123. Vì sao từ trên cao nhìn xuống, ta cảm thấy hồi hộp và tay chân yếu đi?
Khi xem người biểu diễn "tiếp xúc với điện", ta liền tránh ra. Khi trong lòng nghĩ đến những chuyện vui trước đây, ta bỗng sung sướng cười lên; khi nhìn thấy mây đen đầy trời ta biết được trời sắp mưa; khi nhìn thấy dấu chân trên mặt đất ta biết rằng có người đã đi qua... Tất cả những điều này đều được hình thành trên cơ sở phản xạ có điều kiện.
Từ trên cao nhìn xuống, tim hồi hộp, chân run cũng là do nguyên lý đó. Khi nhìn từ trên cao xuống, ta sẽ đồng thời liên tưởng đến kinh nghiệm trong quá khứ bị ngã, do đó hiểu được hậu quả nguy hiểm của việc ngã từ trên cao xuống. Vì vậy, tim sẽ đập liên hồi, chân tay mềm nhũn ra. Những phản xạ tâm lý này của con người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường và tính năng động chủ quan. Nếu ta để cho một người mù đứng trên đỉnh nhà lầu cao mười tầng mà không báo cho anh ta biết trước thì chưa chắc người đó đã có cảm giác run sợ. Khi đứng trên đỉnh núi cao, nhìn ra phương xa ta có cảm giác thoải mái, nhưng khi đứng trên một vách tường dựng đứng, nhìn xuống vực sâu thì ta sẽ trở nên sợ hãi. Người mới học nhảy dù tuy rất lo sợ nhưng khi đã khắc phục được tâm lý hoang mang đó thì sẽ bình tĩnh nhảy vào trong không trung, không sợ gì cả.
124. Vì sao phải đề phòng bệnh béo phì từ bé?
Cùng với mức sống được nâng cao, tỷ lệ bệnh béo phì có xu hướng tăng lên rõ rệt. Béo phì không những ảnh hưởng đến thể hình mà còn dễ phát sinh nhiều loại bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, bệnh động mạch vành, máu nhiều mỡ, sỏi mật và thống phong... Do đó, việc giảm béo cho cơ thể ngày càng được nhiều người coi trọng. Vì trẻ em béo dễ bị phát triển thành người lớn béo nên các nhà khoa học kêu gọi đề phòng bệnh béo phì từ bé.
Ở trẻ em béo phì, lớp mỡ dưới da có trọng lượng vượt quá 20% so với những trẻ em cùng tuổi, có cùng chiều cao. Mỡ thừa được tích trữ dưới hai phương thức: một là số lượng tế bào mỡ tăng lên; hai là lượng mỡ trong tế bào mỡ tăng cao. Trẻ em phát phì phần nhiều là do số tế bào mỡ tăng lên, đó là dạng béo sau này rất khó giảm. Biện pháp giảm béo chỉ có thể giúp các tế bào mỡ nhỏ đi nhưng không thể giảm số tế bào mỡ. Vì vậy, đề phòng béo từ bé là điều vô cùng quan trọng.
Việc đề phòng trẻ em phát phì nên bắt đầu từ lúc sơ sinh. Trẻ em sau khi sinh ra nên bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4-5 tháng đầu, không nuôi bằng thức ăn đặc hoặc có men amilase. Nếu trong gia đình có người bị bệnh phát phì hoặc khi trọng lượng trẻ em vượt quá phạm vi bình thường, nên cẩn thận hết sức để sớm có phương pháp thức ăn uống hợp lý. Thức ăn phải ít chất đường, ít mỡ, bảo đảm anbumin. Ăn nhiều rau xanh, hoa quả, hạn chế thức ăn ngọt. Phải tham gia rèn luyện thể dục và các hoạt động ngoài trời.
125. Vì sao giảm béo khó đến thế?
Cùng với mức sống không ngừng được nâng cao, thân thể mọi người ngày càng béo hơn. Rất nhiều người bị giày vò vì béo quá, tìm muôn phương ngàn kế để cho thân thể được thanh mảnh hơn. Do đó, giảm béo không những trở thành đầu đề câu chuyện được nhiều người quan tâm mà còn cuốn hút cả sự chú ý của các nhà khoa học. Qua đủ kiểu thực nghiệm, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều lý luận và biện pháp nhằm giảm béo, nhưng đáng tiếc là hiệu quả đều chưa mấy khả quan. Vì sao giảm béo lại khó khăn đến thế?
