Đúng vào lúc hai con "Võ Sĩ" của thái tử Đan và "Thuyền Quyên" của Dị Nhân đang giao hợp trong hưng phấn tột độ thì hai nước chư hầu lại tranh giành, xâu xé lẫn nhau như chó điên. Đầu xuân, cuối tháng mười hai năm 260 trước công nguyên, mười vạn đại quân Tần tấn công nước Hàn. Trên đường đi trời đang lúc giá lạnh, mọi thứ đóng băng cứng như đá. Vó ngựa và bánh xe quan Tần đi trên mặt đường, cày mặt băng bắn lên tung toé. Những con quạ đói đậu trên cành cây trơ trụi, thấy vó ngựa quân Tần như nước triều ầm ầm kéo đến liền vỗ đôi cánh đen xì bay toán loạn trên bầu trời, nhanh chóng mất hút. Mười vạn quân Tần thế như chẻ tre, không gì cản nổi. Đối mặt với thế tấn công hùng mạnh của quân Tần, vua Hàn là Hằng Huệ vương ruột như lửa đốt, khiếp sợ vô cùng.
Thám báo liên tục đêm ngày phóng ngựa đến Đô thành, tin thất trận tới tấp đưa đến ngự án của Hằng Huệ vương.
Thiếu Điển thất thủ!
Cao Bình thất thủ!
Cảnh Thăng thất thủ!
Năm 262 trước công nguyên, quân Tần dưới sự chỉ huy của Vũ An Quân Bạch đã tiến vào vùng phụ cận của quân Thượng Đảng. Nhanh chóng công phá thành Dã vương - bức bình phong của Thượng Đảng. Tin này như tiếng sét dội vào khiến Hằng Huệ vương hồn siêu phách lạc. Sau khi thành Dã Vương thất thủ, quân Thượng Đảng giờ như bị cô độc với bên ngoài, trước mặt, sau lưng đều bị công kích. Đất của Thượng Đảng thuộc phía Nam Sơn Tây ngày nay. Khu vực phía đông lưu vực Tẩm Thủy, bố phòng trấn thủ quận ở Hồ Quan. Nhưng đất vốn dĩ của nước Hàn, lại ở phần đông nam Sơn Tây và phần trung của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Quân Tần chiếm được thành Dã Vương liền chia tách quận Thượng Đảng và nước Hàn. Hàn Hằng Huệ vương biết rằng quận Thượng Đảng khó giữ nổi, trong lòng nghĩ chi bằng bó tay dâng cho nước Tần, đổi lấy sự hòa hiếu với Tần. Thế là lệnh cho Dương Thành Quân đem ý chỉ vào Tần, thấy tướng quốc Phạm Tuy yêu cầu cắt đất cầu hòa. Phạm Tuy đi gặp Chiêu Tương Vương, truyền đạt ý của Hằng Huệ vương. Chiêu Tương vương mừng đến nỗi vểnh cả râu, luôn mồm nói: "Hằng Huệ vương cắt đất cầu hòa, xem ra là người biết thời thế!" Phạm Tuy thấy Chiêu Tương Vương vui mừng tột độ liền nhắc nhở: "Đại vương, Hàn Hằng Huệ vương tự động hiến thành là có điều kiện". Chiêu Tương vương không vui hỏi: "Điều kiện gì?" Phạm Tuy đáp: "Sau khi quân Thượng Đảng quy về Tần, quân Tần ngừng tấn công Hàn". Chiêu Tương vương mỉa mai: "Đại tướng quốc của quả nhân ơi! Sao lại thông minh cả đời mà hồ đồ một lúc thế! Trước tiên lấy được Thượng Đảng, rồi sau đó sẽ hay. Hàn Hằng Huệ vương, lẽ nào có thể trói chặt được mười đầu ngón tay của vạn quân của Vũ An Quân!" Sau khi được sự chấp nhận của Chiêu Tương vương, Hàn Hằng Huệ vương thở phào nhẹ nhõm, lại cử Dương Thành Quân đến Hồ Quan truyền đạt với tướng giữ thành là Cận Hoàng Trọng mệnh đầu hàng Tần. Cận Hoàng Trọng là một vị võ tướng anh dũng nghi ngờ việc quân Tần công thành, không chịu nghe triệu lệnh Hàn Hằng Huệ vương. Dương Thành Quân hung hăng dọa nạt: "Cận Thủ Thành, ngài làm quan cao hơn 20 năm, sao lại ngày càng hồ đồ thế! Chống lại quân lệnh, tội không thể tha!" Cận Hoàng Trọng khảng khái nói: "Mọi người thường nói "Khiết bình tam tri, bất thất thủ khí", tức là đã giúp người giữ một bình nước, không thể tùy tiện làm mất, huống hồ ta trấn thủ một vùng đất rộng lớn thế này! Xin Dương Thành Quân bớt giận sự cố chấp của bản tướng, quyết không thể bó tay đem dâng quận Thượng Đảng cho quân Tần lang sói. Thần khẩn thiết xin ngài truyền đạt đến đại vương. Thần nguyện dốc sức chống Tần". Dương Thành Quân cười lạnh lùng: "Thế không phải là lấy trứng chọi đá sao". Cận Hoàng Trọng đầy khí phách nói: "Nếu không chống được quân Tần, thì chết là cùng!" Dương Thành Quân lại nói: "Thường nói, thiên mệnh bất khả kháng, quân mệnh bất khả vi! Ta phụng mệnh, khuyên Cận Thủ Thành hãy nghĩ kỹ hãy hành động!" Cận Thủ Thành không hề nao núng nói "Ý thần đã quyết, dù thế nào cũng không thay đổi, không hối hận". Dương Thành Quân tức giận nói: "Cận Thủ Thành, ta nhắc nhở ông một chút những điều ta nói lúc nãy là triệu lệnh của đại vương!" Cận Thủ Thành rút kiếm chém bể một góc án, trợn mắt nói: "Dương Thành Quân nhanh chóng về kinh thành đi, nếu còn lôi thôi tiếp, sẽ như miếng bàn này đó!" Dương Thành Quân lập cập nói, đi khỏi Hồ Quan chạy miết về kinh thành. Hàn Hằng Huệ vương nghe nói Cận Hoàng Trọng không tuân lệnh, nổi giận lôi đình nói: "Việc cắt đất cho Tần đã nhận lời với Phạm Tuy, nếu không làm chằng hóa ra nói lời nuốt lời sao, thất tín với người. Tên Cận Hoàng Trọng đáng ghét này, làm hỏng việc lớn của Quả Nhân, thật đáng muôn chết. Ngự sử, truyền lệnh quả nhân, triệu Cận Hoàng Trọng về kinh chịu tội!" Dương Thành Quân vội nói: "Đại vương, hai nước Hàn, Yên đang chinh chiến, nếu làm vậy e sẽ gây nên biến ở Thượng Đảng". Hàn Hăng Huệ vương hỏi: "Một tên quan trấn thành nhỏ nhoi, lại dám to gan, không nghe theo lệnh Quả Nhân, nếu không nghiêm trị, chẳng phải sẽ làm gương xấu cho kẻ khác sao? Huống hồ, nếu nước Tần không chiếm được Thượng Đảng, sẽ dấy binh tấn công, kinh thành nước Hàn cũng sẽ bị vó ngựa quần nát!" Dương Thành Quân nói: "Đại vương, tiểu thần có một cách, theo ý thần, chi bằng cử một người thay Cận Hoàng Trọng, chấp hành lệnh của đại vương". Hàn Hằng Huệ vương hỏi: "Người nào có thể gánh vác được nhiệm vụ này?" Dương Thành Quân nói: "Phùng Đình Khả!"
