Trong căn phòng bên cạnh, tiếng mụ Aunt Frosya khoe khoang phách lác:
"Chị phải tích trữ mới có đấy. Chị phải mậu dịch năm chiếc chả khoai mới đổi được đôi bít tất (vớ) lụa ấy đấy. Từ giờ cho đến lúc hết chiến tranh, có lẽ sẽ không còn có bít tất nữa đâu. Này em, em phải mau lên mới được, đừng để phí thì giờ. Em hãy về xin má làm cho mấy cái chả khoai đi rồi mau mau chạy ra chỗ mấy toa tầu chở súc vật ấy, ở mấy cái toa ấy người ta ngồi thiếu gì. Họ sẽ vồ mấy cái chả của em ngay. Ngày nọ, mụ Grunda kiếm được một áo ngủ đàn bà lạ lùng lắm, chiếc áo có những chỗ hở ở các "nơi ấy", cứ trông thấy cũng đủ buồn cười vỡ bụng ra rồi! Con mụ đem về nhà mặc thử, thôi thì chẳng còn thiếu mụ nào trong lối xóm lại chẳng đổ xô đến xem, rồi cả bọn cười lăn cười bò ra… Em cũng có thể kiếm được xà phòng của họ rẻ hơn các nơi khác nhiều lắm, em phải nhớ rằng mấy ngày nay khan hiếm xà phòng lắm đấy. Mua ngoài không có đâu. Em phải bảo má em ngay mới được. Đừng có để lỡ mất cơ hội quý báu này nhé".
"Chị Aunt Frosya, em không biết! Em không biết…"
"Cái gì, bộ cô không thèm bít tất đấy chứ?"
"Em thèm lắm chứ, thèm ghê lắm, nhưng em thấy kiếm chác ở những người di cư tỵ nạn như vậy, có điều không phải, không tốt…"
"Bọn họ là dân di cư tỵ nạn hả? Họ đúng là những người ngay thẳng có những thứ đó. Họ mang theo nào là áo dài, áo ngắn, áo bộ, nào là xà phòng, trông họ chẳng khác nào như họ dự hội chợ triển lãm ấy. Cô sẽ thấy bọn họ có vài người mặt mày phì nộn béo tốt. Có người lại chỉ ưa thịt gà rán, không có gà rán là họ không chịu đổi chác gì cả! Người ta còn bảo chị rằng đám người ấy có người tiền nhiều vô số kể, cuộn lại thành từng cuộn nhét đầy trong các va li, các rương ấy, như thể bọn họ cướp được tiền của nhà băng ấy! Nhưng mình cần gì tiền, tiền ấy họ cứ việc giữ lấy".
"Thì mình cho họ ở trọ…"
"Bọn họ không phải là ai cũng giống nhau đâu. Họ chẳng mang theo thứ gì trên lưng cả, họ bị tan cơ nghiệp. Họ là người ở Kiew, lúc ra đi họ như thế nào, thì họ đến đây cũng vẫn đúng y như thế. Chị lấy làm lạ, không hiểu họ làm cách nào mà nhiều tiền như vậy được. Con mụ Paulina làm ở nhà giây thép ấy, mụ cũng có tiền, nhưng mụ sống ra sao thì ai việc gì phải lo lắng đến nào? Chị có hôm mở cửa hầm rượu nhà chị ra cho mẹ của mụ ấy xem, rồi chị bảo: "Đấy, các bà cứ tự tiện sẵn khoai đấy, sẵn dưa bắp cải đấy, cứ việc ăn, tôi không muốn lấy tiền phòng gì cả". Đấy em xem, Valia, chị lúc nào cũng vui vẻ giúp đỡ người nghèo lắm chứ, còn đối người giàu thì chị không thương xót gì cả!"
Trên bàn giấy của Zotov có hai cái máy điện thoại – một cái loại cổ lỗ sĩ, chiếc máy có một cái hộp màu vàng trên hộp có cái tay xách, nhân viên giữ việc gửi hàng quân đội cũng có một cái máy điện thoại dùng cho đường hỏa xa đúng y như vậy: cái máy thứ hai, là máy điện thoại của người báo hiệu có đường dây gắn thẳng vào phòng làm việc của ông quan ba và phòng gác của nhà kho ga xe lửa. Các binh lính gác các nhà kho là lực lượng quân sự duy nhất do cơ quan vận chuyển quân sự sử dụng, đám binh lính ấy cũng là những người có nhiệm vụ đốt lò sưởi ở đây, lau các phòng cho sạch, và canh gác cả khu này. Vì thế, bên cạnh chiếc lò là một chiếc sọt đựng những hòn than thật to để dành.
