông sửa hộ cái máy nâng cho tôi! - Đội trưởng nói với theo hắn - Ông tưởng chúng tôi là lừa cả hay sao mà kéo gạch lên đây bằng tay như thế này.
- Kéo thì hưởng thêm xuất kéo. - Der trả lời ở dưới thang, giọng dịu hẳn.
- Ý ông muốn nói mấy thứ vớ vẩn trả cho việc chuyên chở bằng xe cút kít? Ông thử đẩy một xe lên cái cầu thang đó cho tôi coi. Ông hãy trả phần “khiêng bằng cáng” đi hãng!
- Tôi tiếc anh làm gì. Bên kế toán người ta không duyệt khoản “khiêng bằng cáng”.
- Kế mới lại chả toán! Cả đội của tôi phục vụ cho bốn người thợ xây đây này. Vậy tôi nhận được bao nhiêu?
Đội trưởng miệng thì kêu, nhưng hai tay vẫn xây thoăn thoắt.
- Vữa! - Anh hét xuống phía dưới.
- Vữa! - Sukhov cũng hô liền ngay sau đội trưởng.
Họ đã xong hàng thứ ba, bắt đầu xây hàng thứ tư. Anh định căng dây dọi, song lại tiếc thời giờ. Thôi, hàng sau xây chả cần dọi.
Der băng qua khoảng đất trống trở về văn phòng của mình, người co rúm lại. Phải về ngay để sưởi. Đứng trên cao hắn rét run cầm cập. Lẽ ra hắn phải nghĩ một chút trước khi đụng với loại cứng đầu cứng cổ như Turin. Lẽ ra hắn phải giữ quan hệ hòa hảo với mấy cha đội trưởng như thế, bởi hắn đâu có phải lo lắng điều gì: chẳng phải làm lụng vất vả, lại được khẩu phần hơn, lại còn một cái buồng riêng nữa - còn muốn gì hơn? Chỉ thích ra vẻ ông tướng!
Mọi người từ dưới nhà lên nói rằng cha thợ điện cùng thằng quản công đã tếch rồi và vẫn chưa sửa được cái động cơ.
Nghĩa là anh em vẫn phải tiếp tục làm công việc của bầy lừa!
Sukhov đã làm nhiều công việc khác nhau và bao giờ cũng thấy cùng một chuyện: hoặc máy móc tự dưng hỏng, hoặc do phạm phá hoại. Anh nhớ lần trong trại đốn gỗ, phạm làm đứt dây chuyền. Muốn nghỉ, họ bèn đút luôn cái đòn vào máy và đè lên nó. Nhưng nào người ta có cho nghỉ, máy hỏng, họ phải chất gỗ bằng tay.
- Gạch đâu! gạch đâu! - Đội trưởng gào lên như hóa dại. Hắn chửi tiên sư nhà chúng nó, cả lò mấy thằng bê gạch, lẫn mấy thằng khiêng vữa.
- Pavlo hỏi trên ấy vữa ra sao, còn đủ không? - Mấy người ở dưới quát vọng lên.
- Trộn thêm ít nữa!
- Dưới này còn nửa thùng!
- Thế thì trộn thêm thùng nữa!
Bây giờ mới thật sự máu! Họ đã xây đến hàng gạch thứ năm! Mới đầu còn phải gập người xuống để xây hàng thứ nhất, bây giờ tường đã cao đến ngực, nhìn mà xem! Gì mà chả nhanh, không cửa sổ, không cửa ra vào, chỉ trần có hai bức tường nối với nhau và thoải mái gạch. Đáng lý phải căng thêm dọi, nhưng đã muộn rồi.
- Đội 82 hai đã đi trả dụng cụ - Gopchik thông báo.
Đội trưởng quắc mắt lên với nó :
- Hãng lo lấy việc của mình, thằng ôn con. Đi khuân gạch!
Sukhov ngoái lại nhìn. Ờ đúng thật, mặt trời đang lặn. Bị sương mù che phủ, màu đỏ mặt trời chuyển dần sang màu xám. Tốt nhất không nên xây tiếp nữa. Đã bắt đầu hàng thứ năm thì cũng nên kết thúc ở hàng này. Còn phải chỉnh sửa nữa chứ.
Mấy cha khiêng vữa thở phì phò như ngựa. Ông trung tá thậm chí tái xanh tái xám. Dù sao thì ông ta cũng đã trên dưới bốn mươi rồi.
Trời lạnh mỗi lúc một dữ dội. Tay vẫn làm việc mà mấy ngón tay đã tê cóng trong đôi bao tay cà tàng. Và cái lạnh đã luồn được vào bốt bên trái rồi. Thịch - thịch - Sukhov dậm nó xuống sàn, thịch - thịch.
Anh không phải cúi xuống để xây nữa, song vẫn cứ phải cúi sụn cả lưng để nhặt từng viên gạch và xúc từng bay vữa.
- Các cậu ơi, các cậu ơi.- Anh gọi mấy người khiêng vữa - Các cậu đặt giúp gạch lên tường hộ tôi với
Ông trung tá sẵn lòng làm việc đó, song không còn sức. Ông chưa quen với loại công việc này. Aliosa đồng ý :
- Được rồi, Ivan Denisovich, đặt ở đâu, chỉ cho tôi.
Aliosa không biết từ chối bất cứ lời yêu cầu giúp đỡ nào. Giá mọi người trên đời này đều như thế nhỉ, và cả Sukhov nữa, cũng như thế. Nếu có ai cầu xin giúp đỡ, tại sao lại không giúp anh ta? Mấy anh chàng Tẩy lễ này nói cũng phải.
Khắp công trường, cho tới tận nhà máy điện, tiếng còi báo nghỉ vọng tới rõ mồn một. Trộn nhiều vữa mất rồi. Đấy, cố lắm vào!...
