Đô Khôcrô dọn đến ở một trong hai ngôi nhà bỏ hoang trên mỏm Camarôn này từ mùa xuân. Lão chọn cái túp nhà gần biển và xa thành phố hơn. Từ khi bị người ta ăn cắp hết tiền, ông lão không sợ sống một mình và không sợ cướp nữa. Bây giờ đang là mùa hè, nên một sinh vật có thể sống được ở bất cứ chỗ nào, miễn là có thức ăn. Cứ một tuần hai lần ông lão lại được Maxicô, một phụ nữa tốt bụng mà lão vẫn hái rong biển cho, đến thăm và mang thức ăn cho lão. Lão định sống ở Camarôn cho đến khi nào trời trở rét, mùa đông có thể lão thợ rừng Yu, sẽ cho lão đến sống nhờ trong nhà ông ta. Hiện nay Đô Khôcrô chưa có chỗ ở riêng, vì cái túp lều xiêu vẹo của người quét sân đã bị dỡ đi và người ta ra lệnh cho lão chuyển đến ở trong khu tập thể, cùng với đám thanh niên, nhưng lão không muốn vào đó, nên mùa đông vừa rồi đã đến ở nhờ nhà người thợ rừng. Nhưng bây giờ Đô Khôcrô cũng thôi không làm cả việc quét sân nữa, và hoàn toàn nhàn rỗi, như con sẻ tự do.
Bây giờ cứ thấy Đô Khôcrô đi ngoài phố là mọi người ai cũng cười lão. Trước đây người ta đã cười rồi, nhưng hồi đó lão còn có cái túi thiêng liêng, trong đó lão nhét tất cả số tiền người ta trả công cho lão về công việc quét sân cho sở mỏ. Mỗi tờ giấy bạc được lão vo tròn nhiều lần, tới khi dầy bằng cái móng tay, và cái túi nhỏ của lão đã chật cứng những cuộn giấy tròn như thế. Thế là bọn người ngu ngốc có chuyện để cười, nhưng cứ mặc cho họ cười. Đô Khôcrô vẫn thản nhiên bước đi, không thèm nhìn ai, lão tự biết giá trị của lão. Có lần lão còn xông vào đấm túi bụi một thằng bé đã nghịch ngợm hất ngược cái mũ lưỡi trai của lão ra đằng sau gáy. Thằng bé tóc hung thò lò mũi hét lên, cố vùng thoát khỏi tay lão, còn Đô Khôcrô, vẫn hầm hầm tức giận chửi theo nó và dậm chân bành bạch. Lẽ ra lão có thể cứ sống mãi như thế, tự tin và giàu có cho đến bây giờ, nhưng có lẽ trong cuốn sổ định mệnh Đô Khôcrô đã bị ghi tên vào số những kẻ bất hạnh.
Ông giám đốc Sin đang cần tiền. Ông giám đốc có thể hỏi vay bất cứ người thợ mỏ nào đứng quanh ông, nhưng ông lại nhè đúng Đô Khôcrô mà hỏi. Mọi người cười rộ, vì họ biết ông lão chỉ ăn toàn cơm thừa canh cặn của họ trong nhà ăn thợ mỏ. Tất nhiên người ta cho rằng lão ăn thế chẳng qua vì nghèo túng. Thì cứ mặc cho mọi người nghĩ vậy, nhưng đằng này, lão thấy đau như người bị dùi đâm vào hông, lão tức vì ông giám đốc muốn giễu cợt lão. Và trước mắt mọi người, Đô Khôcrô quay mặt vào tường, cởi cạp quần lôi ra cái túi nhỏ bằng vải bạt, buộc bằng dây. Cái sợi dây này được buộc chặt quanh thắt lưng lão.