Chuông điện thoại đường hỏa xa reo vang. Lúc ấy, Zotov đã qua cơn buồn chán. Chàng bước nhanh lại chỗ điện thoại, một tay nhấc ống nghe lên, một tay hất chiếc mũ lên rồi chõ vào ống nói trả lời người ở đầu dây đằng kia. Khi điện thoại từ xa gọi đến, thường bao giờ chàng cũng phải gào to lên, vì đường liên lạc không được tốt, hay bị hư.
Đây là từ ga Bogoyavlenskaya gọi tới để hỏi xem chàng đã nhận được các chỉ thị nào và chưa nhận được những chỉ thị nào. Các chỉ thị này là những huấn thị mật mã thường dành riêng cho mỗi chuyến tầu, do cơ quan chuyển vận quân đội tại nhà ga trên gửi tới cho biết những chuyến tầu nào rẽ tới và sẽ đi về đâu, các chỉ thị mật mã nầy được đánh đi bằng điện tín. Mới chỉ một giờ trước đây thôi, Zotov đã trao một số các chỉ thị như vậy cho cô điện tín viên, và cô ta trao lại cho chàng một số các chỉ thị khác. Chàng vội vã cho lựa chọn các hàng hóa phải được thu góp chung lại để sẽ gửi đi tới nhà nào sẽ nhận các hàng hóa ấy, chỉ thị cho nhân viên chuyển hàng quân đội biết các toa tầu nào phải nối với đoàn tầu, rồi thảo và gửi các chỉ thị mới đi kèm.
Vừa mắc ống nói lại máy điện thoại xong, là Zotov vội vã ngồi xuống ghế, cúi gập mình trên mặt bàn y như người cận thị đọc giấy tờ, chàng bắt đầu cặm cụi viết các chỉ thị.
Cuộc nói chuyện của hai người đàn bà trong căn phòng bên cạnh, làm chàng khó chịu đôi chút. Có tiếng một người đàn ông vào căn phòng, đôi giầy y dậm trên mặt sàn, và có tiếng y buông mạnh chiếc túi da trong đựng các đồ dùng bằng kim khí xuống sàn. Mụ Aunt Frosya hỏi người đàn ông xem có phải tầu thay đổi chuyến đi không. Người đàn ông lẩm bẩm điều gì, rồi tiếng gã ngồi xuống.
(Thật ra, nước trong ống máng bị bể không phun ra mạnh đến nỗi phát lên tiếng rít lớn như khi nó xối vào bức vách, nhưng gió thì thổi càng mạnh thêm và càng rập mạnh vào cánh cửa sổ).
Valia bật hỏi:
"Này ông già, ông nói sao?"
Lão già giọng ồm ồm đáp:
"Trời lạnh thêm nữa".
Mụ Aunt Frosya hỏi lão già:
"Này Nikitich, ông nghe đúng đấy chứ!"
Lão già đáp:
"Nghe đúng chứ, đúng như tiếng nện chít chát trong tai tôi đây này!"
"Thế nhưng lúc ấy ông xét lại các toa ra sao, sau khi ông đánh họ ấy?"
"Không có đánh gì cả".
"Valia, cô không biết ông này rồi. Ông già này từ Krechetovka tới đây đấy, ông ta tên là Nikitich. Tất cả các người làm nghề thợ sửa đều học nghề của ông này cả đấy. Lúc chiến tranh bùng nổ, thì ông ta đã nghỉ làm nghề được cả mười năm rồi. Bây giờ thì ông ta lại mò ra, cô thấy đấy".
Và mụ Aunt Frosya lại lạch cạch va chạm vào thứ gì. Cuộc nói chuyện này lại bắt đầu làm cho Zotov thấy khó chịu trong đầu, chàng đã định đứng dậy đuổi lão già đi, nhưng chàng lại vểnh tai lên mà nghe ba người đang nói chuyện vụ rắc rối ngày hôm qua về chuyến tầu chở người ta mà lại có lính an ninh đi theo vây quanh.