- Chuyển vữa lên đây, chuyển nhanh lên! - Đội trưởng la lên.
Ở dưới lại vừa mới trộn thêm một thùng vữa mới! bây giờ thì chỉ còn nước xây thôi, chả còn cách nào khác. Nếu không vét cho sạch thì ngày mai vữa sẽ đóng lại trong thùng cứng như sắt, có lấy cuốc chim bổ cũng chẳng ra.
- Nào anh em, làm tiếp đi, cố lên! - Sukhov hò hét.
Kildigs bắt đầu bực mình. Hắn không thích kiểu làm ồ ạt. Ở Litva, nghe nói, người ta làm việc từ tốn lắm, nhưng mà ai cũng giàu. Bây giờ anh cũng phải rán sức, còn biết làm sao được.
Pavlo từ dưới chạy lên, bắt tay khiêng vữa và cầm theo bay. Hắn lên giúp mọi người xây cho nhanh. Thế là có năm tay bay.
Bây giờ vấn đề là phải xây cho kịp những chỗ tiếp giáp! Sukhov trước đó đã tia những viên gạch vừa với những chỗ nối đó. Anh quẳng cái búa cho Aliosa :
- Này, đập hộ tôi! Đập đi!
Làm vội thì chẳng bao giờ có thể tốt được. Bây giờ, khi mọi người xây vội xây vàng, thì Sukhov làm chậm lại và ngắm kỹ bức tường. Anh đẩy Senka sang bên trái, bản thân đứng vào chỗ góc chính. Lúc này, nếu như bỏ qua, hay làm hỏng cái góc tường, thì ngày mai sẽ mất cả buổi để mà sửa.
- Hượm đã! - Anh giật vội viên gạch từ tay Pavlo, tự mình sửa lại cho nó ngay ngắn. Từ chỗ góc tường anh nhìn thấy chỗ Senka xây bị võng xuống. Anh chạy vội tới sửa lại hai viên gạch.
Ông trung tá ì ạch khiêng vữa như một con ngựa thồ già chăm chỉ.
- Còn hai máng nữa! - Ông hô lên.
Trung tá hầu như không còn đứng vững, song vẫn gắng sức. Sukhov đã từng có một con ngựa già như thế trước khi gia nhập nông trang. Anh chăm sóc nó kỹ lắm, nhưng khi rơi vào tay những người khác nó đã chết rất nhanh và người ta lột lấy da nó.
Mặt trời đã lặn xuống mặt đất chỉ còn chút đỉnh phía trên. Bây giờ thì không cần Gopchik thông báo mọi người đều đã nhìn thấy, chẳng những tất cả các đội đã trả dụng cụ, mà phạm còn đang xô đẩy nhau đến chỗ trạm gác. (Sau kẻng báo nghỉ chẳng có ma nào ra bên ngoài ngay, họa có điên mà đứng lởn vởn chết rét ở đó. Họ ngồi lại trong nhà cho ấm. Các đội trưởng đã thỏa thuận với nhau vào đúng một lúc tất cả các đội cùng ùa ra. Nếu không thỏa thuận như vậy, thì tù nhân là loại người chây lì, chúng ngồi đợi nhau trong nhà có mà đến đêm).
Lúc ấy Turin mới tỉnh ra. Hắn thấy đội mình bị chậm mất rồi. Thằng cha giữ kho dụng cụ chắc lúc này đang réo ông bà ông vải hắn ra mà chửi.
- Ê! - Hắn hô to - Không tiếc đống *** nhão đó nữa - đem đến chỗ cái hố kia kìa, đổ xuống đó rồi lấp tuyết lên trên để không ai nhìn thấy! Còn Pavlo thu tất cả dụng cụ lại đem trả nhà kho. Tôi sẽ bảo Gopchik đem ba cái bay tới sau, bây giờ còn phải xây nốt hai máng vữa này đã.
Mấy người nhẩy xổ tới giật lấy cái búa ở tay Sukhov, tháo dây dọi. Đám khiêng vữa, đám khuân gạch chạy sạch xuống chỗ nhào vữa ở phía dưới, ở trên này chẳng còn việc gì cho họ làm. Chỉ còn lại có ba tay thợ nề - Kildigs, Klevsin và Sukhov. Đội trưởng đi quanh ngắm nghía chỗ tường đã xây. Hắn hài lòng ra mặt.
- Làm tốt đấy chứ, hả? Có mỗi một buổi chiều. Mà không có trục kéo với máy nâng đấy nhá.
Sukhov nhìn thấy trong máng của Kildigs còn ít vữa. Anh lo Turin sẽ bị lôi thôi to ở kho trả dụng cụ nếu không trả kịp mấy cái bay này.
- Nghe này, mấy cậu, - Sukhov nói - các cậu đưa bay cho Gopchik để nó mang trả, còn cái của tớ thuổng được không cần phải trả, tớ sẽ xây nốt cho.
Đội trưởng cười phá lên :
- Làm sao có thể thả cậu ra được đây? Không có cậu nhà tù phát khóc lên mất!
Sukhov cũng cười và tiếp tục xây.
Kildigs đi trả bay. Senka thì đưa gạch cho Sukhov, những người khác trút nốt chỗ vữa trong máng của Kildigs vào máng của anh.
Gopchik chạy băng qua công trường tới kho dụng cụ, bắt kịp Pavlo. Đội 104 cũng tự mình băng qua công trường, tiến tới trạm gác cổng không cần đội trưởng đi cùng. Đội trưởng to thật đấy, song lính áp tải còn to hơn. Chúng mà ghi anh tới trễ thì dám được vào nhà đá lắm. Phạm đứng đông đặc ở cạnh trạm gác. Tất cả đã tập hợp. Chắc lính áp tải bắt đầu đếm tù rồi.