Hàn Hằng Huệ vương nói: "Quả nhân sao không biết người này?" Dương Thành Quân nói: "Đại vương quên rồi sao? Người này đã từng làm quan, là một điển quan tuyệt vời, sau đó làm nhiệm vụ bên ngoài làm huyện lệnh. Ông ta tướng mạo đường hoàng. "Quả nhân nhớ ra rồi, người này được". Phùng Đình đến Hồ Quan vào một buổi sáng đẹp trời. Quân úy thủ thành thấy một người khẳng khiu như ống lửa cho rằng là ngự sử của Hàn Hằng Huệ vương. Đến khi biết Phùng Đình là quân thủ mới đến, thảy đều há mồm trợn mắt. Một người trông bộ dạng yếu đuối, trói gà không chặt thế này, có thể liệu có đủ uy phong thống lĩnh họ chống lại quân Tần được không? Rất nhiều người thấy đôi giầy bé nhỏ của Phùng Đình giắt ở bàn đạp yên ngựa, càng lộ rõ yếu nhược. Phùng Đình nghiêm nghị đi trên phố, nhanh chóng bỏ lại những lời bình phẩm sau lưng, tiến vào sở huyện.
Cận Hoàng Trọng đã cùng các quan lại cung kính chờ đợi nghênh tiếp tại trị Sở. Ông hiểu rõ dụng ý cử Phùng Đình đến của Hàn Hằng Huệ vương, thay ông chấp hành chiếu lệnh hàng Tần. Sau khi Cận Hoàng Trọng bái kiến Phùng Đình, rút kiếm nước mắt chứa chan nói: "Mưu đồ chống Tần giữ đất của ta coi như đã tiêu tan! Trở về, đại vương nhất định không tha cho ta tội chống lệnh; Hàng Tần rồi, quân Tần cũng sẽ trừng phạt gay gắt quân đội do ta thống soái. Đã vậy để ta tự kết liễu đời mình!" Nói đoạn rút kiếm định tự vẫn. Phùng Đình vội tiến đến giằng thanh kiếm trong tay Cận Hoàng Trọng, nói: "Ta nghe nói người tự vẫn sẽ đau đớn vô cùng, hay là để ta thay Thủ Quân thực hiện!" Phùng Đình giơ kiếm, lệnh cho đem đến một chung rượu, để Cận Hoàng Trọng giơ tay lên dùng kiếm rạch một nhát, để cho dòng máu đỏ tươi nhỏ vào chung rượu; sau đó cũng tự cắt tay mình để máu chảy vào. Trong lúc mọi người còn đang không hiểu chuyện gì, Phùng Đình nâng chung rượu lên, nói một cách đầy chí khí: "Bản Quận Thủ nguyện sống chết cùng Hồ Quan, quyết không hàng Tần!" tiếp đó nâng chung rượu uống một ngụm, sau đó đưa cho Cận Hoàng Trọng. Lúc này Cận Hoàng Trọng phấn khởi tiếp lấy chung rượu uống cạn, nói: "Tiểu thần Cận Hoàng Trọng nguyện cùng Quận Thủ đại nhân dù tan xương nát thịt quyết không từ nan!" Sau khi lễ ăn thề kết thúc, Quận Thủ mời Phùng Đình bắt đầu bố trí thủ thành chống Tần. Chiêu Tương vương lúc đầu nghe tin Hàn Hằng Huệ vương cắt đất bó tay xin hàng thì vô cùng vui mừng, mở tiệc ăn mừng cùng văn võ bá quan. Sau đó nghe tin Quận Thủ Phùng Đình chống lệnh, còn thề nguyện sẽ chiến đấu đến cùng. Chiêu Tương vương tức giận vô cùng trước sự nói nuốt lời của nước Hàn, lệnh cho Ngũ An Quân lập tức tăng tốc tiến công Hồ Quan. Ngũ An Quân đem quân đến vây chặt Hồ Quan, sau đó dùng thang tiến công thành từ bốn phía. Phùng Đình không kể ngày đêm luôn túc trực ở đầu thành chỉ huy quân dân trong thành dốc sức chống Tần. Ban ngày, Phùng Đình chỉ cần nhìn xuống dưới là thấy rõ quân Tần dày đặc bốn phương tám hướng. Trong tiếng chuông trống, la ó ầm ĩ, Phùng Đình hô hào chỉ huy quân sĩ trong thời gian dài, đến nỗi giọng khản đặc. Ông hiểu rõ lương thực đã bị cắt. Đường ra vào Hồ Quan đã bị quân Tần chiếm cứ, hown nũa ông đã chống lại mệnh lệnh hàng Tần của Hàn Hằng Huệ vương, sẽ không có bất cứ sự chi viện nào nữa của nước Hàn. Phùng Đình chỉ huy quân sĩ kiên trì thủ thành hơn hai mươi ngày, đẩy lùi hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác. Nhưng lương thảo và củi đốt trong thành Hồ Quan đã cạn kiệt, bắt đầu phải giết ngựa chống đói, dùng xương ngựa làm củi. Một hôm Phùng Đình đang bố trí quân phòng ngự ở đầu thành phía bắc, bỗng có một thiếu phụ đầu tóc rối bù, máu me ròng ròng bất chấp sự ngăn cản xông đến nhảy lên đầu thành quỳ phục trước mặt Phùng Đình, khóc lóc thảm thiết nói: "Tiểu nữ bẩm đại nhân nhà tiểu nữ có ba đứa con trai, con trai út đã bị người đàn ông lòng lang dạ sói đổi cho con trai nhà khác giết thịt ăn rồi, tiểu nữ đến nhà đó tìm con thì nó đã bị nuốt vào bụng bọn chúng từ lâu rồi". Phùng Đình sau khi nghe xong, kinh hãi, trong thành Hồ Quan đã bắt đầu ăn thịt lẫn nhau rồi! Người thiếu phụ đó dùng hai bàn tay run rẩy ôm lấy chân Phùng Đình nói: "Hãy mau cứu hai đứa con của tiểu nữ!" Trước lời thỉnh cầu ai oán của thiếu phụ, Phùng Đình lòng như dao cắt. Ông đỡ thiếu phụ dậy, cắt một ít thịt ngựa đưa cho thiếu phụ. Rồi ra lệnh không ai được ăn thịt lẫn nhau. Nếu ai trái lệnh sẽ bị chặt đầu.
