237. Ăn trứng gà như thế nào mới có lợi cho sức khỏe?
Trứng gà là loại thực phẩm phổ thông, giàu dinh dưỡng, dễ ăn, lại rẻ, do đó được nhiều người ưa thích.
Có người cho rằng, trứng gà sống dễ hấp thu, giá trị dinh dưỡng cao, bổ cho cơ thể. Thực ra không phải như thế. Trước hết, trứng gà sống chứa những chất kháng sinh và men có hại cho sự tiêu hóa của cơ thể. Chúng gây thiếu nhóm vitamin B. Còn ở trứng gà luộc chín, các chất kháng sinh này đã bị phá hoại. Hơn nữa, kết cấu anbumin của trứng gà sống rất vững chắc nên tỷ lệ hấp thu chưa đến 60%, phần còn lại đều bị thải ra ngoài. Còn anbumin của trứng gà chín thì kết cấu đã lỏng lẻo, dễ được cơ thể hấp thu, đạt trên 90%.
Ngoài ra, trên vỏ trứng gà có rất nhiều vi khuẩn và trứng ký sinh trùng. Chúng đi vào trong qua những lỗ nhỏ trên vỏ trứng, gây ô nhiễm. Còn ở trứng gà chín, chúng đã bị tiêu diệt.
Trứng gà vỏ đỏ tốt hay trứng gà vỏ trắng tốt? Trứng gà vỏ đỏ màu hồng nhuận, vỏ chắc khó vỡ, lòng đỏ cũng đậm hơn cho nên nhiều người cho rằng dinh dưỡng của nó nhiều hơn trứng gà trắng. Thực ra, lượng dinh dưỡng của chúng chẳng chênh nhau là mấy. Ở trứng gà đỏ, hàm lượng anbumin là 12,4%, hàm lượng mỡ là 11,2%. Còn ở trứng gà trắng, các chỉ số này lần lượt là 13% và 9,9%. Những thành phần khác đều tương đương giữa 2 loại trứng.
238. Vì sao chơi điện tử quá mức sẽ có hại?
Trò chơi điện tử là sản phẩm khoa học kỹ thuật cao cấp, đã trở thành phương tiện vui chơi rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Đặc biệt là Brickgame thể tích nhỏ, không bị thời gian và không gian hạn chế nên rất được hoan nghênh. Có người cho rằng Brickgame bức xạ không mạnh như máy tính điện tử nên ảnh hưởng mắt không lớn, thực tế không hoàn toàn như vậy.
Chúng ta thường bắt gặp một số người chơi Brickgame trên tàu hỏa, ô tô, đã chơi là kéo dài vài tiếng, con mắt dán vào màn hình nhỏ, tay bấm liên tục, rất dễ gây mỏi mắt, cứng tay. Nếu không chú ý hướng chiếu của ánh sáng và tư thế ngồi mà chơi lâu, họ sẽ giảm thị lực, thần kinh căng thẳng, sức chú ý không tập trung, dẫn đến tinh thần uể oải.
Đối với thiếu nhi, việc chơi Brickgame quá mức càng có hại vì cơ thể đang phát triển, mắt, khung xương và các cơ quan khác chưa hoàn thiện phát triển hoàn toàn. Càng có hại hơn nếu trẻ dành thời gian lên lớp và làm bài tập cho trò chơi này. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trẻ em nghiện trò chơi Brickgame dễ dẫn đến học tập khó khăn, mất tính sáng tạo và năng lực suy đoán, trở thành người "máy". Lâu ngày, chúng sẽ trở nên nghiện, dốc toàn bộ hứng thú và thời gian vào trò chơi. Một số nhà hàng tổ chức trò chơi còn đặt giải thưởng để thu hút các em, thậm chí có những phòng chơi còn đánh bạc; nhiều trò chơi mang nội dung tình dục, bạo lực, rất có hại cho thanh thiếu niên.
Sự xuất hiện trò chơi điện tử có thể làm phong phú cuộc sống của con người, nếu đó là những chơi lành mạnh. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các chuyên gia, dù sao cũng không nên chơi điện tử (kể cả Brickgame) quá một giờ. Sau khi kết thúc trò chơi nên cho mắt nghỉ, nên tập thể dục cho tay, hoạt động tứ chi để tránh các ảnh hưởng có hại.