Khi tù ra về họ đếm hai lần. Lần đầu đếm khi các cổng còn đóng để xem đã có thể mở cổng được chưa. Lần thứ hai đếm khi tù đi qua cổng. Nếu có vấn đề gì thì họ lại đếm lại ở bên ngoài cổng.
- Thôi vứt mẹ chỗ vữa ấy đi! - Đội trưởng phẩy tay - Hất qua tường ấy!
- Đi đi, đội trưởng, đi đi, ở đó cần cậu hơn! (Lúc bình thường Sukhov luôn gọi đội trưởng một cách kính trọng, bằng họ tên cẩn thận - Andrei Prokofievich, nhưng bây giờ, trong công việc, anh cảm thấy mình bình đẳng với đội trưởng. Anh không nghĩ cụ thể: “Xem đấy, tớ đâu có thua kém gì cậu”, mà chỉ cảm nhận vậy thôi). Và anh nói với theo người đội trưởng đang sải những bước chân vội vã xuống cầu thang, giọng đùa cợt - Chó má thế chứ, ngày làm việc sao lại ngắn tun tủn vậy? Vừa mới vác mặt đến đã bị lôi ngay về!
Chỉ còn lại anh với gã điếc. Với thằng cha này chẳng thể nói nhiều được. Vả lại, cần gì phải nói, hắn tinh hơn tất cả mọi người, chả cần nói cũng hiểu.
Vỗ vữa vào! Ấn gạch xuống! Áp mạnh vào! Kiểm tra lại đi. Vữa. Gạch. Vữa. Gạch...
Hình như đội trưởng ra lệnh không cần tiếc, hất vữa qua tường rồi phắn cho nhanh. Nhưng con người Sukhov, về mặt này, có hơi bị lẩn thẩn. Không thể nào bắt anh chừa được cái thói tiếc công, tiếc của, nhìn thấy sự phí phạm là anh chịu không được.
Vữa! Gạch! Vữa! Gạch!
- Xong! Mẹ cha nó, chân với chả cẳng! - Senka reo lên. - Chuồn thôi!
Hắn vớ lấy cái máng vữa rồi chạy thẳng xuống cầu thang.
Còn Sukhov, dù bây giờ lính canh có suỵt chó cắn, cũng mặc. Anh chạy lùi ra xa ngắm nghía bức tường. Đâu có dở. Lại chạy tới gần nhìn suốt bức tường từ trái sang phải. Ê, mắt mình như cái ống thủy chuẩn! Rõ phẳng lì! Tay mình còn xài được!
Rồi anh chạy xuống thang.
Senka đã nhào ra khỏi chỗ trộn vữa. Ra đến ngoài còn ngoái lại cổ lại gọi :
- Nhanh lên! Nhanh lên!
- Đi trước đi, tớ ra ngay bây giờ đây. - Sukhov giơ tay xua hắn.
Rồi anh đi vào trong chỗ trộn vữa. Đâu có thể vứt bừa cái bay như thế được. Có thể ngày mai anh không làm việc này nữa. Hoặc cũng có thể người ta sẽ phân đội 104 sẽ đến Khu Dịch Xã trong sáu tháng tới. Chả nhẽ để mất chiếc bay? Muộn thì cũng đã muộn mẹ nó rồi!
Trong khoang trộn tất cả các lò đều đã tắt. Tối om. Sợ thật. Sợ không phải vì tối, mà vì tất cả đều đã đi hết, chỉ còn thiếu mỗi mình anh, lính canh sẽ tẩn cho mà xem.
Nhưng gì thì gì anh vẫn cứ sờ soạng cho tới khi bắt gặp một tảng đá to ở một góc, anh liền lật nó lên, để cái bay xuống dưới và đậy nó lại. Thế là xong!
Bây giờ thì phải đuổi cho kịp Senka. Nhưng Senka mới đi được trăm bước. Hắn đã đứng lại đợi anh. Không bao giờ Klevsin bỏ anh em trong cơn hoạn nạn. Có tội thì cùng chịu.
Cả hai cùng chạy, một to, một nhỏ. Senka cao hơn Sukhov nửa cái đầu, mà cái đầu thằng cha này mới to kỳ quặc làm sao.
Có những hạng người vô công rồi nghề thế chứ, chả ai bắt cũng lôi nhau ra sân vận động huỳnh huỵch chạy đua với nhau. Cứ thử cho mấy thằng quỷ đó chạy như thế này sau một ngày làm việc tối mắt tối mũi, không có lúc nào mà vặn cái lưng, găng thì ướt sũng, ủng thì tã nát - lại còn cái lạnh chó má này nữa.
Họ chạy như điên, thở hồng hộc.
Không sao, đội trưởng đang ở trạm gác, chắc hắn đang tìm cách giải thích.
Hai người chạy thẳng tới chỗ đám đông, hoảng hốt. Cả trăm giọng đồng thanh nhao nhao, thôi thì đủ cả: đ... con mẹ mày, thằng bố mày, đ... vào mồm, vào mũi, vào mép. Thật khủng khiếp khi cả năm trăm con người cùng hét vào mặt anh. Song còn khủng khiếp hơn khi không biết bọn lính canh sẽ làm gì anh đây.
Nhưng bọn lính chẳng làm gì cả. Đội trưởng ở đây, đứng ở hàng cuối, có nghĩa hắn đã giải thích với bọn lính và đã nhận lỗi về mình.
Còn anh em thì vẫn la hét, anh em vẫn cứ nhao nhao! Họ la hét đến nỗi điếc như Senka cũng nghe thấy. Và hắn nổi sùng, nhảy dựng lên, chửi bới lại. Cả đời im lặng, bây giờ nổi đóa lên, giơ nắm đấm, nhảy bổ vào tay bo. Đám đông im bặt. Có vài người cười.
