Trường Cung chủ nhân ở khoảng tuổi sáu mươi, râu năm chòm dài đen mướt, tóc đã bắt đầu bạc, dung mạo khôi vĩ, tia nhìn đầm thấm nhân hậu. Cả bốn người đều không nhận được nét quen biết nào trên khuôn mặt hiền hậu ấy.
Hơn ba mươi năm trôi qua, bao nhiêu dòng sông đã biến thành nương bãi. Kìa non núi lỡ, nọ sông cát bồi. Bao nhiêu tang thương biến cải, làm sao tìm thấy được những nét thân thuộc trên gương mặt của một người cố ý lẫn tránh và che giấu? Vị Thần y đang ngồi trước mặt Đại sư, với nét mặt thản nhiên kia, có phải là vị Giáo chủ năm xưa của họ? Thời gian xóa hết mọi nét thân quen cũ, và ánh mắt uy nghiêm ngày nào, chỉ thấy tỏa ra tia nhìn nhân hậu với nỗi buồn ẩn chứa lặng lờ. Không hề bắt gặp ánh tinh quang loang loáng ngày nào của một bậc thiên hạ đệ nhất cao thủ.
Cả bốn người đều phân vân, đều tự hỏi họ có lầm lẫn, có vội vả quá chăng! Chỉ riêng một mình Nhan Bổn, tuy cũng biết không có gì để chứng minh, để xác quyết, nhưng sao lão họ Nhan vẫn chắc chắn người đang ngồi trước lão chính là vị Giáo chủ trẻ tuổi khả kính năm xưa. Chính vì ông, và chỉ duy nhất vì ông mà lão đã rời bỏ những năm sống yên tĩnh, tách biệt giang hồ, để vạn dặm đến nơi này. Lão làm sao quên được cái cảm giác tin yêu, ngày lão gặp vị Giáo chủ bình dị, lần đầu tiên cách đây trên ba chục năm; cảm giác ấy lại trở về với lão lúc này, khi ngồi trước vị Thần y họ Trường Cung.
Trường Cung, phải đúng thế, trong óc lão một tia sáng lóe lên: chữ Trường và chữ Cung ghép lại chồng chữ Trương là gì! Và bỗng dưng trong lòng lão, một nổi buồn thương và phiền muộn dâng đầy. Năm người cùng yên lặng. Kiến Nghiệp đại sư không biết phải làm cách nào để vị Thần y này lộ diện. Với một người khác, ông có thể dùng nhiều cách để làm sáng tỏ, chẳng hạn như về võ công. Nhưng nếu quả thật vị lang y này chính là Trương Giáo chủ, thì võ công của ông đã đến chỗ NHƯ NHIÊN, cực động đã biến thành cực tĩnh, "có" biến thành "không", thăm thẳm khôn cùng, dò tìm sao được!
Bất chợt, trong cái im lặng của tâm tư, ông nghe rõ ba hơi thở, dài ngắn khác nhau. Bốn người đang ngồi quanh ông, sao chỉ có ba hơi thở? Nhưng rồi rất lâu, ông cũng phát hiện ra hơi thở thứ tư, hơi thở trầm, dài, mong manh như mây bay, lúc có, lúc không.
Hơi thở của Nhan Bổn, đang lúc xúc động, thì rộn ràng. Hơi thở của Lãnh Thiềm thì dài và sâu, hơi thở của Quán Trung ngắn hơn đôi chút so với Lãnh Thiềm, chứng tỏ công phu nội lực, định khí ngưng thần của Lãnh Thiềm cao hơn Quán Trung một bậc. Vị Thần y kia là ai mà lại có hơi thở bằn bặt như vậy, nếu không phải là nhân vật tuyệt đại của thiên hạ: Giáo chủ Minh giáo, Trương Vô Kỵ.
Phàm người luyện võ, lúc khởi đầu là võ nghệ, tiến cao hơn một bậc là võ thuật, lên cao nữa là "pháp" như kiếm pháp, quyền pháp, đến độ cao hơn nữa, là "đạo", mà Đạo thì mênh mông, " đạo khả đạo phi thường đạo", không biết đâu mà lường được. Người luyện đến mức này, có thể bế khí như những đạo sĩ của Thiên Trúc, chôn dưới đất bốn mươi chín ngày mà vẫn sống, nhưng những đạo sĩ ấy, muốn hồi tỉnh, phải có người thứ hai trợ giúp, bởi vì không thể tự mình khai mở huyệt đạo.