239. Vì sao không thể có những người tướng mạo hoàn toàn giống nhau?
Tướng mạo là phần cơ thể gây chú ý nhất cho con người, cũng là căn cứ để mọi người nhận biết và tìm hiểu lẫn nhau. Vì sao tướng mạo người ta không ai giống nhau? Động lực "tạo nên" tướng mạo là gì?
Con người hình thành do sự kết hợp của tinh trùng và trứng của hai bên bố mẹ. Số lượng nhiễm sắc thể trong tinh trùng và trứng là 23 x 2 = 46 cái. Đặc trưng tướng mạo của con người do các gene trên các nhiễm sắc thể quyết định.
Mỗi nhiễm sắc thể đều có cấu tạo và hình dạng riêng. Trên mỗi nhiễm sắc thể có khoảng 1250 gene. Ngày nay, các nhà y học cho rằng tổng số gene của con người ở khoảng 1-2 triệu. Vì vậy, chúng có thể "nặn ra" vô số tướng mạo, không những mắt, mũi, miệng, tai... có hình dạng và vị trí khác nhau mà khuôn mặt cũng khác nhau; thậm chí mắt một mí và mắt hai mí cũng đều là do những gene di truyền khác nhau quyết định. Ngay ở trường hợp sinh đôi, sự sắp xếp gene di truyền trên nhiễm sắc thể cũng không hoàn toàn giống nhau, chỉ có 1/70-1/80 khả năng giống nhau. Do đó, những người giống nhau hoàn toàn có thể nói là không có.
240. Cha mẹ thấp có sinh được con cao lớn không?
Thông thường, cha mẹ cao thì con cái cũng cao. Nhưng không thể phủ nhận là trong một số gia đình cha mẹ cao nhưng lại xuất hiện con thấp và ngược lại, nhiều gia đình cha mẹ thấp nhưng lại có những đứa con cao. Tại sao vậy?
Thứ nhất, những người thân cao thường chịu ảnh hưởng rõ rệt của nhân tố môi trường. Khi con người ở thời kỳ phát dục, nếu gặp môi trường có lợi cho sự phát triển chiều cao (khí hậu thích hợp, dinh dưỡng đầy đủ, rèn luyện vận động đúng mức...), cơ thể dễ phát triển cao; nếu rơi vào môi trường bất lợi thì sự phát triển chiều cao dễ bị ảnh hưởng.
Thứ hai, chiều cao cơ thể còn chịu ảnh hưởng của nhân tố di truyền. Loài người có mấy gene di truyền quyết định chiều cao thân thể. Nếu cha mẹ truyền cho con nhiều gene di truyền có lợi cho chiều cao thì con cái lớn lên sẽ cao và ngược lại.
Tóm lại, chiều cao của con người vừa chịu ảnh hưởng của nhân tố môi trường vừa chịu ảnh hưởng của nhân tố di truyền. Vì điều kiện môi trường của mỗi người khác nhau, nhân di truyền quyết định chiều cao bố mẹ truyền cho cũng khác nhau nên chiều cao của cơ thể con cái là muôn hình vạn trạng. Nhưng nhìn chung, bố mẹ cao thì con cái phần nhiều cũng cao.
241. Vì sao có một số người thấp nhỏ?
Có nhiều người trông khuôn mặt rõ ràng là đã trưởng thành nhưng thân thể lại rất thấp bé, giống như một thiếu niên.
Sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể chịu sự khống chế của chất kích thích sinh trưởng do thùy não tiết ra. Nếu chất kích thích này được tiết ra quá nhiều, người sẽ to tồ; nhưng nếu trước thời kỳ phát dục, chất kích thích này được sản xuất không đủ, cơ thể sẽ rất thấp bé.