Để giảm béo có hiệu quả, trước hết, phải tìm hiểu nguyên nhân khiến cho cơ thể béo. Cách giải thích thông thường nhất là nhiệt lượng đưa vào cơ thể nhiều quá, làm cho cơ thể không ngừng tích lũy mỡ, gây béo phì.
Việc ăn ít, ăn kiêng đã rất nhanh trở thành phương pháp giảm béo thịnh hành nhất. Nhiều người để đạt được mục đích giảm béo đã nhịn đói, nhịn khát, khống chế ăn uống, hằng ngày chỉ ăn không quá 3700 Jun. Nhưng hậu quả của nó khá tai hại. Một số người mắc phải chứng chán ăn, thân thể trở nên yếu đuối vô cùng.
Các nhà khoa học ở Đại học Alapama cho rằng: Tổng nhiệt lượng do thức ăn cung cấp bao nhiêu không quan trọng mà điều cốt yếu là phải ăn những thực phẩm có khối lượng lớn nhưng nhiệt năng thấp. Như vậy thì cho dù ăn nhiều cũng không hề gì. Những thức ăn dưới đây được coi là tương đối lý tưởng: rau xanh không chứa bột (đậu xanh, rau sống, cà rốt, dưa chuột, rau thơm), hoa quả tươi và những thực phẩm được nấu chín chưa qua tinh chế (khoai lang, ngô, đậu). Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm. Khi bạn cho rằng ăn kiêng đã thành công, đạt được mục đích giảm béo như đã định, nếu thay đổi thức ăn thì thể trọng rất nhanh trở về như cũ, thậm chí còn béo hơn trước.
Về sau, tiến sĩ Japosther Laifuli (Mỹ) đã đưa ra một cách nhìn nhận mới. Ông cho rằng cơ thể vốn có bản năng tự nhiên để đề kháng tăng trọng lượng. Vì vậy, cho dù ăn nhiều hay ít, thân thể đều duy trì trọng lượng trong một phạm vi nhất định. Phương pháp giảm béo an toàn và tin cậy nhất là hằng ngày phải vận động thích đáng. Ông nói: "Vận động có thể giúp tiêu hóa năng lượng trong thức ăn. Ví dụ, nếu mỗi ngày đi bộ hoặc chạy chậm 3 km, ta sẽ tiêu hao thêm 6000 Jun nhiệt lượng trong 1 tuần. Qua hai tuần, thể trọng sẽ giảm được 500 g. Nói một cách khác, vận động có thể tiêu hao mỡ, làm tăng cơ bắp. Khi duy trì thân thể ở trạng thái bình thường, cơ bắp đòi hỏi nhiệt lượng nhiều hơn so với mỡ, cho nên cơ bắp càng nhiều thì sự tiêu hao nhiệt lượng càng nhiều. Mấy giờ sau khi vận động, cơ thể vẫn tăng tốc độ hấp thu và đào thải, làm cho sự tiêu hao nhiệt lượng trong thức ăn tăng lên".
Nếu chỉ cần giảm béo 1-2 kg thì phương pháp trên sẽ hiệu quả. Còn để giảm từ 2,5 kg trở lên thì không thể đạt được. Vậy có phải là còn những phương pháp giảm béo tốt hơn không? Nguyên nhân cuối cùng khiến cho cơ thể béo là gì? Ông Laifuli vẫn chưa đưa ra được lời giải đáp xác thực nhất.
Mãi đến gần đây, ba nhà khoa học ở Đại học Rocfeolơ (Mỹ) là: Sưxi, Phostơ và Libec mới phát hiện: Dù là người hay động vật, sự ổn định thể trọng đều liên quan đến các tế bào mỡ trong cơ thể. Họ cho rằng, số lượng tế bào mỡ không cố định, nhưng một khi đã sản sinh ra thì không thể xóa bỏ đi được.
Sự phát hiện mới về tế bào mỡ đã dẫn đến con đường mới chân thật, triệt để để giảm béo có hiệu quả, đó là khống chế sản sinh tế bào mỡ. Nói chung, ở những người bình thường, mỡ được giữ ở một thể tích nhất định, vì những tế bào mỡ này bị bộ phận quản lý ăn uống của thần kinh đại não khống chế. Ở người béo, thể tích các tế bào này lớn gấp đôi, thậm chí gấp nhiều lần so với người bình thường. Nếu họ dùng biện pháp khống chế ăn uống, có thể thể trọng sẽ giảm, nhưng chức năng hóa học trong cơ thể sẽ bị nhiễu loạn rất nhiều. Tế bào mỡ của họ sẽ rất nhỏ, gần như ở người bị chứng kén ăn do thần kinh. Mạch và huyết áp của họ rất thấp, kinh nguyệt kém, họ luôn cảm thấy lạnh và thèm ăn.