- Ê, một lẻ bốn! Cánh tớ lại tưởng cha này của các cậu điếc chứ lại, - Họ la lên - cánh tớ kiểm tra thử hắn đấy.
Tất cả cười hô hố. Cả bọn lính canh cũng cười.
- Xếp thành hàng năm!
Họ chưa mở cổng vội. Còn chưa được tự tin. Họ xô đám đông lùi lại. (Tất cả cùng bám vào cổng, ngu thế chứ, cứ tưởng làm thế sẽ được ra sớm hơn)
- Xế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai! Ba!...
Khi nhận được lệnh, tù nhân rục rịch xếp hàng năm, mỗi lượt nhích lên được vài mét.
Sukhov đã lấy lại hơi, ngửng mặt nhìn trời. Cha mẹ ơi, trăng kìa, trăng đã lên cao, cái mặt đỏ bầm cau có. Hình như đã vào hạ tuần. Hôm qua, bằng tầm này, nó còn ở cao hơn.
Sukhov mừng húm vì mọi chuyện đã chót lọt, anh huých vào mạng sườn ông trung tá, trêu chọc :
- Nghe này, trung tá, theo khoa học nhà các anh, trăng già rồi nó sẽ đi đâu?
- Đi đâu là thế nào? Rõ đồ ngu! Đơn giản là nó không hiện rõ nữa!
Sukhov lắc đầu, cười :
- Nếu không rõ thì tại sao anh lại biết nó đang có?
- Thế theo anh, - Trung tá ngạc nhiên - cứ mỗi tháng lại có một trăng mới?
- Ơ kìa, có gì là lạ nào? Ngày nào cũng có người sinh ra, thì tại sao bốn tuần lại không có một ông trăng mới?
- Phù! - Trung tá nhổ toẹt một cái - Tôi chưa từng gặp một thằng lính thủy nào ngu như thế này. Thế theo anh, mấy ông trăng già đi đâu?
- Thì đó là cái tôi muốn hỏi anh đấy - trăng biến đi đâu? - Sukhov cười hở mấy chiếc răng - Nào, biến đi đâu, hả?
Sukhov thở dài và thều thào bằng cái giọng tức cười của anh :
- Chỗ chúng tôi người ta thường bảo: Chúa trời đập vỡ trăng già thành nhiều ngôi sao.
- Rõ đồ mông muội! - Trung tá bật cười - Tôi chưa nghe ai nói thế bao giờ. Thế anh tin có Chúa trời chứ, Sukhov?
- Sao lại không? - Sukhov ngạc nhiên - Một khi sấm nổ đùng đùng, có mà không tin được khối!
- Thế Chúa trời làm thế để làm gì?
- Làm cái gì?
- Thì đập vỡ trăng để làm những ngôi sao ấy - để làm gì?
- Có gì mà không hiểu nhỉ? - Sukhov nhún vai - Các ngôi sao cứ rụng luôn luôn, phải có sao mới để mà bổ sung chứ.
- Quay lại, mẹ chúng mày... - Lính canh gào lên - Sắp hàng lại!
Chúng đã đếm đến họ. Trước đấy toán năm người thứ mười hai vừa mới đi qua, cuối hàng còn lại có hai mống, Sukhov và trung tá.
Đám lính canh lo lắng ngó vào tấm bảng ghi danh sách tù. Không đủ! Lại thiếu mất rồi! Đến đếm chúng còn không biết nữa, lũ chó!
Chúng đếm được bốn trăm sáu mươi hai, phải là bốn trăm sáu mươi ba mới đúng.
Lại một lần nữa đoàn người bị đẩy ngược trở lại (họ lại bám vào cổng) - Và lại bắt đầu từ đầu :
- X-ế -p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai!
Cái khốn nạn nhất của việc đếm lại như thế này là thời giờ của anh em, chứ không phải của chúng, bị mất.
Đây vẫn là thảo nguyên, từ đây lần được về đến trại lại còn bị chúng bắt xếp hàng để lục soát trước khi cho vào nữa chứ. Từ tất cả các công trường anh em thi nhau chạy, cố gắng vượt lên trước để cho chúng khám xét sớm mà vào trại. Đội nào vào được trước tiên, thì đội ấy là bố tướng: nhà ăn đợi anh, anh sẽ là người đầu tiên được lĩnh đồ tiếp tế, là người đầu tiên ở chỗ gửi đồ, vào nhà bếp trước để lấy đồ ăn đã nhờ nấu từ sáng, lên Ban Văn Hóa Giáo Dục để lấy thư nhà hay đến chỗ mấy ông kiểm duyệt thư từ để nộp thư gửi về nhà, tạt vào trạm xá hay đến chỗ hớt tóc, đi nhà tắm, có nghĩa ở đâu anh cũng là người đến trước tiên.
Cũng có khi bọn lính áp tải muốn nộp tù cho nhanh để còn về trại của mình. Lính tráng đâu có được chơi bời gì, công việc thì nhiều mà thời giờ lại ít.
Chúng lại đếm nhầm rồi.
Nhóm năm người cuối cùng vừa đi qua, theo như Sukhov tính thì hàng còn lại phải có ba người, đằng này không, vẫn chỉ có hai. Mấy tên đếm vội cầm bảng danh sách chạy tới chỗ viên trưởng toán áp tải.
Viên trưởng toán hô :
- Đội trưởng đội 104!
Turin bước ra khỏi hàng :
- Có.
- Đội của anh có còn ai ở lại nhà máy điện không? Nghĩ đi.
- Không.
