chương 14 tiếp
. Lần đầu tiên bước vào phòng riêng của bà, Bảo Thư kinh ngạc, đồ dùng, vật dụng thật đơn sơ, chăn gối của bà toàn là loại vải vóc của hàng dân dã, trang sức châu ngọc hầu như chẳng có. Bảo Thư càng yêu kính bà vô ngần, nàng ôm lấy bà, khóc và nói:
- Bà ơi, sao bà giống mẹ con đến thế! Những người thân yêu của Ngoại tổ đều giống nhau, cớ sao... cớ sao...
Vương phi vuốt tóc Bảo Thư:
- Mỗi người mỗi cách sống con ạ! Ngoại tổ con đối với gia đình rất tốt, nhưng... thôi Bảo Thư ạ! Cầu xin Trời Phật độ trì Bảo Thư, sao con cũng giản dị thế?
- Con lớn lên ở nơi sơn cước, chứ có phải ở chốn cung đình đâu. Bà ở chốn cung đình, Bà và A Di giữ được đức tính giản dị ấy mới thực là khó lắm!
- Ta về đây đã mười sáu năm, ta có biết cung đình, cung chùa gì đâu. Ta quanh quẩn như chiếc bóng, thỉnh thoảng mới ra ngoài lên chùa lễ Phật, thăm hỏi dân chúng, giúp đỡ người khốn cùng, xoa bớt được phần nào trong muôn một nỗi đau khổ của họ. Con có thích đi chùa không? Trúc Viên tự đẹp lắm, những vị sư nữ ở chùa này rất đạo hạnh. Hôm nào chúng ta đi nhé?
- Vâng, con thích lắm. A Di có đi không?
- Có đấy nó có vẻ thích đi tu, nhưng tinh anh phát tiết, ta e rằng sau này nó cũng truân chuyên con ạ!
- Tính tình A Di hợp với con lắm, có điều A Di nói là không thích học võ, con bảo A Di nên luyện tập võ nghệ cho cứng cáp, có sức khoẻ để chịu đựng được nghịch cảnh. Thời thế, vận hạn biết thế nào được!
- Ta cũng bảo nó thế con ạ. Nhưng lính tình A Di con đến con sâu cái kiến mà không dám giết thì làm thế nào cầm kiếm được!
- Bà ơi, con sâu, cái kiến thì không nỡ giết, nhưng con người độc hơn ác thú, nhiều khi vì đời mà phải giết đi đấy, Bà có nghĩ vậy không?
Vương phi trầm ngâm thở dài, một lúc nói:
- Có nhân tất có quả con ạ !
Một hôm Bảo Thư sang Vân Trang cung thăm Hoài Nam, thấy nàng đang thêu một chiếc khăn tay bằng lụa bạch, có một vầng trăng khuyết và đám mây vờn nhẹ, Bảo Thư hỏi:
- Hoài Nam, thêu khăn làm gì mà đẹp thế?
- Hoài Nam thêu tặng Bảo Thư đấy!
- Sao Hoài Nam lại thích vầng trăng khuyết lạnh lẽo vậy?
- Hoài Nam cũng không biết nữa...
Một cánh bướm màu vàng nhung điểm những chấm hồng nhạt đập nhẹ đôi cánh mỏng bên những đóa hoa nở bừng trên một cành cây cách mặt đất không cao lắm, Bảo Thư ra ngoài thềm, nàng tung người vút lên chộp lấy con bướm, thân pháp tuyệt đẹp. Bọn thị nữ rối rít khen ngợi:
- Công nương võ công tuyệt quá, cao siêu quá...
Riêng Hoài Nam nhìn Bảo Thư đăm đăm:
- Bảo Thư học võ từ bao giờ vậy?
- Từ ngày Bảo Thư lên sáu, lên bảy. Hoài Nam! Bảo Thư muốn Hoài Nam luyện võ để có sức khỏe, cơ thể khỏe mạnh dẻo dai, tinh thần mới thanh thoát được!
- Luyện võ để đâm chém nhau, Hoài Nam sợ lắm!