Một số người do thiếu chất kích thích sinh trưởng nên chiều cao chỉ đạt trên dưới 1,32 m đối với nam và 1,23 m đối với nữ. Vì phần đầu của họ vẫn như người lớn bình thường cho nên họ có hình dạng không cân xứng. Tuy trí lực của người thấp bé không bị ảnh hưởng mấy nhưng với tầm vóc như thế, họ gặp nhiều trở ngại trong sinh hoạt và có áp lực tâm lý to lớn.
Hiện các nhà khoa học chưa xác định được nguyên nhân tại sao ở những người này, não lại không tiết ra đủ chất kích thích, khiến họ mắc chứng bệnh thấp bé. Nhiều người cho rằng tình trạng này do cơ thể bẩm sinh phát dục không đầy đủ gây nên; có người lại cho rằng việc này liên quan đến chứng nhiễm trùng hoặc bị ký sinh trùng hút máu. Một số người mắc bệnh nhỏ bé do não bị một khối u bên cạnh chèn ép.
Những người thấp bé do thiếu kích thích tố sinh trưởng có thể điều trị bằng cách tiêm chất kích thích sinh trưởng. Nếu nguyên nhân gây thấp bé là khối u thì trước hết cần tìm cách chữa trị khối u.
242. Tại sao các nhà khoa học phải khám phá bí mật gene di truyền của con người?
Các nhà khoa học đang khám phá bí mật gene di truyền của con người nhằm vẽ ra bức tranh chính xác về di truyền. Không ít người sẽ hỏi, mặc dù chúng ta công phá được cửa ải này nhưng nó sẽ đem lại ý nghĩa thực tế gì cho cuộc sống nhân loại?
Di truyền học hiện đại mách bảo chúng ta rằng, gene là cơ sở của di truyền, do ADN tổ chức thành. Nó quyết định các tính trạng của cơ thể, ví dụ người châu Á mắt đen, người châu Âu mắt xanh. Màu sắc của nhãn cầu là do gene chi phối.
Không những thế, có nhiều bệnh con người mắc phải là do gene di truyền. Bệnh nhân di truyền do một gene nào đó biến đổi về kết cấu mà gây nên, điển hình nhất là bệnh thiếu máu dạng tế bào lưỡi liềm. Còn bệnh do nhiều gene di truyền là do kết cấu nhiều gene biến đổi gây nên, ví dụ như khối u, cao huyết áp...
Chính vì vậy, nếu nắm vững kết cấu từng gene trong cơ thể và tình trạng hoặc bệnh tật tương ứng với nó thì cho dù con người mắc bệnh gì cũng chỉ cần khắc phục được gene tương ứng là tìm được phương pháp chữa bệnh. Vì vậy, các nhà khoa học đang khao khát dịch được bí mật gene.
243. Bệnh di truyền phát sinh như thế nào?
Trong quan niệm của người xưa, bệnh di truyền có liên quan tới cơ quan sinh dục. Cùng với sự phát triển của sinh vật học phân tử hiện đại, loài người đã có nhận thức sâu sắc hơn đối với bệnh di truyền. Ngày nay, người ta cho rằng bệnh di truyền có thể do cha mẹ truyền lại, cũng có thể không phải từ cha mẹ để lại. Ví dụ, bệnh bẩm sinh ngu đần vừa có thể do gene bị biến đổi, cũng có thể là bệnh di truyền, tức là từ bố mẹ truyền lại. Nhưng bệnh ung thư mà mọi người đều sợ lại không phải do bố mẹ di truyền, mà là do gene biến đổi trước ảnh hưởng của môi trường.
Bệnh do gene có thể chia làm 3 loại lớn: bệnh di truyền đơn gene, bệnh nhiễm sắc thể, bệnh di truyền đa gene.
Bệnh di truyền đơn gene do một gene nào đó phát sinh biến đổi mà gây nên, thường dẫn đến sự rối loạn hấp thu, đào thải hoặc phát dục của cơ thể. Bố mẹ của bệnh nhân xem ra rất bình thường, nhưng trên thực tế đều mang những gene gây bệnh ở dạng tiềm ẩn. Lúc đó gọi "Di truyền có tính tiềm ẩn". Cũng có trường hợp bố mẹ bệnh nhân cũng phát bệnh, gọi là "di truyền hiện rõ". Bệnh đơn gene có rất nhiều loại: thiếu máu dạng lưỡi liềm, bệnh máu nhóm A, mù màu đỏ...