Nhớ lại sự ngu ngốc của mình, Đô Khôcrô đau khổ gãi tai, lắc đầu và nheo tịt mắt lại. Lão được cái gì trong giây phút sĩ diện ngớ ngẩn ấy ? Chẳng được gì cả. Còn lão mất cái gì ? Lão mất hết số tiền dành dụm bao nhiêu năm trời. Cái đắc chí tự mãn rất trẻ con và ngu ngốc của lão kéo dài chỉ đúng một phút. Ông giám đốc béo phị nhìn lão với bộ mặt như đang ngậm trong mồm miếng khoai tây nóng, còn những người khác thì ai nấy im lặng. Đô Khôcrô mở tờ giấy bạc xanh, đưa cho ông Sin và bảo : "Đây … Nếu cần thì lấy thêm nữa ?". Thế là từ đó Đô Khôcrô bắt đầu nổi tiếng.
Đám thợ rừng độc thân bắt đầu mời lão đến uống rượu, mặc dù lão không phải góp một xu nào. Ông già Yu cho lão đến ở nhờ nhà mình khi cái túp lều trong sân sở mỏ mà Đô Khôcrô vẫn sống, bị dỡ đi. Những người thợ rừng vốn là dân lắm tiền, nên họ kính nể Đô Khôcrô, thán phục thái độ nghiêm túc của lão đối với cuộc sống. Đã lâu lắm, từ hồi còn bọn Nhật, bọn họ đều là người được tuyển mộ ở Triều Tiên, họ đến Xakhalin với mục đích kiếm tiền, và sẽ mang tiền trở về quê hương, nhưng rồi họ bị kẹt lại đây suốt từ hồi ấy, dần dần mất liên lạc với gia đình. Vì kể từ năm bốn mươi nhăm ở Triều Tiên đã xảy ra hai cuộc chiến tranh, những cuộc chiến tranh này đã làm gia đình những người thợ rừng tan tác. Và bây giờ tiền là thứ duy nhất mà số phận giữ cho họ để đền bù cho cuộc sống bất hạnh
Những người thợ rừng hay đùa đó âm mưu với nhau cưới vợ cho Đô Khôcrô. Một tối họ dắt đến cho lão một người đàn bà nổi tiếng nhất của thành phố được đám dân độc thân cho biệt hiệu là "Cái chậu hoa". Người đàn bà to béo và không trong sạch ấy cứ lăn tấm thân phục phịch vào người Đô Khôcrô mà cù lão. Cô ả vừa cù vừa lấy tay sờ vào chỗ túi tiền của lão, lão cứ hất bàn tay cô ả ra và cười nghiêng ngả đến nỗi người toát hết mồ hôi và đau cả trán. Lão bảo cô ả lão muốn ra sân, nhưng rồi lão chuồn khỏi nhà, bỏ đi ngủ trong nhà kho của ban cứu hỏa và đến ba ngày sau không thấy đến nhà ông già Yu nữa, Đô Khôcrô biết rằng người đàn bà kia đã làm vợ cho hầu hết mọi người thợ rừng và trở nên rất giàu có. Nhưng lão không muốn mất tiền cho ả, lão không cần đàn bà, vì lão chưa bao giờ biết điều bí mật của họ. Cái tai họa đến với lão từ phía khác.