- Hoài Nam này, luyện võ công, thứ nhất để bảo vệ chính mình, thứ hai để cứu đời, che chở cho người bị ức hiếp...
- Người ta đàn áp mình, mình lấy điều phải mà nói, thì ai chẳng phải nghe!
- Nếu người biết nghe điều phải thì còn nói làm gì! Nếu họ đã có ý làm điều ác vì tham sanh, tham lợi, tất nhiên họ sẽ không biết nghe điều phải!
- Thì... thì mình cố mà cảm hóa họ!
- Muốn cảm hóa được một người mà bản chất là hung ác, phải có rất nhiều điều kiện chứ chằng phải là cứ nói lời phải mà được, đôi lúc phải dùng đến võ lực nữa...
- Thôi, đánh đập người ta, Hoài Nam chịu thôi!
Nhưng rồi Hoài Nam cũng chìu lòng Bảo Thư, hàng ngày để Bảo Thư luyện cho, dần dần ham thích nên luyện tập chuyên cần. Nàng thông minh, dạy một biết hai, Bảo Thư hết lòng truyền thụ , nàng tiến bộ mau chóng.
Một hôm, Bảo Thư và Hoài Nam đang say mê luyện võ thì Quang Minh Pháp Vương tới bất thần, nhìn thấy con, cháu thương yêu nhau, ông vui vẻ ôm lấy hai nàng:
- Các con làm cho ta hài lòng lắm. Các con là nguồn an ủi lớn nhất của ta. Bảo Thư, con làm thế nào mà khiến được A Di con chịu luyện võ như vậy, ta từng khuyên bảo thế nào A Di con cũng nhất định không nghe. Hôm nay là ngày ta không phải bận rộn, ta sẽ truyền cho các con môn thân pháp, gọi là Vân Trung Vi Bộ, dù các con địch thủ cao cường đến mấy cũng không làm sao kềm chế các con được.
Nói xong, Dương Vương dạy khẩu quyết, chỉ dẫn bộ vị, cách biến hóa di hình, cách điều tức định thần, ông nói:
- Trong võ công, cái lớn nhất là an thần, định vị; vì có an được thần, định được ý, hợp được tâm mới phát sinh thần lực kỳ tích!
Từ hôm đó, ông thường đến chỉ dẫn cho hai cô gái cách tọa công luyện thần, khí, để phát huy nội lực, đến chỗ phát sinh đại định để tiến đến thần lực.
Từ ngày có Hoài Nam bên cạnh, Bảo Thư tạm lắng đi nổi buồn đau, thương nhớ Nguyên Huân. Nhưng những đêm khuya khoắt trằn trọc, những buổi chiều nắng nhạt mênh mang, Bảo Thư cảm thấy nổi buồn của cõi lòng cô quạnh. Hình ảnh Nguyên Huân đầy trong trí tưởng, nỗi nhớ đầy ắp tâm hồn nàng, "Nguyên Huân, bây giờ chàng nơi nào? Có biết em vò võ nhớ thương, có biết em khắc khoải năm canh xót lòng mong đợi.."
Một lần Hoài Nam tình cờ bắt gặp Bảo Thư ngồi buồn bã, và trên khuôn mặt nhạt nhòa nước mắt, Hoài Nam không dám hỏi, nàng đem việc ấy kể với mẹ, Vương phi nói:
- Mỗi người vẫn có những nổi buồn riêng con ạ!
Nói xong bà thở dài, đôi mắt đăm đăm nhìn về phương xa, nơi có những đám mây trắng lững lờ, lòng ngậm ngùi...
Cho đến một ngày kia, bà giật mình khi nghe Bảo Thư ngâm nga một lời thơ:
Qua cầu, ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu.
Qua đình, ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu...
Bảo Thư phát âm tiếng Việt còn lơ lớ, nhưng trong lòng bà bỗng dưng như dao cắt. ôi, những lời ca dao vời vợi của một nơi chốn đã xa vời ... Đêm ấy, bà trở bệnh.