Zotov được nghe một ông bạn đồng nghiệp của chàng kể cho biết vụ này, người bạn cũng là sĩ quan phụ tá chuyển vận như chàng, lúc xảy ra vụ rắc rối thì người bạn chàng đang bận việc. Lúc Zotov đến giúp người bạn công việc thì anh ta kể cho chàng nghe về việc ấy. Người bạn chàng đích thân phải lo vụ ấy, bởi vì ga Krechetovka không có một quân cảnh riêng. Sáng hôm qua cùng một lúc có hai chuyến xe lửa cùng về tới ga. Một chuyến có ba mươi toa chở súc vật, các toa ấy đầy những người từ Shchigry đến Otrozhka với một toán hộ tống chỉ có năm nhân viên sở mật vụ NKVD, năm người này dĩ nhiên là không thể nào canh gác được hết ba mươi toa tầu lèn đầy những người đáng sợ. Chuyến tầu kia thì từ Rtishchev đến, chuyến tầu này chở toàn bột mì. Bột ngọt phần chở trên các toa kín, một phần chất trên các toa trống trải. Đám người bị tập trung thấy chuyến xe lửa chở bột đậu ngay cạnh họ, thế là họ tấn công các toa chở bột trống trải. Họ xông lên các toa tầu, dùng dao díp rạch tung các bao bột mà cướp. Bọn người cởi áo ra làm bao mà đựng bột. Chuyến tầu chở bột chỉ có hai người lính canh, một người đứng ở đầu tầu, thật ra chẳng lớn gì hơn một thằng con nít, y có hô lên mấy lần để cản đám người không cho cướp bột. Nhưng chẳng ai thèm để vào tai những lời hô của chú lính ấy, năm người lính mật vụ NKVD cũng mặc kệ chẳng giúp gì cho người lính tầu chở bột. Thế là chú lính nổ súng. Phát súng duy nhất của gã bắn trúng đầu một người đàn ông, người đàn ông ngã ngay trên toa tầu.
Zotov vẫn lắng tai nghe, nghe nữa. Câu chuyện họ nói với nhau không đúng hẳn. Họ không hiểu. Chàng không thể ngồi yên được, phải sang giảng cho họ nghe mới được. Chàng đẩy cửa và đứng ngay ở ngưỡng cửa, chàng giương cặp mắt kính tròn lên mà nhìn ba người.
Cô Valia thân hình mảnh dẻ lúc ấy đang ngồi tại bàn, phía bên phải chàng trước mặt họ là những tờ giấy kẻ dòng và chia từng phần có những ô vuông tô màu.
Trên chiến tràng kỷ phía dưới cửa sổ, cửa sổ che bằng giấy chắn ánh sáng mầu xanh thẫm, mụ Aunt Frosya ngồi, mụ là người đàn bà trọng tuổi, vóc người to lớn vững chắc có vẻ uy quyền, khuôn mặt như mặt đàn ông, ta thường thấy nơi những người đàn bà Nga giỏi cả việc trong nhà lẫn việc tại sở làm. Chiếc áo tơi mưa bằng vải dầu mầu xám xanh, sũng nước nhăn nhúm của mụ Aunt mặc mỗi khi làm việc lúc trời mưa, treo ở trên vách, mụ ngồi ở chỗ cái áo, đôi giầy cao cổ cũng sũng nước, đầu mụ vẫn đội chiếc mũ rộng vành mầu đen lỗ chỗ rách, mụ đang loay hoay vặn lại tim chiếc đèn dầu hình vuông xách tay.
Trên cánh cửa ra vào, có mảnh giấy mầu hồng in câu khẩu hiệu: "Cẩn thận bệnh chấy rận!" Khẩu hiệu này dán ở khắp nơi tại nhà ga Grechetovka. Mảnh giấy in khẩu hiệu mầu hồng tựa như mầu da người bệnh chấy rận, hay như những mảnh kim loại rách nát cháy đỏ ở các toa tầu sau trận tấn công của máy bay.