Bệnh nhiễm sắc thể xuất hiện do thừa hoặc thiếu nhiễm sắc thể. Mặc dù dây nhiễm sắc thể này đều có các gene bình thường nhưng bệnh nhân vẫn xuất hiện chứng tổng hợp đường thị (bẩm sinh ngu đần).
Bệnh di truyền đa gene khá phức tạp, do nhiều gene gây nên. Có lúc tất cả các gene đều bình thường, nhưng tổng hợp các gene này trên một cơ thể nào đó lại làm xuất hiện bệnh chứng nghiêm trọng, ví dụ như bệnh tim, khối u, bệnh động mạch vành... Loại bệnh này cũng chịu ảnh hưởng của môi trường, phương thức sinh hoạt cá nhân và điều kiện ngoại giới.
Bệnh di truyền làm tổn hại nghiêm trọng đến loài người, đặc biệt là gia đình của bệnh nhân. Theo thống kê,1/3 số trẻ đến điều trị tại khoa nhi có liên quan đến bệnh di truyền. Trong các ca tử vong ở trẻ em từ 15 tuổi trở xuống, bệnh di truyền chiếm phần lớn.
Ngày nay, loài người vẫn chưa có biện pháp chữa trị hiệu qủa đối với loại bệnh này; do đó, việc chẩn đoán và dự phòng sớm là vô cùng quan trọng. Ví dụ: Cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống gần; trước khi kết hôn và sinh đẻ phải kiểm tra và hỏi han về di truyền để sinh con tốt; đối với những thành viên trong gia đình dễ mắc bệnh, cần tư vấn sớm để đề phòng...
Nhờ sự phát triển của y học hiện đại, tế bào học và sinh vật học phân tử, con người ngày càng hiểu biết sâu hơn nguyên nhân gây các loại bệnh này. Các thành qủa nghiên cứu khoa học đã đưa lại những biện pháp có hiệu qủa để chẩn đoán và dự phòng bệnh di truyền. Chữa bệnh bằng gene di truyền cũng là phương hướng chủ yếu của y học và sinh vật học hiện đại.
244. Gene di truyền vân tay là gì?
Vân tay là từ chỉ các hoa văn trên da đầu ngón tay. Chúng có vẻ khác nhau không nhiều, nhưng thực ra là thiên biến vạn hóa. Mãi đến ngày nay, người ta vẫn chưa phát hiện ra hai người có vân tay hoàn toàn giống nhau trên thế giới này. Chính nhờ đặc điểm đó mà cảnh sát có thể thông qua việc giám định dấu vân tay để lại trên hiện trường để tìm ra tội phạm, xác nhận phạm nhân là ai.
Như ta đã biết, giữa những người khác nhau, gene di truyền trong cơ thể tuy căn bản giống nhau nhưng vẫn có sự khác biệt nhiều hay ít. Có thể nói, giống như vân tay, trên thế giới này không tồn tại hai người có gene di truyền hoàn toàn giống nhau, ngay với người sinh đôi cũng có sự khác biệt nho nhỏ. Các nhà khoa học có thể căn cứ mật mã di truyền, qua xử lý đặc biệt để nhận biết hình vẽ nào đó, nhìn vào đó giống như những hình mật mã đen trắng đan xen nhau, đó chính là gene di truyền vân tay.
Gene di truyền vân tay giống như vân tay, sẽ giúp đỡ cảnh sát phá án rất tốt. Trình độ kỹ thuật ngày nay có thể từ một giọt máu, từ một cây tóc, một chút nước bọt để tìm ra được nhân di truyền vân tay. Ví dụ khi tội phạm vật lộn với người bị hại, rất có thể bị sầy sớt da, thậm chí để lại vết máu ở hiện trường. Đó chính là đầu mối quan trọng để cảnh sát từ đó tìm ra gene di truyền vân tay, sau đó tiến hành kiểm tra máu đối với những người bị nghi ngờ. Một khi phát hiện được gene di truyền thống nhất, người ta có thể xác định được ai là tội phạm.