Dương Vương cho vời danh y tới, vua Thành Tổ nghe tin phái quan Thái y đến thăm bệnh cho Vương phi. Hoài Nam buồn bã quấn quít bên mẹ ngày đêm, lòng nặng nề lo sợ. Bảo Thư chỉ thấy bà nằm im, mắt đăm đăm nhìn vào đỉnh màn, đẩm lệ ; nàng đoán bà có tâm sự gì u uất lắm. Nỗi đau đớn theo ngày tháng tưởng chừng đã nguôi ngoai, nào ngờ nghe được tiếng lòng của quê hương, đã trỗi dậy niềm thương nhớ cũ . .
Một hơi thở nhẹ lan trên má, Vương phi mở mắt, Hoài Nam đang nghiêng người trên mặt mẹ, nét mặt lo lắng u sầu, Vương phi chợt nhận ra Hoài Nam có phần hao gầy; Vương phi tự trách lấy mình đã đem đến nổi âu lo cho con. Chính vì Hoài Nam mà bà đã sống, chính vì Hoài Nam mà bà đã cam chịu mọi điều, "ta còn gì nữa, đau đớn nào ích chi."
Từ đó bà cố gượng, cố vì Hoài Nam mà trỗi dậy, và căn bệnh của bà bỗng dưng thuyên giảm. Dân Kinh thành nghe tin Vương phi bệnh, bá tánh và chùa chiền đều tổ chức cầu an cho bà, trong lòng mọi người, không ai là không yêu thương, kính trọng bà. Bà như vị Bồ Tát đến với họ, cho họ niềm an ủi, là vị Vương phi hiền đức mà họ không hề dám trông đợi từ giai cấp sang cả, uy quyền. Bởi vậy, khi biết tin bà khỏi bệnh, niềm vui như nở bừng trong lòng mọi người.
Một hôm, bà cho người gọi Bảo Thư đến, bà hỏi nàng:
- Con có nhớ hôm nào, con có ngâm một bài thơ mà ta không hiểu được, con có thể cho ta biết ai dạy cho con thế?
Bảo Thư đáp:
- Thưa, đấy là một bài ca dao của dân tộc Đại Việt, Tổ mẫu có biết đất nước Đại Việt không?
- Ta có nghe nói, đó là một xứ sở ở phương Nam!
- Vâng, đúng thế, đó là một xứ sở của một dân tộc có truyền thuyết là được sinh ra bởi sự kết hợp của hai giống Rồng và Tiên, một dân tộc mà con được biết có một nền văn hóa cao cả, một dân tộc kiên cường, có truyền thống anh hùng và bất khuất...
Vương phi cố giấu nỗi sung sướng dâng lên trong lòng bà, nhưng lệ vẫn ứa ra không ngăn được, và lạ chưa, những giọt lệ cũng đầy khóe mắt Bảo Thư. Vương phi ôm lấy Bảo Thư, riêng Bảo Thư nàng lại nghĩ, bà khóc vì xúc cảm bởi thấy lệ đầy trên đôi mắt nàng, nàng thì thầm:
- Tổ mẫu thương con đến thế sao? Tha lỗi cho con đã làm bà lụy phiền!
- Bảo Thư, con có điều gì buồn lắm phải không?
- Vâng, thưa bà !
- Ta hiểu, ta biết, hay đúng hơn ta mơ hồ biết được. Ta thương con, Bảo Thư ạ!
- Con cảm tạ lòng yêu thương của Tổ mẫu!
Vương phi nói:
- Con đọc lại bài thơ êm ái ấy cho ta nghe, và giảng cho ta biết lời thơ nói gì đi con !
Bảo Thư dịch sang tiếng Trung Nguyên bài ca dao của Đại Việt, nàng dịch .một cách khó khăn và đến chữ "Thương mình", nàng cắt nghĩa cho Vương phi hiểu, như Nguyên Huân của nàng đã cắt nghĩa cho nàng ngày nào. Vương phi nghẹn ngào thương cảm nhìn Bảo Thư, bà ôm lấy nàng và thở dài. Bà nghẹn ngào khẽ nói, như nói riêng cho chính mình: "Một dân tộc tuyệt vời vợi một tâm hồn tuyệt vời như thế... Biết đến bao giờ... Đến bao giờ...!
|