- Nghĩ kỹ xem, không tôi bửa đầu ra đấy.
- Không còn ai, thưa chính xác ạ.
Nói thế nhưng hắn vẫn đưa mắt nhìn Pavlo - liệu có thằng cha nào ngủ quên ở chỗ trộn vữa không nhỉ?
- X-ế-p h-à-n-g theo đội! - Viên trưởng toán hô.
Nếu xếp hàng theo nhóm năm thì bạ với ai xếp cùng cũng được. Bây giờ, thôi thì xô đẩy, chen lấn và la hét. Chỗ thì : “Đội 76 đâu, theo tôi”, chỗ thì: “Đội 13, lại đây!”, chỗ thì: “32 đâu, ra đằng này!”.
Đội 104 đến sau cùng phải tập hợp ở đằng sau. Và Sukhov nhìn thấy anh em trong đội mình đều tay không. Mải làm quá họ chẳng nhặt nhạnh được tí củi nào. Chỉ có hai người được vài bó nhỏ.
Ngày nào cũng vẫn trò đó: trước khi có hiệu còi nghỉ, anh em phạm tranh thủ nhặt các mẩu gỗ vụn, que hoặc nẹp gẫy, lấy giẻ rách hoặc thừng cũ buộc lại mang về trại. Mất mát đầu tiên ở chỗ trạm gác, nếu có viên giám công hay tên quản công nào đó đứng đấy, chúng bắt anh em ném hết xuống đất (hàng triệu rúp đã bị tiêu tan trong các ống khói và bây giờ chúng cho rằng có thể tịch thu những mẩu gỗ vụn này để bù vào đó). Còn anh em thì lại có cách tính toán của mình: mỗi người trong đội mang về được dù chỉ một cái que nhỏ thì phòng của mình sẽ được ấm hơn một chút. Chứ không bọn cần vụ chỉ cho lĩnh có năm ki lô than cám cho mỗi một lò sưởi, ấm thế chó nào được. Chính vì thế anh em mới nghĩ ra cách bẻ ngắn, cưa vụn gỗ ra, đút vào túi và qua mặt được giám công.
Ở đây lính áp tải không bao giờ bắt anh em ném củi xuống đất, là vì họ cũng cần củi, song lại không được mang theo. Phần vì mặc quân phục không được phép vác củi, phần tay còn bận ôm tiểu liên bắn tù nhân nếu cần. Nhưng khi đưa tù về tới trại, lập tức họ ra lệnh: “từ hàng này đến hàng này vứt củi ra chỗ này!”. Nhưng họ vặt của tù một cách cao thượng: cũng còn phải chừa lại một ít cho giám thị, một ít cho tù nhân, chứ không sẽ chẳng còn mống nào kiếm củi mang về nữa.
Cho nên mới xảy ra cái tình huống: ngày nào người tù cũng lượm củi, nhưng chẳng ai biết khi nào thì mang được về trót lọt, khi nào bị trấn.
Trong khi Sukhov ngó nghiêng xem có gì để nhặt nhạnh hay không, thì đội trưởng đã kiểm xong quân số đội mình và hô lớn :
- Một trăm linh bốn, đủ!
Cả Sezar cũng đã tách khỏi đám người văn phòng có mặt ở đội. Đốm lửa trên tẩu thuốc của hắn lập loè cháy đỏ, còn bộ ria hắn trắng xóa sương chiều. Hắn hỏi :
- Công việc thế nào, ông trung tá?
Kẻ được sưởi ấm hiểu sao được người đang chết rét. Một câu hỏi đãi bôi - công việc thế nào?
- Thế nào á? - Trung tá nhún vai - Thì đấy, tôi làm sụm cả lưng, đến đứng thẳng lên còn khó đây này.
Nói thế, song ý ông muốn bảo: mày cũng phải đoán ra là bố mày đang thèm thuốc mà cho bố mày một điếu chứ.
Sezar biếu ông một điếu. Trong đội chỉ ông trung tá là người mà Sezar muốn kết thân, còn thì chả có người nào để hắn có thể dốc bầu tâm sự.
- Đội 32 thiếu một người! Đội 32! - Tất cả ầm ầm lên.
Đội phó đội 32 cùng một thanh niên nữa phóng tới xưởng sửa chữa ô tô để tìm. Còn trong các hàng tù những câu hỏi vang lên: ai thế nhỉ? Xẩy ra chuyện gì vậy? Và rồi đến tai Sukhov: thiếu mất một thằng cha người Mondavi nhỏ con, đen đúa. Thằng Mondavi nào nhỉ? Chẳng lẽ là cái thằng mà người ta bảo là gián điệp cho bọn Rumani, gián điệp thật?
Gián điệp thì đội nào chả có năm sáu mống, song toàn gián điệp đểu. Hồ sơ thì ghi là gián điệp, nhưng trên thực tế đó chỉ là những tù binh bình thường. Sukhov cũng thuộc loại gián điệp này.
Nhưng tên Mondavi nghe nói gián điệp thật.
Viên trường toán nhìn vào bảng danh sách, mặt xám xịt. Nếu một tên gián điệp mà trốn thoát, thì hắn - trưởng toán, sẽ ra sao đây?
Còn đám đông và cả Sukhov thì nổi điên lên. Nó là cái thá gì cơ chứ, đồ chó đẻ, quân sâu bọ, đồ mạt hạng, nó rúc vào cái mả mẹ nào để cho các bố nó phải chờ thế này? Trời tối rồi, trăng lên rồi, sao mọc rồi, còn thằng chó này vẫn không có mặt. Mẹ nó chứ, chắc nó thấy làm chưa đã? Ngày làm việc quá ngắn, có mỗi mười một tiếng đồng hồ, từ lúc nhá nhem sáng tới lúc xâm xẩm tối? Cứ đợi đấy, ông tòa án ông ấy lại bồi thêm một hạn nữa để được làm khổ sai cho sướng.