Thế là, tuân theo quân lệnh, được truyền đi nhanh chóng mọi ngõ ngách trong thành. Nhà nhà bếp núc đều tắt, rất nhiều người đói chỉ còn thoi thóp. Quân lính giữ thành, mỗi ngày chỉ được húp hai bát cháo loãng để cầm hơi.
Trông thấy trước mắt chỉ là một đội quân đã mất đi khả năng chiến đấu như vậy, Phùng Đình trong lòng nóng như lửa đốt, liền đi tìm Cận Hoàng Trọng và một số bộ hạ thương lượng, quyết định mang quận Thượng Đảng hiến cho Triệu. Như vậy có thể khiến quân mũi nhọn của nước Tần quay sang nước Triệu, giảm nhẹ được áp lực về quân sự của Tần đối với nước Hàn. Nhân cơ hội mà kết giao với nước Triệu. Hàn Triệu hợp sức lại với nhau cùng đối phó với nước Tần.
Phùng Đình sau khi bàn bạc cân nhắc cùng bộ hạ của mình đã quyết định như vậy. Cận Hoàng Trọng nghi hoặc nói: "Hồ Quan sơn cùng thủy tận như vậy, cùng với Quận Thượng Đảng trong cuộc chiến đã trở thành đám tro tàn. Triệu Lý Thành Vương có dám giơ tay ra hứng không?"
Triệu Lý Thành Vương đứng trước vận may tự nhiên đến, nay cảm thấy lúng túng. Không phí một tân binh nào, cũng không mất một mũi tên nào, tự nhiên chiếm không được mười bẩy thành của Quận Thượng Đảng nước Hàn. Ông triệu tập quần thần lại bàn bạc. Khi vị quân vương cười, bộ mặt càng thêm dài ra. Ông lướt nhìn một lượt quần thần, nói giọng rất đắc ý: "Tên ngu ngốc Hàn Huệ vương nước Hàn này! Cũng không giữ nổi Hồ Quan, lại còn chuẩn bị mang mười bẩy thành ở Quận Thượng Đảng cống cho Chiêu Tang Vương nước Tần. Bọn binh sĩ không muốn theo Tần mà muốn theo Triệu Quốc. Phùng Đình đã phái người đến hiến thành rồi, các người xem làm thế nào đi tiếp nhận chúng đây".
"Đại vương, chúng ta không thể thu nhận Hiến thành của nước Hàn được". Triệu Lý Thành Vương dứt lời không ngờ lại bị Bình Dương Quân Triệu Báo Nhi tâu. Triệu Lý Thành Vương hỏi lại với giọng không vui: "Sao khanh lại nói như vậy?"
Bình Dương Quân Triệu Báo trả lời: "Tôi nghe thánh nhân có nói, đối với những vật vô duyên vô cớ mà đạt được thì nỗi lo sau này là vô cùng".
Triệu Lý Thành Vương hỏi lại: "Quân dân ở mười bẩy thành quận Thượng Đảng ngưỡng mộ nhân đức của quả nhân một lòng muốn theo Triệu Quốc, cam tâm tình nguyên theo ta, làm sao gọi là vô duyên vô cớ được".
Bình Dương Quân Triệu Báo phân tích: "Hồ Quan đã bị quân Tần bao vây hơn một tháng, lương thực đạn dược trong thành đều cạn kiệt, không được tiếp viện. Binh bại thành vỡ, gần đến chỗ tiêu vong rồi. Trong tình hình vô phương cứu vãn mới mang Thượng Đảng dân cho Đại Vương. Miếng mồi ngon đến miệng lại để người khác cướp mất, liệu Chiêu Tang Vương có chịu khoanh tay đứng nhìn không, nhất định sẽ mang quân khiêu chiến với nước Triệu ta. Phùng Đình không phải là có ý tốt mang đất đai dâng cho đại vương, mà là giáng họa cho chúng ta vậy".
Quần thần trên triều, bao gồm cả Thượng Khanh Phổ Tướng và đại tướng quân Liêm Pha đều cho rằng Triệu Báo nói rất có lý, chụm đầu vào bàn tán: "Bình Dương Quân nói rất đúng, rất đúng".
Triệu Báo phân tích kỹ hơn các lợi hại cho Thành Vương nghe: "Ngày nay, nước Tần đang mạnh, khí thế đang lên, bình hùng thế vượng, nước chư hầu nào mà dám chống lại thì như trứng chọi đá là tự tìm đến chỗ diệt vong".
Lúc này Triệu Lý Thành Vương đã bị cái lợi trước mắt làm mê hoặc, bỏ ngoài tai những lời trung nghĩa nghịch tai của Bình Dương Quân, khăng khăng làm theo ý mình nói. "Quả nhân đã dùng đến thiên binh vạn mã, công thành dã chiến bao lâu rồi, đã chiếm được một mũi tên, lại được mười bẩy thành. Nếu các khanh còn lo lắng do dự không muốn thì chẳng phải là ngốc nghếch đó sao? Rồi cười Ha... Ha... thông qua Thượng Khanh Lận tướng.
Lã Bất Vi biết được Triệu Lý Thành Vương chuẩn bị tiếp nhận mười bẩy thành của Quận Thượng Đảng. Lã Bất Vi dò hỏi cặn kẽ tình hình trên triều, thì cho rằng Bình Dương Quân có tầm nhìn xa trông rộng. Lận Tướng lòng vừa buồn vừa lo lắng nói với Lã Bất Vi: "Đại vương tiếp nhận mười bẩy thành quận Thượng Đảng thì nước Triệu sẽ lâm vào tình thế nguy cấp rồi!" Lã Bất Vi hỏi: "Sự việc lẽ nào lại không thể cứu vãn được? Lận Tướng Như nói Triệu Lý Thành Vương nhận của Ngài năm trăm lạng vàng, có cảm tình với Ngài, phiền Ngài vào dùng lý lẽ phân tích lại cho Đại vương một lần nữa. Lã Bất Vi lắc đầu nói: "Tôi thấp cổ bé họng, e rằng đi chỉ tìm thấy cái phiền phức thôi".