Có một phụ nữ sau khi giảm được 9 kg thì thân hình biến thành rất quái dị, vì bắp đùi và phần mỡ ở mông hầu như không giảm sút. Sau khi nghiên cứu cẩn thận, ông Libec phát hiện thấy tế bào mỡ có hai loại thụ thể: thụ thể alfa thúc đẩy tích tụ mỡ; thụ thể bêta thúc đẩy phân giải mỡ. Ở người phụ nữ nói trên, phần lớn tế bào mỡ ở bắp đùi và mông thuộc loại thụ thể alfa; vì vậy, số tế bào mỡ được phân giải và phóng thích rất ít.
Phát hiện này khiến cho các nhà khoa học có hướng nghiên cứu mới. Họ hy vọng có thể tìm ra một loại "viên thuốc thanh mảnh", cưỡng bức những tế bào mỡ không chịu "hợp tác" kia chịu phân giải mỡ. Nhưng muốn đạt được kết quả này, ta còn phải chờ khá lâu.
Tóm lại, hiện nay, các kết quả giảm béo đều phải được trả giá bằng sự nỗ lực rất gian khổ, lâu dài, người bình thường chắc khó mà thực hiện được. Còn các loại thuốc giảm béo đang lưu hành trên thị trường đều không đạt được hiệu quả mong muốn, thậm chí có thể phát sinh những phản ứng phụ bất lợi.
126. Vì sao có bàn chân bằng?
Khi đi đường bằng chân trần, mỗi người sẽ để lại dấu chân. Ở giữa dấu chân bao giờ cũng có hình khuyết mặt trăng. Hình khuyết này là đường cong lòng bàn chân của mỗi người. Con người sở dĩ có thể đi trên đường gồ ghề được chính là nhờ tác dụng của hình cong này. Trường hợp lòng bàn chân không có hình cong được y học gọi là chứng "chân bằng". Ở người bị chứng này, khi đi đường, thần kinh mạch máu ở lòng bàn chân bị dồn ép, có thể khiến bàn chân bị tê, đau và lạnh. Vì chân bằng, khi đi, các cơ lòng bàn chân không có lực đàn hồi, nên không thể đi xa, không thể đứng lâu, càng không có sức bật và không thể mang vác nặng. Vì sao lại sản sinh ra tật chân bằng?
Các nhà khoa học giải thích rằng: hình cung của lòng bàn chân là do xương gót, xương đốt bàn chân, xương mu bàn chân, xương đốt chân, xương chêm 1-3, xương mép ngoài bàn chân 1-5, dây chằng và các cơ tổ chức nên. Khi xương chân, dây chằng và các cơ bị khác thường, chân sẽ bị bằng. Ví dụ, thanh thiếu niên đang thời kỳ phát triển nếu đứng lâu, mang vác nặng lâu ngày, hay phải đi xa, nghỉ ngơi hoặc dinh dưỡng không đầy đủ, bàn chân sẽ mệt mỏi, dẫn đến tổn thương mạn tính, cơ bắp và dây chằng co lại, hình thành tật bàn chân.
Ngoài ra, nếu khớp xương mu bàn chân phát triển quá dài, xương mép ngoài bàn chân thứ nhất quá ngắn, xương chân sẽ bị dị dạng bẩm sinh. Việc phần chân bị giập hoặc gãy, bại liệt (ở trẻ em), viêm khớp dạng phong thấp đều có thể dẫn đến chứng chân bằng. Bố mẹ chân bằng thì con cái cũng thường có chứng chân bằng.
Thanh thiếu niên nên tham gia thể thao, đi bộ và đi xe đạp nhiều để đề phòng chứng chân bằng. Người đã có chứng chân bằng thì không nên đi dép lê mà nên đi giày có gót hoặc giày hiệu chỉnh. Cũng có thể đi chân trần nhưng mũi chân chạm đất, hoặc dùng bàn chân đạp lên bàn lò xo để tăng thêm lực của cơ bắp, đỡ cho cơ của hình cung lòng bàn chân.