Cả Sukhov cũng thấy lạ, chẳng hiểu sao lại có giống người cứ cắm đầu mà làm không biết gì đến kẻng đến còi nghỉ nhỉ. Anh quên mất rằng chỉ vừa mới rồi anh cũng làm việc như thế, và còn thấy bực mình vì người ta tập hợp ở trạm gác để ra về sớm quá. Bây giờ anh đứng chết cóng ở ngoài trời cùng mọi người, cùng chửi bới với họ và có cảm giác, nếu thằng Mondavi bắt họ chờ thêm một tiếng nữa, và nếu lính áp tải trả nó cho họ, thì lập tức họ sẽ xé xác thằng này, như chó sói xé xác cừu non cho coi!
Mọi người đã thấm lạnh, không một ai có thể đứng yên, người thì dậm chân tại chỗ, kẻ thì bước lên hai bước rồi lại lùi xuống hai bước.
Mọi người bàn tán - liệu thằng Mondavi ấy có chạy trốn không nhỉ? Nếu ban ngày mà trốn may còn không sao, chứ mà đợi cho bọn lính rời tháp canh thì còn lâu con ạ. Họ sẽ tìm, không thấy vết chân để lại ở chỗ rào kẽm gai chứng tỏ có người trốn ở đó, thì họ sẽ sới tung toàn khu lên trong ba ngày và ba ngày lính canh không được rời chỗ. Thậm chí cả tuần. Lệnh ấy đã ban bố, ai tù lâu, kẻ ấy biết. Mà nói chung, tù chạy thoát thì lính áp tải cũng rồi đời, cho nên họ sẽ truy lùng đến cùng, bỏ ăn, bỏ ngủ. Đôi khi việc tìm kiếm kéo dài làm họ cáu tiết, và kẻ mà họ tóm được cũng chẳng thể sống sót mà trở về. Họ bắn bỏ ngay tại chỗ.
Sezar đang thuyết phục ông trung tá :
- Chẳng hạn, anh còn nhớ cảnh những cặp mắt kính treo trên cột buồm chứ? [16]
- Ờ... - Ông trung tá đang hút điếu thuốc của Sezar cho.
- Hay cảnh cái xe nôi trẻ con lăn trên bậc thang, lăn từ từ, từ từ.
- Ờ... nhưng đời sống hải quân trong phim cứ như thể trên sân khấu rối ấy.
- Ông cũng thấy đấy, chúng ta hư hỏng vì các kỹ xảo quay hiện đại...
- Đám sĩ quan mười người như một, rặt tuồng hư hỏng...
- Thì hoàn cảnh lịch sử nó thế mà!
- Thế thì ai là người dẫn dắt họ tới cuộc chiến đấu?... Với lại cảnh những con giòi trong những miếng thịt nom kinh chết đi được. Giòi gì mà to như giun đất lúc trời mưa. Chẳng nhẽ tất cả những cái đó đều có thật?
- Nhưng các phương tiện điện ảnh làm sao quay được những vật nhỏ hơn thế được.
- Tôi lại nghĩ, giá mang cái thứ thịt ấy vào trong trại, bỏ vào nồi thay cho món cá thối nhỉ, có khi chúng mình...
- A a a! - Đoàn tù gầm lên - U u u!
Họ nhìn thấy từ trong xưởng sửa chữa ô tô có ba người bước ra, có nghĩa đã tìm được tên Mondavi.
- Ê ê ê! - Đám đông đứng gần cổng la ó, chửi bới.
Khi ba người này chạy tới gần, thì :
- Đồ mắc dịch! Đồ súc vật! Đồ chó đẻ! Đồ *** đái, đồ ăn hại, đái nát!
Sukhov cũng hùa vào, hét tướng lên :
- Đồ thổ tả!
Lấy mất hơn nửa giờ đồng hồ của năm trăm con người, đâu phải chuyện đùa!
Tên Modavi chạy tới, mặt cúi gằm, người trông như con chuột nhắt.
- Đứng lại! - Tên lính áp tải hô to. Và hắn ghi lại: - K-460. Anh đi đâu nãy giờ?
Và hắn tiến lại gần, quay báng súng về phía tên Mondavi.
Từ đám đông một số người vẫn chửi tiếp :
- Đồ vô lại, thằng con hoang, quân khốn kiếp!
Những người khác trông thấy tên trung sĩ quay báng súng, thì vội im bặt.
Thằng Mondavi cúi gằm mặt, không nói năng gì và bước lùi lại trước mặt tên trung sĩ. Đội phó đội 32 tiến lên trước nó, nói :
- Thằng khốn nạn leo lên cái giá trát trần nhà để trốn tôi, thấy ấm quá lăn ra ngủ!
Nói rồi táng luôn một quả vào gáy thằng Mondavi.
Bằng quả đấm ấy hắn đẩy được tên Mondavi ra khỏi viên trung sĩ.
Tên Mondavi đang lảo đảo thì một phạm người Hung xông lên cũng từ đội 32, lấy chân đá vào đít hắn (người Hung không khoái dân Rumani lắm).
Việc này còn khổ nhục hơn làm gián điệp nhiều con ạ. Gián điệp thì thằng óc bã đậu nào chẳng làm được. Đời gián điệp sạch sẽ, vui vẻ, chứ cứ thử mươi năm trong trại tù khổ sai này xem!
Tên lính áp tải hạ súng xuống, viên trưởng toán gào lên :
- Lùi khỏi cổng! X-ế-p h-à-ng năm!