Lận Tướng Như nói: "Võ thì chết trận, Văn chết vì lời can gián. Ngài đi gặp Đại vương bàn về chuyện này, tôi nghĩ không thể co nguy hiểm gì đến tính mạng đâu".
Lã Bất Vi nói: "Không có tước vị, cũng không có mưu lược kế sách gì. Tôi chỉ là một thương nhân nước Vệ đến tạm trú ở Hàm Đan, đâu có thể tùy tiện tham gia vào chính trị của nước Triệu được."
Lận Tướng Như nói: "Ngài nói vậy là sai rồi, Ngài buôn bán ở Hàm Đan đã hơn mười năm, cũng coi như là thâm căn cố đế rồi. Nước Triệu có suy thịnh thì tài sản của ngài cũng không suy, nước Triệu mà suy vong thì chẳng phải việc kinh doanh buôn bán của ngài cũng đi xuống sao? Người ta nói, đây là suy thì cùng suy, thịnh thì cùng thịnh. Huống hồ, ngài còn dắt hơn năm trăm lạng vàng chỗ Đại Vương. Một khi Triệu Quốc có điều gì bất trắc, thì năm trăm lạng vàng đó của ngài cũng ra tro bụi sao? Đại Vương đã biết rõ con người ngài, đây chính là lúc ngài tận dụng cơ hội mà phát triển, lẽ nào ngài lại mong cho nước Triệu sa vào bẫy của Phùng Đình giăng ra. Tự đi tìm đến chỗ chết sao?" Kỳ thực, Lã Bất Vi không hề nghĩ như vậy, mấy câu ông nói vừa rồi chỉ là có ý thăm do Lận Tướng Như. Ông muốn biết, lúc phong vân bất biến này, Lã Bất Vi trong con mắt quần thần nước Triệu, có phải là nhân vật quan trọng không. Ông xem ra qua những lời bộc bạch của Lận Tướng Như vừa xong, Lã Bất Vi trong lòng cảm thấy rất mừng: "Ta trong con mắt Thượng Khanh của Triệu Quốc rất được coi trọng".
Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi khiêm nhường nói: "Ý Thượng Khanh đại nhân đã như vậy, thì tôi cũng đến bái kiến Đại vương một chút xem sao". Lận Tướng Như nói: "Phiền ngài nhọc sức đến yết kiến Đại vương Hàn". Lã Bất Vi lần thứ hai lên điện yết kiến Triệu Lý Thành Vương, Triệu Lý Thành Vương đưa mắt chau mày nhìn Lã Bất Vi một cách rất thần bi. Triệu Lý Thành Vương hỏi: "Ngài đến đây là có việc gì muốn dậy quả nhân chăng?" Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân không dám, chỉ là tiểu nhân lo lắng cho Đại vương bận bịu việc triều chính, ảnh hưởng đến long thể, vì vậy mới mạo muội đến quấy quả Đại vương, muốn nói chuyện cùng ngài, mong Ngài nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, để sống lâu muôn tuổi".
Triệu Lý Thành Vương cười rất vui nói: "Vậy được, khanh hãy cùng trẫm trò chuyện đi".
Lã Bất Vi hỏi: "Không biết là đại vương đối với câu chuyện này có hứng thú không?"
Triệu Thành Vương hỏi: "Quả nhân thích nhất là nghe chuyện cười, những chuyện thần thoại như tinh Vệ lấp biển, Nữ Oa vá trời, Thường Nga bón nguyệt, những chuyện ngụ ngôn như: Giữ cây đợi thỏ, Hạ xe lập tội, Trương Quân Lý tái, v.v... quả nhân nghe trăm lần cũng không chán.
"Được, vậy tiểu nhân xin kể cho đại vương nghe một câu chuyện: Vợ chồng nhặt của rơi".
Lã Bất Vi cao hứng kể: "Có một đôi vợ chồng kia vào trong thành, trên đường trở về, nhìn thấy một thỏi vàng người ta đánh rơi. Người chồng cúi xuống nhặt, bị sức nóng của thỏi vàng suýt làm bỏng, nói với vợ: "Đi thôi, thỏi vàng nóng như vậy không lấy được". Người vợ hỏi làm sao. Người chồng nói: "Nóng như vậy, nhặt về không có chỗ để, không biết chừng còn rước họa vào thân". Người vợ nói: "Chàng sao mà nhát vậy, miếng ăn đến miệng còn không dám ăn sao?" Thế là người vợ dùng que gắp thỏi vàng bỏ giỏ mang về. Về đến nhà liền cất vòa cái hũ cẩn thận. Đến giữa canh ba, thỏi vàng phát hỏa thành một mồi lửa, thiêu trụi toàn bộ số tài sản của vợ chồng nhà nọ".
Triệu Thành Vương nghe xong câu chuyện của Lã Bất Vi, cười lớn: "Nhà ngươi thật túc trí đa mưu, ngươi đang châm biếm quả nhân, mang mười bẩy thành ở Quận Thượng Đảng, ví với thỏi vàng phát hỏa, đem quả nhân ví với đôi vợ chồng hám của kia sao?"
Lã Bất Vi hoảng hốt thưa: "Xin đại vương đừng trách tội, tiểu nhân đều nghĩ cho đại vương và nước Triệu mà thôi".
Triệu Thành Vương nói: "Thành ý của khanh rất đáng quý. Quả nhân không thể trách tội khanh được. Khanh có thể chưa biết, quận Thượng Đảng có ba vạn binh, dân binh trăm vạn, đất đai trăm mẫu. Nếu quả nhân không lấy, nhất định sẽ lại về tay Tần quốc, lúc đó đối với nước Tần há chẳng như hùm thêm vậy sao?"
Lã Bất Vi nói: "Thấy vàng phải nhặt, nhưng cần phải đợi, nếu không sẽ bỏng tay".
Triệu Thành Vương nói: "Vàng mà không bỏng tay thì mọi người đều muốn lấy, lúc đó còn đến lượt ngươi không?"
Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân lo rằng, được vàng rồi thì sẽ dẫn đến tự thiêu mình, khiến đội tinh binh nhuệ của nước Tần hướng sang nước Triệu".
Triệu Thành Vương đáp: "Tần quốc không dám tấn công nước Triệu đâu. Vì Tần vương có hoàng tôn là Dị Nhân đang bị áp giải ở Hàm Đan làm con tin rồi".