Sự sống tiềm ẩn trong thân thể lạnh giá, tim ngừng đập, máu ngừng luân lưu, nhưng cơ thể không bị phân hóa, rữa nát; và tuổi thọ của họ không biết đâu là giới hạn, dĩ nhiên chỉ đến mức nào thôi, chứ chẳng một ai vượt ra ngoài lẽ Sinh Hóa được. Như Đằng Gia Đà Lý, Đạo trưởng sống từ cuối đời Chiến Quốc, từ lúc nhà Tần thống nhất Trung thổ, cho đến mãi đầu triều đại Tây Tấn mới hóa. Đạo lực của Trường Cung Thần y đã bước gần đến cõi như nhiên. Trong võ lâm Trung thổ, bao nhiêu đời, chưa một ai đạt tới kể từ ngày Đại Ma Tổ sư viên tịch.
Đối với cái vô cùng, năm trăm năm của cuộc đời Đằng Gia Đà Lý cũng là không. Mà không cũng là không, và Sát na, một khoảng thời gian tích tắc ấy, lại từ đó mà có. Vậy thì không ai khác hơn, vị Thần y này chính là Trương Giáo chủ của Minh giáo.
Lòng đã chán cảnh đời điên đảo, đã lánh xa cõi thị phi, quên cái danh lợi phù phiếm, làm thế nào bắt ông trở về cõi hồng trần? Kiến Nghiệp đại sư không biết làm cách nào làm cho Trường Cung Thần y động tâm trước những điều Đại sư sẽ bày tỏ, mà nhận lại danh phận mình..
Bỗng nhiên Nhan Bổn đứng dậy, tiến đến trước mặt Thần y mắt nhòa sương lệ, phấn khích nói:
- Giáo chủ! Chẳng nhẽ Giáo chủ không muốn nhìn nhận
người thuộc hạ này nữa hay sao? Cánh tay thuộc hạ đã mất trong cái ngày lục phái tiêu diệt Minh giáo năm xưa. Cánh tay cụt ấy còn đây, và hình ảnh Giáo chủ, vì Minh giáo mà quên cả mạng sống của mình còn đó. Thuộc hạ đã lui về với ruộng vườn, làm bạn với cày, cuốc, cào, bừa đến nay đã trên ba muôi nám. Từ ngày Giáo chủ bỏ đi, Minh giáo tan vỡ, thuộc hạ muốn quên đi tất cả, và đã tìm được nguồn an vui trong lúc tuổi già. Vậy mà lúc nghe tin Giáo chủ còn sống, thuộc hạ đã bỏ hết, từ biên cảnh Phương Nam vạn dặm tìm về đây, lẽ nào Giáo chủ chẳng cho thuộc hạ bái kiến, chẳng liếc nhìn tấm lòng của thuộc hạ ! Hay Giáo chủ coi thuộc hạ cũng là phường trâu, chó, là bọn gian tà thay lòng đổi dạ?
Thoắt giọng ngậm ngùi, Nhan Bổn tiếp:
- Thôi thì hôm nay đây, thuộc hạ xin trả lại cho Giáo chủ cái mạng sống thừa này ...!
Nói xong, ông giơ bàn tay còn lại, vận " Toái bia chưỡng" vỗ mạnh vào Hoa Cái. Bàn tay Trường Cung Thần y khẽ giơ lên như can gián. Hữu chưởng của Nhan Bổn còn cách đỉnh đầu chưa đầy gang, bỗng như gặp phải một luồng nội gia chân lực hết sức ôn nhu hóa giải ngay tức khắc luồng chân lực cương mãnh của mình, toàn bộ cánh tay ông mềm nhủn không còn chút hơi sức.
Không còn phải suy nghĩ gì nữa, Nhan Bổn quỳ mọp dưới chân vị Thần y, ôm lấy bàn chân của người mà ông tin chắc đó là vị Giáo chủ của mình:
- Thuộc hạ tham kiến Giáo chủ!
Ba người còn lại, Hữu sứ, Tảng Nhân, Chưởng Kỳ sứ, đều nhất loạt đứng lên khỏi ghế, toan quỳ xuống làm lễ tương kiến, nhưng cả ba đều gặp luồng kình lực ngăn lại như Nhan Bổn. Hữu sứ Phạm Dao cố tình vận sức dùng kình lực chống lại nhưng luồng kình khí cực kỳ ôn nhu kia hóa giải
- Xin các hiền hữu đừng đa lễ như vậy, xin hãy lấy tình bạn hiền mà đối với nhau!
Ông quay lại Nhan Bổn, nói:
- Nhan hiền huynh bấy lâu không luyện tập võ công nữa sao?
- Khai bẩm Giáo chủ, thuộc hạ chán nản hết chuyện đời !Trường Cung Thần y giọng từ tốn:
- Xin các hiền huynh xưng hô với Vô Kỵ này như anh em bằng hữu. Quá khứ ta chẳng nên nhắc đến nữa, hãy gọi tại hạ bằng cái tên tục của lão lang vườn này!
Kiến Nghiệp đại sư cung kính đáp:
- Xin vâng lời dạy của Trường Cung bằng hữu !
|