245. Trẻ em sinh trong ống nghiệm có phải lớn lên trong đó không?
Nói đến trẻ em sinh trong ống nghiệm, hầu như ai cũng nghe biết, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ trẻ em được sinh trong ống nghiệm như thế nào. Rất nhiều người cho rằng trẻ em có thể được nuôi lớn trong ống nghiệm. Thực ra đó là cách hiểu rất sai. Vậy trẻ em sinh trong ống nghiệm thực chất là như thế nào?
Các nhà khoa học cho chúng ta biết, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm bao gồm hai phần chủ yếu: đó là thụ tinh bên ngoài cơ thể và dời cấy phôi thai. Phần đầu tiến hành trong ống nghiệm, phần sau là dời phôi thai cấy vào trong tử cung người mẹ để thai phát triển dần lên.
Sự ra đời "trẻ em ống nghiệm" đại thể cần phải kinh qua mấy quá trình sau: Trước hết, bác sĩ dùng thuốc để giúp người mẹ rụng trứng đúng thời gian yêu cầu, sau đó dùng một khí cụ đặc biệt cho vào bụng người mẹ để lấy trứng ra. Tiếp theo, bác sĩ cho trứng vào dung dịch nuôi trứng, chờ khi trứng hoàn toàn thành thục mới cho tinh trùng đã qua xử lý vào, để cho tinh trùng và trứng thụ tinh trong ống nghiệm, chứ không phải trong cơ thể người mẹ, mà hình thành trứng thụ tinh.
Lúc này, trứng thụ tinh được ngâm trong dung dịch nuôi dưỡng và bắt đầu sản sinh, phân chia tế bào. Một trứng thụ tinh phân chia thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám..., dần dần phát triển thành phôi thai nhỏ nhoi. Đến giai đoạn này, bác sĩ đưa phôi thai dời vào tử cung người mẹ. Thai lớn dần đến lúc trở thành hài nhi.
Kỹ thuật sinh trong ống nghiệm chủ yếu được thực hiện đối với những người phụ nữ bị tắc ống dẫn trứng và những người chồng mà chất và lượng tinh trùng có vấn đề, không thể tự nhiên có thai được. Sự ra đời của kỹ thuật này đã đem lại hy vọng và hạnh phúc to lớn cho những cặp vợ chồng bị bệnh vô sinh.
246. Con người có thể tự nhân bản mình không?
Con người phục chế mình, sinh ra một người nhân bản giống như mình? Cùng với sự ra đời của cừu Doly, điều này có vẻ sẽ trở thành hiện thực. Nếu xét về mặt lý thuyết, đã nhân bản được cừu Doly thì cũng có thể nhân bản được trâu bò, con người. Cừu và người đều là động vật có vú; vậy kỹ thuật nhân bản vô tính cừu cũng có thể dùng được cho người.
Tuy nhiên, đối với vấn đề nhân bản con người, hiện nay giới khoa học đang tranh luận chưa dứt. Những người tán thành cho rằng, việc nhân bản người thành công là một may mắn to lớn đối với những cặp vợ chồng vô sinh. Nó cũng mở ra một bầu trời rộng lớn về nguồn cung cấp các cơ quan thay thế. Việc thực nghiệm kỹ thuật nhân bản vô tính còn thể hiện mơ ước "trường sinh bất lão" của một số người. Khi cuộc đời của một người đi đến tận cùng, họ có thể nhờ các nhà khoa học nhân bản mình.
Những người phản đối nhân bản vô tính người cũng đưa ra nhiều lý do. Người đã nhân bản thành công cừu Doly từng cho biết, ông đã dùng đến ba cừu mẹ giả, với tổng cộng 277 trứng; trong đó chỉ 29 trứng phát triển được đến giai đoạn có thể cấy; qua nhiều xử lý của kỹ thuật mà cuối cùng chỉ có được một con cừu. Nếu làm thí nghiệm như thế trên con người thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn và phiền phức chưa thể lường hết được. Chỉ riêng về trứng mà nói, một phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ mỗi tháng chỉ rụng một trứng; khả năng nhân bản vô tính trứng này thành công là rất ít; cho nên phải có rất nhiều phụ nữ tham gia thí nghiệm thì mới thành công được.