Lã Bất Vi nói: "Như tiểu nhân được biết thì Chiêu Tương Vương có 24 người cháu, Dị Nhân là một trong những tôn tử bất tài. Tần vương quyết không vì Dị Nhân ở đây mà chịu để mất quận Thượng Đảng về tay đại vương đâu".
Triệu Thành Vương nói: "Ý quả nhân đã quyết, khanh đừng nhiều lời nữa!"
Lã Bất Vi thấy Triệu Thành Vương khăng khăng quyết đoán như vậy, nhất thời không tìm ra lời nào để can gián, trầm tĩnh một lúc.
Triệu Thành Vương cho rằng Lã Bất Vi muốn nhắc đến số vàng năm trăm lạng mà mình mượn nhưng còn ngại do dự không dám nói ra, vì vậy thẳng thắn nói:
"Phải chăng khanh đang lo năm trăm lạng vàng của khanh? Quả nhân cũng nói thẳng với khanh, nếu Quận Thượng Đảng về tay ta bình an vô sự thì ta sẽ hoàn trả lại ngươi. Nếu như thật sự phải giao chiến với nước Tần, sau khi thắng lợi ta sẽ trả ngươi. Nếu bại..."
Không đợi cho Triệu Thành Vương nói tiếp, Lã Bất Vi liền cắt ngang: "Với tài nghệ mưu lược như thần của đại vương, thì nhất định là thắng. Hơn nữa nước Triệu lại có binh hùng tướng mạnh, đồng tâm tác chiến thì đánh đâu thắng đó, quyết không thể bại".
Câu nói này của Lã Bất Vi khiến Triệu Thành Vương rất vui, đắc ý nói: "Nếu quả thật đánh thắng được Tần rồi, ngoài năm trăm lạng vàng này ra, quả nhân còn ban thưởng thêm cho ngươi mỹ nữ và xe ngựa nữa".
Lã Bất Vi nói: "Đa tạ đại vương".
Lã Bất Vi bước thấp bước cao xuống mấy bậc đá ở trước cửa Tùng Đài, chiếc lá từ trên mái rớt xuống cắm vào lưng ông khiến ông đau nhói. Ông cảm thấy mồ hôi đổ ra ướt đầm, ông bình tĩnh lại, ngồi nghỉ một lúc. Đến lúc này, ông mới biết mình đã đổ rất nhiều mồ hôi. Trước vẻ uy nghiêm của Triệu Thành Vương, áp lực to lớn đã khiến ông quên đi sự sợ hãi. Rời khỏi đại điện rồi, ông mới bắt đầu thấy hoảng sợ. Mình đã ví Triệu Thành Vương với người vợ tham của, thật là gan to hơn trời. Thật kỳ lạ, vị hoàng thượng này lại không hề giáng tội Lã Bất Vi vì đã xuất ngôn phạm thượng. Ánh mặt trời chói chang chiếu rọi cả cung điện. Lã Bất Vi cảm thấy màu son đỏ tươi làm chói mắt trên cột trụ cung điẹn kia như tràn đầy sức sống. Lã Bất Vi đột nhiên nghĩ cột trụ này có thể giữ được dây cương của chiến mã quân Tần không? Nghĩ đến đây khiến ông thất kinh bởi ý nghĩ không lành này của mình.
Lã Bất Vi biết, Triệu Thành vương một khi cử người đi tiếp nhận mười bẩy thành của quận Thượng Đảng, thì Triệu Tần sẽ xảy ra một trận chiến tranh long trời lở đất. Lã Bất Vi ra khỏi điện Tùng Đài với tâm trạng u uất liền đánh xe ngựa đến thẳng phủ Thượng khanh.
Lận Tướng lắng nghe từng câu mà Lã Bất Vi đã tâu với đại vương lúc yết kiến xong, thì thở dài than một cách rất đau buồn: "Nước Triệu đã đến ngày diệt vong rồi".
Mấy hôm nay, Lã Bất Vi lo lắng đứng ngồi không yên. Trước đây thì ông lo đêm lo ngày sợ vật cầm cố mà ông ký giao kèo với Triệu Quỷ Tử rơi vào tay quan phủ - từ sáng đến tối mất ăn mất ngủ không để tâm đến chuyện gì khác. Sự lo lắng này dần dần nguôi đi thì lại xảy ra việc Triệu Thành vương tiếp nhận Thượng Đảng, mang đến cho ông hết cái lo này tiếp cái lo kia. Năm trăm lạng vàng của ông, và cả cái tiệm vàng bạc đá quý "Long Xương Xương" kiaa, ông đều đổ vào chỗ Triệu Thành vương hy vọng thăng quan tiến chức, lẽ nào lại chỉ trong phút chốc tiêu tan theo mây khói.
Mỗi lần Lã Bất Vi suy tư ngổn ngang trăm mối trong lòng ra khỏi cửa là bọn Hoàng Phủ Kiều, Triệu Cơ, Tư Không Mã, Dương Tử và vài kẻ môn khách nô bộc trong nhà lại liếc nhìn nhau dò hỏi: "Lão gia nhà chúng ta làm sao vậy?"
Khi Lã Bất Vi quay về phủ mình, mọi tâm sự như thế hiện rõ trên khuôn mặt, môi mím chặt, bọn nô bộc, thuộc hạ cất lời chào, ông cũng không để ý, chỉ hừm một tiếng, khiến nhiều kẻ đã cảm thấy e ngại.
Lã Bất Vi bỏ bễ những công việc thường ngày như kê khai sổ sách, bàn chuyện mà tiêu hao thời gian vào việc ngồi trâm tư trong thư phòng. Ông ngồi bất động trước thư án, đưa ánh mắt xa xăm nhìn ra ngoài cửa sổ, bầu không khí trong lành như dồn về phía ông. Mây quang trời tạnh, tỏa khắp muôn nơi, mây bay trên cao lúc tụ lúc tản. Những án mây muôn hình đa dạng.
Bất giác ông liên tưởng ra những hình dạng kỳ quái như núi, cây, người,... Ông cũng không đếm nổi những áng mây, ông suy nghĩ về con đường của mình, ông tự nhủ với lòng mình: "Lã Bất Vi, sự việc xảy ra như ngựa đi trên tuyết vậy, có thể thấy rõ. Nước Triệu mà tiếp nhận quận Thượng Đảng của nước Hàn, thiên binh vạn mã của quân Tần sẽ tiến sang đoạt lại, đại vương sẽ điều binh đi cố thủ. Thế là máu chảy thành sông, cuộc chiến Tần Triệu mà kết quả là thây chất thành núi sẽ nổ ra". Tình thế của quận Thượng Đảng đã phát triển theo đúng phán đoán như thần của Lã Bất Vi.