Bọn chó, lại đếm! Còn đếm gì nữa nhỉ? Không đếm cũng đã rõ rồi còn gì. Đoàn tù làm ầm lên. Bây giờ họ đã quên hẳn tên Mondavi, mọi tức giận trút hết lên đầu lính áp tải. Họ cũng chẳng thèm lùi ra khỏi cổng nữa.
- Thế là thế nào?! - Trưởng toán áp tải gào lên - Muốn ngồi xuống tuyết hả? Tôi sẽ cho các anh ngồi và ngồi đến sáng.
Thằng cha này nói là làm. Đã bao lần chúng bắt anh em ngồi rồi. Thậm chí chúng còn bắt nằm xuống và chĩa súng vào mặt. Tất cả những chuyện đó anh em đều biết cả. Bởi thế họ bước nhích ra khỏi cổng một chút.
- Lùi xa ra! Lùi ra! - Tên lính áp tải giục giã.
- Ừ mà bám vào cổng để làm chó gì nhỉ, mấy thằng đầu đất? - Phạm ở các hàng cuối bắt đầu cáu phạm ở phía trên.
Bị lính canh và đám tù phía dưới làm găng, cuối cùng những người này đành phải giạt ra khỏi cổng.
- X-ế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! hai! ba!
Trăng bây giờ mới thật tỏ. Nó tỏa sáng và không còn tím đỏ. Nó đang ở chót vót trên cao. Thế là mất mẹ nó buổi tối!... thằng Mondavi khốn nạn. Lính áp tải khốn nạn. Cuộc đời khốn nạn...
Những người ở phía trên sau khi đã được đếm, kiễng chân nhìn xuống hàng chót xem có ba người cuối cùng không. Cả cuộc đời của họ lúc này phụ thuộc vào điều đó.
Và Sukhov nhìn thấy, ở hàng chót không phải ba, mà là bốn người! Anh kinh hãi bủn rủn chân tay: dư ra một thằng! bây giờ chúng nó lại bắt xếp hàng đếm lại từ đầu! Hóa ra là thằng mót rác Fechiukov bỏ hàng của mình chạy tới chỗ ông trung tá để mót mẩu thuốc lá. Hắn không kịp chạy về chỗ, nên đành đứng đại vào hàng chót, cho nên mới có một người thừa ra.
Viên trưởng toán áp tải tức giận cho hắn một cái bạt tai.
Thế mới đúng!
Hàng chót có ba người. Mọi chuyện đã ổn thỏa, lạy Chúa lòng lành!
- Lùi khỏi cổng! - Lính áp tải lại ra lệnh.
Song lần này đám tù nhân không làm ầm lên nữa, họ đã trông thấy lính ra khỏi trạm gác và đang bọc lấy khu vực ngoài cổng.
Như vậy là chúng sắp cho ra.
Chả thấy bóng dáng bọn lãnh công đâu, cả viên giám công nữa, chỉ thấy mấy đứa trẻ đang khuân củi.
Cổng bật mở, ở phía ngoài, cạnh các rào gỗ chắn ngang, viên trưởng toán áp tải cùng với tên kiểm soát viên làm nhiệm vụ đếm lại một lần nữa. Hắn gào to :
- Hàng một! Hàng hai! Hàng ba!
Lần này mà đếm đủ thì hắn sẽ cho bọn lính ở trên các tháp canh xuống.
Từ mấy cái tháp canh này lần về đến trại xa thấy mẹ! Ấy thế mà chúng cứ chờ cho tên tù cuối cùng ra khỏi cổng mới gọi dây nói cho bọn lính canh xuống. Gặp tên trưởng toán sáng dạ một tí thì hắn giải anh em về ngay, vì biết rằng họ có trốn đằng trời, còn bọn lính canh thể nào chẳng đuổi kịp. Nhưng nếu gặp phải thẳng đầu đất, thì hắn bắt cả đoàn phải chờ đến cùng, vì hắn sợ có ít lính để đối phó với tù. Hôm nay gặp phải một thằng như vậy. Thế là phải chờ.
Suốt ngày ở ngoài trời băng giá, những người tù chỉ còn nước chết vì lạnh. Chờ cho mọi chuyện được giải quyết, họ đã phải đứng chịu trận cả một tiếng đồng hồ. Song điều làm họ bực mình chẳng phải vì cái lạnh, mà vì buổi tối với bao nhiêu việc định làm, đã bị mất mất rồi.
- Trung tá, sao ông biết nhiều thế về đời sống của hải quân Anh? - Những người đứng trong nhóm năm người bên cạnh hỏi Buinovski.
- À, chả là tôi tôi đã sống gần cả tháng trời trên một tuần dương hạm của Anh quốc, có riêng một phòng ở đó. Khi ấy tôi là sĩ quan liên lạc trong đoàn hộ tống.
- Ra thế! Thế cũng đủ để họ táng cho anh hai mươi nhăm năm tù.
- Không phải, các anh không biết đấy thôi, tôi đâu có theo thuyết tự do phê phán tư tưởng của họ. Đấy là do tôi đưa ra những ý kiến xác đáng về luật pháp nước ta.
(Rõ đồ ngu, Sukhov nghĩ bụng, nhưng không nói ra lời. Thằng Senka Klevsin kia sống với người Mỹ có hai ngày mà họ còn ấn cho những bốn năm, lão sống cả tháng trời trên tầu của họ, thì không biết sẽ phải ở trong trại bao nhiêu năm đây?).
- Thế rồi sau chiến tranh có một ông đô đốc hải quân Anh ma xui quỷ khiến thế nào lại gửi cho tôi một món quà nhỏ làm kỷ niệm, đề dòng chữ “Để tỏ lòng biết ơn”. Tôi hoảng hồn, chửi um lên...