127. Vì sao có người chân nhiều mồ hôi?
Có một số người đi đường nhiều hoặc sau khi chạy bộ, mồ hôi chân ra nhiều, ướt đẫm tất và giày, mùi rất khó chịu. Các nguyên nhân bao gồm:
- Có nhiều tuyến mồ hôi ở phần chân, thường liên quan với nhân tố di truyền.
- Các dây thần kinh chi phối tuyến mồ hôi chân nhiều và nhạy cảm, hoặc phân bố cùng với thần kinh giao cảm trên da. Mỗi lần đi bộ, chạy hoặc bị kích động, căng thẳng, thần kinh giao cảm sẽ bị hưng phấn cao độ, tuyến mồ hôi tiết ra nhiều mồ hôi.
- Đi giày không thoáng, mồ hôi tiết ra không kịp thời bốc hơi. Nên đi tất sợi bông, giày vải hoặc giày da; loại tất và giày này hút nước mạnh nên mồ hôi chân dễ bốc hơi. Không nên đi giày cao su bít kín, khi cần thiết phải đi thì có thể đệm thêm một lớp lót xốp hút nước tốt.
Người mồ hôi chân nhiều có thể dùng biện pháp ngăn ngừa mồ hôi cục bộ. Ví dụ, dùng dung dịch có 5% phèn chua, dung dịch có 3-5% methanal, hoặc dung dịch có 0,5% dấm để bôi lên chân chỗ mồ hôi nhiều. Có thể dùng thuốc probanthil, atrpin nghiền thành bột bôi lên phần chân có nhiều mồ hôi
128. Vì sao học sinh cấp 1-2 không nên đi giày cao gót?
Chân là nền tảng của cơ thể, nó không những phải gánh chịu trọng lượng toàn thân mà còn phải đi và nhảy. Giày là vật bảo vệ cho bàn chân, nó có tác dụng làm cho bước đi ổn định và giữ ấm bàn chân.
Giày cao gót có thể tăng thêm đường nét thanh mảnh của hình thể và dáng yểu điệu của người phụ nữ. Do đó, để tăng vẻ đẹp, không ít em học sinh cũng muốn đi giày cao gót. Thực ra, đối với học sinh cấp 1-2, cơ thể đang phát triển, việc đi giày cao gót sẽ lợi ít hại nhiều, thậm chí rất có hại cho sức khỏe.
Giày cao gót là loại giày có gót cao hơn 3 cm. Vì gót giày cao và rất nhỏ nên trọng lượng toàn thân tập trung ở một điểm nhỏ. Ở học sinh cấp 1-2, hình cung bàn chân phát triển chưa hoàn thiện; các em lại rất hiếu động, dễ bị tổn thương bàn chân, mắt cá và các cơ, dây chằng của bàn chân. Nếu dùng lâu, bàn chân và thắt lưng sẽ xuất hiện chứng đau mỏi. Gót giày cao quá còn khiến cho xương gót chân có khuynh hướng chùn xuống, hình cung bị phá hoại, dễ tạo nên chứng chân bằng. Không những thế, giày cao gót còn khiến các ngón chân bị dồn vào đầu mũi giày nhọn, bị bóp nghẹt, lâu ngày sẽ dẫn đến các bệnh về ngón chân, tạo nên các mắt gà trên mu bàn chân.
Nghiêm trọng hơn, nếu đi giày cao gót lâu ngày, thân thể đổ về phía trước khiến cho cột sống vùng thắt lưng cong lại một cách không tự nhiên nhằm bảo đảm cho cơ thể được cân bằng, hậu quả là cơ thắt lưng bị mỏi mệt, đau; có khi xương chậu bị dị dạng, ảnh hưởng đến sự sinh đẻ sau này.
Qua đó, có thể thấy học sinh cấp 1-2 không nên đi giày cao gót. Các nhà khoa học cho rằng, gót giày của các em không nên cao quá 3 cm, tạo hình mặt giày nên giống với hình cung của bàn chân, làm cho lòng bàn chân chịu lực đều, khi đi không cảm thấy khó chịu. Tuy nhiên, gót giày thấp quá cũng sẽ khiến cho cơ bắp chân căng thẳng, dễ mệt mỏi, đi bộ lâu sẽ cảm thấy cơ bắp chi dưới mỏi, không có lực.
|