Vitka Buốcxôi, anh lính cứu hỏa, là một người hiếu động, tốt bụng và ầm ĩ. Ở nhà ăn nhiều lần anh ta kéo Đô Khôcrô ngồi cạnh mình và bỏ tiền mua thịt mời lão. Anh ta nói to và nói nhiều, vừa nói vừa vỗ bàn tay hộ pháp vào lưng lão, vừa ghé sát mặt mình vào mặt lão, thình thoảng anh ta lại im bặt, rót nửa cốc vốtca đưa cho Đô Khôcrô. Ông lão uống hết cốc rượu, rượu làm cho lão có sức mạnh kỳ lạ. Lúc đó Đô Khôcrô cảm thấy lão cũng là một người vui tính, có khi còn vui hơn tất cả mọi người khác. Thế rồi lão hát và nhảy. Mọi người xung quanh cũng vui lây - ở nhà ăn hay ở ngoài đường - đều tốt cả. Một hôm Vitka rót cho lão một cốc đầy. Lúc đầu lão hoảng, chưa bao giờ lão uống một hơi nhiều thế, nhưng Vitka cứ nắm lấy vai lão lắc lắc, nài ép, đưa tận cốc lên miệng lão - thế là Đô Khôcrô nhắm mắt uống ực một hơi. Sau đó hình như lão còn uống thêm chừng ấy nữa, còn sau nữa bao nhiêu thì lão không nhớ. Lão tỉnh dậy thấy mình nằm trên mặt đất sau chuồng ngựa. Chiếc quần đã bị cởi, túi tiền biến mất - có kẻ nào đã cắt mất dây. Lão cứ ngồi sau chuồng ngựa đến tận nửa đêm. Hôm sau lão gặp Vitka, anh này thân chinh đến gần lão và vỗ vai lão. Đô Khôcrô gạt tay anh ta ra, nghiêm mặt nhìn vào đầu gối anh ta, bảo : "Đưa trả tiền đây". Vitka tròn xoe mắt, vung tay thanh minh, sau đó xé toạc áo, lấy nắm đấm đấm vào bộ ngực để trần như muốn đấm thủng nó ra. Lão nhổ nước bọt, đi lên gặp giám đốc Sin để kêu. Ông này nghe xong hỏi lão :
-Có bao nhiêu tất cả ? - ông ta hỏi.
-Nhiều lắm, thưa thầy - Đô Khôcrô đáp.
-Nhưng ước lượng khoảng bao nhiêu ? - Sin lại hỏi. Ông nhìn lên trần nhà ra vẻ quan trọng.
-Rất nhiều …
-Khôcrô này - ông giám đốc chậm rãi nói và cái bụng phệ của ông tì vào bàn làm nó xô đi - Tôi rất thương hại lão. Nhưng nếu lão không cho biết có bao nhiêu tiền thì làm sao tôi có thể làm đơn lên cảnh sát được ?
-Suốt tám năm tôi không mất tiền mua thức ăn. Chỗ than sở cho tôi, tôi bán lại cho người khác. Chỉ có mỗi hai lần tôi phải mua ủng cao su. - Đô Khôcrô kể lể, bàn tay cứ đưa lên quệt nước mắt chảy xuống dưới mũi. Lão đứng trước bàn, nhỏ bé, người co lại, còn thấp hơn ông giám đốc đang ngồi trên ghế.
Ông Sin hơi nheo nheo mắt một cách nghiêm nghị. Ông thở phì phò.
-Lão là người không có học, hơn nữa lại không phải đoàn viên công đoàn - ông đăm chiêu nói, vẫn không mở mắt - May là như vậy, chứ không tôi đã cho lão biết …
Đô Khôcrô xấu hổ quá không khóc được nữa. Lão im lặng, lão không vào công đoàn chỉ vì nghe nói vào đó phải trả tiền.
-Có ai ngu ngốc giữ hết tiền trong người bao giờ ? - bỗng ông giám đốc nói to.
-Thế người ta có trả tôi không hả thấy ? - Đô Khôcrô cúi rạp người hỏi, mặc dù ông Sin không nhìn thấy cử chỉ đó - ông đang ngồi nhắm mắt, đặt cả hai nắm tay lên thành ghế.
-Tiền phải gửi vào quỹ tiết kiệm chứ - ông Sin nói, giọng mệt mỏi như đang ngủ.
-Nhưng tôi không biết cái Quỹ ấy ở đâu - Đô Khôcrô vẫn cúi thấp người, chống chế.