Triệu Thành vương sai Bình Nguyên quân Triệu Thắng tiến vào Hồ Quan, tiếp nhận quận Thượng Đảng. Lúc này Tần Triệu chưa nảy sinh giao chiến, quân lính vây thành của quân Tần trông thấy chú của Triệu Thành vương là Bình Nguyên quân Triệu Thắng đều để yên.
Sau khi Triệu Thắng vào thành, liền đến doanh trại của quân cố thủ thành, ban thưởng cho những quân dân anh dũng giữ thành, và ban bố với trăm họ trong thành "Ba mươi vạn hộ do Phùng Đình quản lý ở Thượng Đảng, phong thưởng huyện lệnh đất đai nghìn hộ, Chư Sử ban thưởng tặng ba cấp quan. Dân trong thành phàm là những ai có thể giữ thành đều ban cho sáu lạng bạc, và vận chuyển lương thảo từ Hàm Đan sang tiếp viện.
Quận thủ Phùng Đình khấu đầu tạ ơn Bình Nguyên quân Triệu Thắng thưa: "Hạ quan có ba điều bất nghĩa, không dám nhận sự ban thưởng của Bình Nguyên quân".
Triệu Thắng hỏi: "Phùng đại nhân có công giữ thành, quy về Triệu vương nhân đức, sao lại nói là phạm ba điều bất nghĩa".
Phùng Đình nét mặt xấu hổ đáp: "Hạ quan đúng là phạm ba điều bất nghĩa, không thể chết để bảo vệ được thành là điều bất nghĩa thứ nhất, Hàn vương lệnh cho hạ quan giao thành cho nước Tần, nhưng hạ quan lại kháng lệnh quy về nước Triệu, là điều bất nghĩa thứ hai, hạ quan là mệnh quan của nước Hàn mà đem đất đai của nước Hàn dâng cho nước khác mà lại nhận sự ban thưởng là điều bất nghĩa thứ ba".
Những lời nói chân thành của Phùng Đình khiến Triệu Thắng rất cảm động, nói: "Phùng đại nhân có khí tiết cao cả như vậy, không thể tính là có tội, nhất định phải chỉ huy quân dân kiên trì cố thủ Hồ Quan".
Phùng Đình nói: "Kẻ bất nhân bất nghĩa khó mà phục tùng. Có điều bất nghĩa thứ nhất, không thể làm tướng, phạm điều bất nghĩa thứ hai thì không thể làm quan. Nay hạ quan phạm ba điều bất nghĩa trên, không còn mặt mũi nào làm quận thủ nữa rồi. Xin Bình Nguyên quân chọn người hiền đức khác thay hạ quan!" Phùng Đình nói xong, liền bỏ áo quan, lấy ấn tín giao lại Triệu Thắng. Cho dù Triệu Thắng níu kéo, thuyết phục thế nào, Phùng Đình kiên quyết không ở lại và thỉnh cầu: "Triệu Thắng Bình Nguyên quân đã vào Hồ Quan rồi, nhân dân Thượng Đảng cũng đã phục, tôi không có gì lo lắng nữa. Xin cho phép tôi ra khỏi thành, ẩn tích nơi thôn dã".
Bình Nguyên quân Triệu Thắng sau khi gạt lệ tiễn biệt Phùng Đình, cử Cận Hoàng Trọng làm quận thủ, bố trí quân đội trong thành. Thay những lá cờ thêu "Hàn" và "Phùng" đã bị rách tả tơi bởi tên, đạn bằng lá cờ mới thêu chữ "Triệu" và "Cận". Thống lĩnh quân Tần là Võ An quân ở ngoài thành lúc này mới vỡ lẽ, trông thấy cờ hiệu mới cắm trên thành Hồ Quan, mới biết được là quận Thượng Đảng đã rơi vào tay Triệu. Nhưng nếu khiêu chiến với Triệu, còn phải có chiếu mệnh của Chiêu Tương vương. Chiêu Tương vương khi biết miếng mồi ngon đến miệng lại bị rơi vào tay kẻ khác, vô cùng tức giận, liền hạ chỉ lệnh cho Võ an quân làm đại tướng quân, Ngũ đại phu Vương Linh làm phó tướng, tấn công Thượng Đảng.
Nước Triệu quả nhiên là đã rước họa vào thân. Quân Tần với thiên xa vạn mã, cờ xí tung bay ầm ầm tiến về phía Thượng Đảng như nước lũ. Số binh lính của Triệu cố thủ ở Thượng Đảng rất ít, thêm vào đó số quân Hàn cũng không bằng một phần mười số quân Tần. Quân Tần lấy thanh thế dễ dàng đè bẹp quân địch hướng Thượng Đảng tiến công. Quân Triệu bị đẩy lùi đến Trường Bình, thì phái người về xin Triệu Thành vương tăng viện.
Triệu Thành vương liền phong Liêm Pha làm chủ soái, thống lĩnh bốn mươi vạn đại quân, rầm rầm đến Trường Bình chi viện cho quân Triệu. Liêm Pha dùng kế sách "Giữ thành không chiến, lấy sức nhàn chống lại quân địch mệt mỏi" nhằm tiêu hao sức lực quân Tần. Quân Tần từ xa đến, đã mệt mỏi rồi. Sẽ rất bất lợi nếu quân Triệu quyết giữ thành đợi cho lương thực của quân Tần tiêu hao, hơn nữa một số binh lính của Tần không thích hợp với môi trường này nên bắt đầu sinh bệnh. Chiêu Tương vương thấy nếu tình hình cứ kéo dài như vậy sẽ gây bất ổn với quân đội Tần, liền sử dụng kế ly gián của Phạm Thư, phái Gian Điệp Huề mang nghìn lạng vàng, hối lộ cho cận thần của Triệu Thành vương và rêu rao rằng: "Liêm Pha quá già, không đủ sức lực để chỉ huy quân Triệu, đâu có dám giao chiến với quân Tần! Nếu như Triệu Quát trẻ tuổi dũng mãnh đi, thì đã sớm đánh cho quân Tần thất bại tơi bời rồi" Triệu Thành vương vốn đã thấy không vừa ý với kế sách "cố thủ không đánh" của Liêm Pha, nay lại nghe lời đàm tiếu như vậy, quyết định lệnh cho Liêm Pha hồi cung, phong Triệu Quát làm thống soái chỉ huy quân Triệu chống Tần.