Thật lạ lùng, thật lạ lùng khi ngắm nhìn cảnh tượng: một vùng thảo nguyên mênh mông trần trụi, cả một khu vực bị bỏ hoang, tuyết lấp lánh dưới ánh trăng. Đám lính áp tải đã đứng vào vị trí - mỗi tên cách nhau mười bước. Đứng kia là một bầy tù đen ngòm, và cũng mặc áo bông đen như những tù nhân khác là S-311, cái con người trước đây đã từng mặc lễ phục trắng có gù vai kim tuyến và từng giao du với một ông đô đốc hải quân Ăng lê. Thế mà bây giờ ông ta phải khiêng vữa với Fechiukov.
Mới biết, con người ta, lúc lên voi, lúc xuống chó...
Đoàn áp tải đã sẵn sàng. Không cần giáo đầu, trưởng toán lính áp tải cứ thế hô luôn :
- Bước đều, bước! Rảo chân lên!
Bây giờ thì kệ mẹ chúng mày - rảo chân! Đứng bét tĩ thế này các bố đây đếch cần phải vội nữa. Đám tù, chẳng cần nói cũng hiểu nhau: tụi bay bắt chúng tao chờ, bây giờ đến lượt bọn tao bắt chúng bay phải chờ. Bọn bay chắc cũng cần sưởi ấm lắm chứ.
- Dồn bước lên! - Viên trưởng toán quát to. - Dồn bước, hàng đầu dồn bước lên!
Mẹ mày, đợi đấy mà “dồn bước”! Đoàn tù đi chậm chạp, đầu gục xuống như đi đưa đám. Bọn ta bây giờ chẳng còn gì để mà mất, đằng nào thì cũng về trại sau cùng. Chúng bay đã không chơi đẹp với tụi tao, thì bây giờ tha hồ rát cổ bỏng họng.
Viên trưởng toán tiếp tục hò hét, nhưng hắn cũng biết là vô ích: bọn tù không chịu đi nhanh. Mà bắn chúng cũng không được, là vì chúng vẫn giữ đúng luật, đi theo hàng. Lại chẳng có cái luật nào bắt tù phải đi nhanh cả. (Buổi sáng điều giúp tù nhân sống được, ấy là trên đường tới chỗ làm họ đi rất chậm. Tên nào đi nhanh thì khó mà sống nổi cho tới lúc mãn hạn. Đi nhanh người sẽ nóng lên quá mức và như thế sẽ chẳng thọ được bao lâu).
Và thế là họ cứ chậm rãi bước đều. Tiếng ủng dẵm tuyết nghe rào rạo. Người thì khẽ nói chuyện, kẻ im lặng. Sukhov cố nghĩ xem buổi sáng mình còn chưa kịp làm việc gì ở trại. Cuối cùng anh nghĩ ra - trạm xá. Thật buồn cười, trong khi làm việc anh hoàn toàn chẳng còn nhớ tới nó nữa. Giờ này trạm xá bắt đầu khám bệnh. Mình sẽ kịp, nếu bỏ bữa tối. Nhưng bây giờ có vẻ như không còn nhức mỏi nữa. Và nhiệt độ xem ra cũng không cao... đến trạm xá chỉ tổ phí thời gian. Chả cần tới lũ lang băm ấy bệnh cũng tự khỏi. Loại ấy mà chữa chỉ tổ mặc áo sáu tấm sớm.
Trạm xá bây giờ không lôi cuốn anh nữa. Điều anh quan tâm là kiếm thêm cái gì cho bữa tối. Toàn bộ hy vọng của anh đặt vào gói đồ tiếp tế mà Sezar nhận tối nay. Đã lâu hắn chưa nhận được gói nào.
--------------------------------------------------------------------------------
[11] Tướng Bendera - Stepan Bendera, người lãnh đạo cuộc nổi dậy của binh lính ở Tây Ukrain. Thời kỳ đầu chiến tranh Bendera hợp tác với quân Đức chống lại Liên Xô, song sau đó ông không còn ảo tưởng về nước Đức Quốc xã nữa và tiến hành chiến tranh du kích trên lãnh thổ Liên Xô. Năm 1959 bị ám sát tại Đức..
[12] Trên các công trường xây dựng ở Nga, người ta không xách vữa bằng sô, mà dùng một cái máng gỗ (hoặc sắt tây, có tay cầm ở hai đầu để khiêng, trông giống như một chiếc cáng. Ở đây chúng tôi dịch là cáng, hoặc máng.
[13] Sergei Kirov - ủy viên Bộ chính trị và là Bí thư Thành ủy Leningrad. Ông bị ám sát năm 1934. Cái chết của ông tạo cớ cho những vụ bắt bớ, đàn áp tập thể, mở đầu cho chiến dịch đại thanh trừng năm 1936-1938 ở Liên Xô.
[14] Nguyên văn: “Ê, Stakhanovich!” - Stankhnovich là tên một công nhân đạt danh hiệu anh hùng lao động toàn Liên Bang năm 1935, trở thành điển hình cho toàn quốc học tập. Phong trào Stankhanovich được nhân rộng rãi trong nhiều thập niên tại Liên Xô.
[15] Mỗi Xa-gien bằng 2,134m
[16] Hai người đang nói về phim Chiến hạm Potemkin của đạo diễn điện ảnh Xô Viết nổi tiếng Eizenstein thực hiện năm 1925. Phim nói về cuộc nổi loạn của thủy thủ trên chiến hạm Potemkin trong phong trào nổi dậy chống Nga Hoàng bất thành tại Nga năm 1905. Tác phẩm điện ảnh này đã trở thành cổ điển trong làng điện ảnh thế giới, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới trường phái điện ảnh hiện thực. Đây cũng là một trong những cuốn phim đầu tiên sử dụng kỹ xảo montage (cắt dán)