Các nhà khoa học cho rằng, việc dùng phương pháp vô tính để sản sinh ra con người sẽ khiến cho loài người mất đi tính đa dạng về di truyền, dẫn đến phá hoại sự sinh tồn của loài người. Nhân bản vô tính người là sự xâm phạm "quyền lợi về gene di truyền độc lập" của cá thể sinh mệnh đó. Con người nên yêu mến hình thức sinh mệnh độc đáo của mình, cũng nên tiếp thu sự tử vong tự nhiên của cá thể. Đó là sự bảo vệ đặc trưng cá tính và tôn trọng nhân cách của mình.
Ngoài ra, các nhà xã hội học còn cho rằng, nhân bản vô tính người là một sự đối lập mạnh mẽ đối với luân lý, kết cấu gia đình và trật tự xã hội hiện có, đánh mất đi tình thân truyền thống, trách nhiệm gia đình và nghĩa vụ xã hội... Tất cả những điều này đưa lại tác hại khôn lường.
Trong cuộc tranh luận rầm rộ này, tiếng nói của những người phản đối chiếm địa vị chủ đạo. Năm 1997, Tổ chức Khoa học giáo dục của Liên hợp quốc đã tiến hành đại hội ở Pháp, thông qua văn kiện về chuẩn mực đạo đức về chỉ đạo nghiên cứu di truyền. Đại hội này đã ra "Tuyên ngôn di truyền Nhân loại" yêu cầu cấm nhân bản vô tính người và những hành vi nghiên cứu khoa học khác làm tổn hại đến quyền lợi và sự tôn nghiêm của con người.
247. Con người vì sao biết xấu hổ?
Có một số người khi giao tiếp với người khác, đặc biệt là với người lạ, thầy giáo hoặc người lớn tuổi, thường cảm thấy xấu hổ và sợ hãi. Họ thường lắp bắp, nói nhỏ, thậm chí có lúc nói không ra lời. Tại sao vậy?
Trước hết, đó là vì nguyên nhân tâm lý. Người hay xấu hổ thường cảm thấy mình yếu đuối và vô cùng tự ty. Trong đó, có người thiếu lòng tự tin, quá lo lắng là mình sẽ để lại ấn tượng không tốt cho người khác, luôn lo sợ người khác khinh mình. Có người trong giao tiếp gặp phải trắc trở, từ đó trở nên thiếu mạnh dạn.
Thứ hai là nguyên nhân về sinh lý. Phản ứng sinh lý khi xấu hổ hoàn toàn giống như trạng thái căng thẳng: tim đập nhanh, cơ bắp căng thẳng, hàm lượng các chất kích thích trong máu và trong não tăng cao. Lúc đó, nhịp tim rối loạn, mặt đỏ, tay run, thậm chí toát mồ hôi.
Thứ ba là nguyên nhân về xã hội. Khi Lâm Đại Ngọc trong "Hồng Lâu mộng" vừa đến Giả phủ thì rất thẹn thùng e ngại. Hình tượng này được cho là điển hình của nữ tính, nhận được sự đồng cảm của xã hội. Theo một điều tra ở Nhật Bản, đa số người được hỏi đền cho rằng, phẩm chất nên có của nam giới là tính cương nghị; còn phẩm chất nên có của phụ nữ là tính dịu dàng, mà xấu hổ là một biểu hiện.
Làm thế nào để khắc phục tâm lý xấu hổ? Thứ nhất, phải tăng cường lòng tự tin, khẳng định đầy đủ chỗ mạnh của mình, khuếch trương chỗ mạnh, tránh chỗ yếu. Thứ hai, phải tranh thủ cơ hội tranh luận (trước dễ, sau khó) để rèn luyện. Ví dụ: Chủ động phát biểu trước nhiều người quen biết, sau đó mở rộng phạm vi và tăng thêm độ khó; cuối cùng là phải tiếp xúc nhiều với những người có tính cách cởi mở, lạc quan, nhiệt tình để có lợi cho việc khắc phục tâm lý xấu hổ.
|