Đừng xem Triệu Quát chỉ có hai mươi hai tuổi, nhưng gia thế nhà hắn thì lại có danh tiếng và lâu đời như mặt trời ở thành Hàm Đan này. Cha hắn, Triệu Xa nguyên là quan Điền bộ sử ở nước Triệu, phụ trách công việc trưng thu thuế đất, tài hoa cái thế của ông ta không được phát huy, chỉ là ngồi ngày ngày tính sổ sách. Sau đấy quen thân được với em của vua là Triệu Thắng, được tiến cử với Triệu Huệ Văn vương. Triệu Huệ Văn vương giao cho ông ta quản lý thuế má trong cả nước, ông ta làm rất xuất sắc. Năm đó, quân Tần tấn công nước Hàn, đội quân Hàn bị kẹt ở Yên Dư, lúc đó nước Hàn cầu cứu nước Triệu đem quân tăng viện, Triệu Huệ Văn vương phái Triệu Xa làm chủ soái, đem quân đi cứu viện. Kết quả là quân Triệu đã thắng lợi, quân Tần bị đại bại ở Yên Dư. Khi khải hoàn trở về, Triệu Huệ Văn vương phái Triệu Thắng cùng văn võ bá quan nổ trống đón ở cổng thành Hàm Đan. Huệ Văn vương rất ca ngợi Triệu Xa, ban cho hiệu "Mã Phục Quân", phong cho Kỳ Lam viên rộng ba trượng khiến nhiều hoàng thân quốc thích trong hoàng tộc cũng phải ghen tị. Ngoài ra còn ban cho rất nhiều vàng bạc gấm vóc, lương thực kiếm cung. Phu nhân của Triệu Xa, là người nhân hậu, biết nhìn xa trông rộng, nói với chồng đang rất vui mừng đắc ý: "Tiền bạc chỉ là thứ phù phiếm bên ngoài, không thể sinh sôi trong nhà họ Triệu được. Phu quân nếu một mình hưởng thụ hoang phí, thì sẽ tổn hại đến thân, hơn nữa kẻ khác lại đem lòng đố kỵ. Chi bằng hãy mang ban phát cho quân lính thuộc hạ, những vật này coi như mọi người cùng hưởng, có thể quân lính sẽ phục phu quân, quyết một lòng sống chết cùng chàng". Triệu Xa nghe theo lời nhân nghĩa của vợ, mỗi lần Đại vương Triệu Huệ Văn vương ban thưởng cũng đem ra ban cho thuộc hạ dưới quyền. Do đó, tiếng tăm công đức yêu quân như con của Triệu Xa lan rộng khắp thành Hàm Đan, lừng lẫy Triệu quốc. Triệu phu nhân không chỉ bày kế làm rạng danh cho chồng, mà còn sinh cho Triệu Xa một nhi tử thông minh lanh lợi, Triệu Xa rất hy vọng vào đứa con này, ông mong con trai mình sẽ thành một khanh tướng tài giỏi xuất chúng trong đám bá quan, vì vậy đặt tên là "Triệu Quát". Triệu Quát ngày một trưởng thành, nhưng lại phát triển không như Triệu Xa mong đợi. Triệu Quát từ nhỏ đã thích nghiên cứu sách binh pháp, thích bàn về chiến lược, nhưng một chút kinh nghiệm thực tiễn đối địch lại không có. Mỗi lần đàm đạo về cách dùng binh, đều giảng lưu loát, thao thao bất tuyệt không ngơi, đâu đâu cũng là đạo, không ai bì kịp. Lúc đó mọi người đều ví phong thái của Triệu Quát là "đàm luận binh pháp trên giấy", "nói suông" mà không hề có thực.
Triệu Thành vương nghe nói vị công tử này rất giỏi giảng binh pháp liền triệu vào cung để thử, không ngờ bị Triệu Quát làm lóa mắt trước tài nghệ thuyết giáo về binh pháp của mình, Triệu Thành vương khâm phục vô cùng, nói: "Thật đúng là Cao Tàng, Tôn Vũ tái thế". Triệu Thành Vương nghĩ đến cử Triệu Quát đi thay Liêm Pha, thì đúng là khiến quỷ thần cũng phải bại.
Sau đó, vì sự kiện Triệu Quát được phong làm chủ soái thay Liêm Pha đã làm náo động cả kinh thành Hàm Đan, nhân dân trong thành đều biết rằng Triệu Thành vương đã mang bốn mươi vạn quân giao cho Triệu Quát, một thằng nhãi "hỷ mũi chưa sạch", chưa hề biết giao chiến là gì mà đều cảm thấy kinh hoàng.
Triệu phu nhân, mẫu thân của Triệu Quát có linh cảm như sắp có đại họa giáng xuống đầu, vội đi yết kiếm Triệu Thành vương, dập đầu cầu xin không ngớt: "Xin đại vương thu hồi mệnh lệnh, đừng để con trai của tôi làm đại tướng, thống lĩnh binh mã của nước Triệu."
Triệu Thành vương nói rất nghi hoặc: "Triệu phu nhân, bà làm mẹ nhưng lại thật là kỳ lạ. Những bà mẹ khác khi thấy con trai mình được phong hầu phong tướng đều rất sung sướng hãnh diện, vậy sao bà lại buồn rầu đau khổ, hơn nữa còn cắt đứt cả đứa con mà mình đã rứt ruột đẻ ra?"
Triệu phu nhân nghẹn ngào nói: "Tôi đều lo nghĩ cho đại vương, cho nước Triệu. Khi phu quân tôi còn sống đã từng nói: "Đứa con này nói về binh pháp trong chiến tranh thì giống như rồng bay phượng múa, nhưng không hề có kinh nghiệm bản lĩnh, một ngày nào đó mang quân đi chiến đấu thì nhất định sẽ làm tổn hại đến quân đội nước Triệu ta." Nó và phu quân tôi hoàn toàn khác biệt. Triệu Xa khi tại thế, đối với thuộc hạ dưới quyền rất gắn bó, thân thiết như cá với nước vậy. Đại vương ban thưởng cho ông ấy vàng bạc châu báu, đồ ngon của lạ, ông ấy đều ban phát cho thuộc hạ cùng hưởng. Một khi nhận được lệnh của Đại vương thì đều dốc hết tâm lực báo đáp, không hề để ý đến việc nhà. Tiểu tử lại không được như vậy, vừa mới được phong làm đại tướng quân, đã dương dương tự đắc, không ai bằng, đối với bọn thuộc hạ thì nghênh ngang, không hề quan tâm. Đại vương ban cho nó vàng bạc, nó đều mang về nhà, mua đất đai ruộng vườn, chỉ tính toán cho riêng mình. Xem ra bọn thuộc hạ dưới quyền đều không can tâm tình nguyện theo nó. Tôi một lần nữa xin khẩn cầu Đại vương, thu hồi mệnh lệnh, đừng để tiểu tử đem binh đi!"