Nhưng ông giám đốc không đáp. Ông đang thiu thiu, đời ông đã có ba hay bốn vợ. Người vợ hiện nay của ông là Laritxa, giáo viên, trẻ hơn Sin hai mươi tuổi. Cô ta không muốn sống với ông nữa, dọa bỏ đi. Vì tội nhiều vợ ít lâu sau Sin bị sa thải. Ông bỏ lên đất liền với người vợ mới - thứ tư hay thứ năm gì đó. Nhưng lúc này ông đang ngồi trong phòng làm việc và đang ngủ. Và ông mơ thấy ông là giám đốc Sin, còn vợ ông, Laritxa, là giáo viên. Mãi lúc sau ông tỉnh dậy, ông thấy trước mặt không còn ai nữa, ông lão đã đi rồi, và Sin lập tức quên ngay chuyện của lão. Ông đang bận tâm về tiền trợ cấp, bệnh trĩ và cô vợ trẻ.
Sau đó Đô Khôcrô mò đến gặp ông lần nữa, nhưng trong phòng ông đang họp, Sin đang thong thả diễn thuyết trước đám thợ mỏ Triều Tiên. Lão ngó vào khe cửa, người ta khoát tay đuổi, lão bỏ đi. Một hôm Sin gặp lão ngoài phố và hỏi tại sao không đến gặp ông ta về cái vụ ấy nữa. Đô Khôcrô không nói gì, đi thẳng. Ông giám đốc ngạc nhiên và giận dữ nhìn theo. Ông không biết Đô Khôcrô đã thôi không làm quét sân cho Sở mỏ và bỏ ra sống ở Camarôn. Ông lão bắt đầu đi hái rong biển và mò ốc biển cho Maxicô.
Lúc đầu sống trên mỏm Camarôn, cứ đêm đến là ông lão rất sợ - biển gào, gió hú, cát bay cả vào cửa sổ. Nhưng Đô Khôcrô lấy gạch cũ đắp thành cái lò sưởi, tìm các ống sắt trên bãi rác, đưa qua cửa sổ ra ngoài - và từ đó sống đã bắt đầu dễ chịu hơn. Ít lâu sau thì một người lạ mặt xuất hiện, anh ta đem lại cho ông lão và Maxicô thêm nhiều việc bận, nhưng cả hai chưa thấy anh làm điều gì khiến họ phải bực mình, giận dữ. Đó là một người Nga đau ốm, trầm lặng. Suốt thời gian sống chung, Đô Khôcrô nói với anh ta không quá mười câu. Anh ta nhìn mọi thứ xung quanh - biển, các quả núi, nhìn ông lão và Maxicô, nhìn cát dưới chân bằng cặp mắt rất lạ lùng. Dường như anh cố muốn hiểu ra điều gì đó, nhưng lại biết rằng sẽ không thể hiểu được điều gì nữa. Lúc mới đến anh ta còn hút thuốc, rít những điếu thuốc moi trong bao thuốc đã rách nát, nhưng hút hết bao thuốc đó anh ta không hút nữa. Anh ta không đòi hỏi gì cả. Đô Khôcrô ăn gì anh ta ăn nấy, đi ngủ để nguyên cả quần áo, thậm chí giày cũng không cởi. Anh ta có một cái đồng hồ, nhưng không thấy lên giây, rồi một hôm, anh ta tháo nó ra, quẳng lên bậu cửa sổ và từ đó không bao giờ sờ đến nữa. Có thể Maxicô cũng biết đôi chút về anh ta, nhưng Đô Khôcrô thì đến tên anh ta cũng không biết, vả lại lão cũng chẳng cần biết làm gì. Đô Khôcrô sống trong hiện tại, nhưng là cái hiện tại huyền ảo đến nỗi nhiều khi quá khứ lại còn sáng tỏ hơn nó nhiều, và lão trở nên hay lẩm bẩm một mình trong miệng như người nằm mơ về quá khứ giữa ban ngày. Nhưng cái quá khứ đối với lão cũng không còn được nguyên vẹn và liên tục, mà dường như được phản chiếu qua những mảnh vỡ của tấm gương thời gian, nên nhiều khi lão không biết cái gì xảy ra trước, cái gì xảy ra sau, vả lại cái đó đối với lão cũng chẳng quan trọng gì.