Triệu Thành vương nói: "Ý quả nhân đã quyết, không thể đổi được rồi." Triệu phu nhân nói: "Nếu Triệu Quát có làm điều gì sai trái, xin Đại vương cũng đừng trừng phát liên lụy đến cả nhà chúng tôi."
Triệu Thành vương đồng ý.
Triệu phu nhân cáo biệt Triệu vương quay về, trong lòng rối bời, bắt đầu dự tính hậu sự cho mình, phải bán "Kỳ Lâm Viên" làm chi phí mai táng cho mình theo chồng là Triệu Xa. Lúc đó nghe nói Lã Bất Vi là người giàu có, liền tìm đến cửa ông ta.
Lã Bất Vi vừa trông thấy một phu nhân đầu tóc bạc phơ đã nhận ra ngay là ai rồi.
Triệu phu nhân đang định giới thiệu mình, Lã Bất Vi đã vội vàng cung kính hỏi: "Dám hỏi Lão phu nhân có phải là mẫu thân của Triệu Quát không?"
Triệu phu nhân vui mừng nói: "Ngài có thể nhận ra ta, thật là vinh hạnh."
Lã Bất Vi nói: "Triệu phu nhân ở thành Hàm Đan này, tiếng tăm nhân đức tài mạo lừng lẫy ai mà không biết."
Triệu phu nhân nói: "Ngài quá khen rồi, tôi hôm nay đến là có chuyện cần giúp, tôi muốn bán phong ấp "Kỳ Lâm Viên", không biết ngài có ý định mua chăng?"
Lã Bất Vi nói: "Theo tôi biết, Kỳ Lâm Viên là miếng đất quý, phong thổ đều tốt, rất nhiều người mơ ước có nó mà không được, Đại vương đã ban cho Mã Phục Quân, lẽ nào đường đường là phu nhân Mã Phục Quân, phu nhân lại túng bấn vậy sao? Hơn nữa lệnh lang lại được Đại vương tin dùng, giao cho thống lĩnh đại quân nước Triệu, chức cao lộc hậu, tiền bạc đầy kho."
Triệu phu nhân nói: "Ngài nói như vậy, tôi không còn chỗ nương thân rồi. Mã Phục Quân khi còn tái thế, giữ gìn phép tắc, thanh liêm chính trực trong nhà không hề có tích trữ của cải, có lẽ tôi cũng sống không được lâu nữa, sẽ hội ngộ phu quân tôi dưới cửu tuyền, muốn có một ít tiền để xây lăng mộ sau này."
Lã Bất Vi nói: "Tôn phu nhân tinh thần minh mẫn, sức khoẻ dồi dào, làm sao lo liệu hậu sự sớm như vậy?"
Triệu phu nhân nói: "Ngài không biết đó thôi, có lẽ họ Triệu nhà chúng tôi sắp có đại họa rồi."
Lã Bất Vi mỉm cười nói: "Tôn phu nhân nói vậy khiến người ta kinh ngạc, khắp nơi xa gần chư hầu đều biết gia thế và tài đức của Triệu Xa."
Triệu phu nhân nói: "Ngài chỉ biết một mà không biết hai." Sau đấy đem những điều uẩn khúc trong lòng buồn rầu tâm sự với Lã Bất Vi. Triệu phu nhân nói một hồi, việc này khiến Lã Bất Vi không ngờ tới, một là ông chỉ nghe Triệu phu nhân là người hiền đức nhưng không ngờ phu nhân lại là người đại nhân đại nghĩa, sáng suốt lo cho dân cho nước như vậy, hai là ông cũng nghe Triệu Quát làm đại tướng quân sẽ làm tổn hại đến nước nhà. Nhưng hiểu con không ai bằng mẹ. Triệu phu nhân đã tiên đoán được kết cục của con mình và quân Triệu khiến ông bàng hoàng kinh ngạc.
Triệu phu nhân nói tiếp: "Đêm qua tôi có nằm mơ, cả một vùng hoa đào đua nhau nở đỏ như lửa, tôi đã đi hỏi người giải mộng, nhân nói hoa đào là tượng trưng cho máu, họ Triệu nhà tôi sẽ bị hủy diệt trong biển máu, tôi cảm thấy họa đã ở gần kề, không thể chần chừ được nữa. Trong lúc vẫn bình an vô sự này, mau chóng bán "Kỳ Lâm Viên" lo liệu hậu sự, nếu không sẽ chết không chỗ dung thân. Tôi khẩn cầu ngài mở lòng giúp đỡ."
Lã Bất Vi nói: "Phu nhân đã một lòng vì nước vì dân, đến trời cũng cảm động, nhất định dữ hóa lành, quyết không thể xảy ra cái họa lớn như vậy được, xin phu nhân hà tất nghĩ sự việc lại thê thảm đến thế, cũng hà tất phải bán "Kỳ Lâm Viên"."
Triệu phu nhân nói: "Lẽ nào đại nhân lại keo kiệt hay sao, không muốn giúp đỡ một người đàn bà sắp bị họa giáng xuống đầu như tôi?"
Lã Bất Vi nói: "Phu nhân quá lời rồi! Bao nhiêu tiền bạc ngọc ngà châu báu cũng không sánh được với khí tiết thanh cao nhân nghĩa của phu nhân. Chi bằng phu nhân đã quyết định như vậy, tôi có chút lòng thành xin biếu ít bạc năm mươi lạng, để giải nỗi phiền cho phu nhân. Còn Kỳ Lâm Viên xin phu nhân cứ giữ lại để phụng dưỡng tuổi già, thiên niên vạn thọ."
Lã Bất Vi nói xong, lệnh cho người mang ra năm mươi lạng bạc, mang đến Triệu phủ, Triệu phu nhân vội ngăn nô bộc của Lã Bất Vi lại, nói với Lã Bất Vi, bà quyết không thể không có công lại hưởng lộc được.
Lã Bất Vi nghĩ một lúc rồi nói: "Thưa phu nhân, phu nhân xem như vầy có được không? Nếu nhà họ Triệu vẫn bình yên vô sự, Kỳ Lân Viên vẫn thuộc về chủ cũ, nếu một khi gặp phải bất trắc, cần bán, thì tôi xin mua lại cho phu nhân, những về giá cả phu nhân đã định cả rồi thì chúng ta nên viết trước bản giao ước."
Triệu phu nhân nói: "Được, cứ như vậy, việc này tôi đã quyết rồi."