Lão già thì ngồi bệt xuống sàn, ngay cạnh chỗ cửa ra vào, vì thế ông sĩ quan không bị vướng lối đi. Lão ngồi tựa lưng vào tường, cách chiếc lò một chút. Bên cạnh lão là chiếc túi da cũ kỹ, trong có các đồ dùng bằng sắt nặng nề, chiếc túi lão quăng một chỗ không làm bít lối đi, bên cạnh chiếc túi đồ dùng, là đôi bàn tay làm việc be bét dầu máy. Lão già từ lúc mới vào ngồi xuống sàn như thế nào, thì cho đến lúc này lão vẫn ngồi yên như vậy, lão chẳng thèm rũ nước trên người mà cũng chẳng cởi bỏ áo khoác ngoài, nước mưa trên người lão chảy từ đôi giầy và chiếc áo tơi mưa xuống đọng thành vũng ở trên sàn. Giữa hai đầu gối nửa gập lại của hai chân gã cũng có một ngọn đèn lù mù y như cây đèn của mụ Aunt Frosya. Lão già khoác áo tơi mưa, bên trong là chiếc áo lót mầu đen, cáu đất bẩn thỉu, quanh bụng lão là chiếc thắt lưng nâu cũng cáu bẩn. Chiếc mũ áo tơi mưa hất ngược lại sau lưng, đầu tóc gã bù xù đội một chiếc mũ phu hỏa xa cũ. Cái lưỡi trai ở chiếc mũ làm cho vùng mắt lão tối lại, và ánh đèn tù mù chỉ đủ xoi rõ chiếc mũi đỏ to tướng và cặp môi dầy. Lão cắn giữa cặp môi một điếu thuốc lá vấn bằng giấy báo, khói từ trong mồm lão tuôn ra cuồn cuộn. Hàng ria mép lão còn vài sợi mầu đen chen lẫn những sợi mầu xám lởm chởm.
Valia vừa gõ gõ đầu bút chì xuống mặt bàn vừa nói:
"Nếu không bắn thì người lính còn biết làm thế nào khác được? Anh ta lúc ấy đang gác, đang ở chỗ gác của mình mà?"
Lão già gạt một cục tàn thuốc lá đỏ hồng thật to xuống sàn, cà cà vào nắp chiếc đèn, lão đáp:
"Thì đúng thế! Đúng chứ có sai đâu. Mọi người ai cũng muốn được ăn cả mà!"
Cô gái cau mày:
"Lão nói như vậy là thế nào? Ai là mọi người nào?"
Lão già vừa làm hiệu vừa đáp:
"Phải, cả hai đứa chúng ta cũng vậy".
"Này lão, lão nói thế là lẫn lộn cả rồi! Lão không muốn nói là những người ấy đói chứ gì? Họ được nhà nước cấp khẩu phần mà. Lão tất hiểu rõ là nhà nước chở họ đi như vậy không phải là không cấp khẩu phần ăn cho họ!"
Lão già đáp:
"Đúng!"
Lại thêm một cục tàn thuốc đỏ lửa nữa rụng xuống, lần này tàn thuốc rơi xuống đầu gối và quần lão.
Mụ Aunt Frosya kêu lên:
"Ấy kia, cẩn thận không bỏng bây giờ!"
Lão già lặng lẽ nhìn tàn thuốc cháy đỏ tàn đi, áo quần đen bẩn, ẩm ướt của lão, lão thản nhiên không buồn phủi đi, khi tàn thuốc tắt hẳn lão mới khẽ ngửng chiếc đầu vẫn đội chiếc mũ sùm sụp lên, rồi nói:
"Này các bà có bao giờ các bà ăn bột sống quấy với nước lã chưa?"
Mụ Aunt ngạc nhiên:
"Sao lại ăn bột sống? Bột thì phải nhào trộn, rồi nướng lên mà ăn chứ!"
Lão già chép miệng, cái miệng gã với cặp môi dầy nhợt nhạt, lão không trả lời ngay – lời lão nói ra chẳng bao giờ đi thẳng ngay vào điều muốn nói. Những lời lão nói ra như thể tự nhiên nó bay ra, không suy nghĩ:
"Thế là chẳng bao giờ các người hiểu được thế nào là nạn đói rồi, các nàng ơi!"
Trung úy Zotov bước tới, chàng góp lời:
"Này lão, thế lão không hiểu lời thề trung thành là cái gì hả?"
Giọng nói của Zotov đặc giọng người miền Volga.
Lão già nhìn Trung úy vẻ thật ngạc nhiên. Lão già vóc dáng không lấy gì làm to lớn lắm, nhưng đôi giầy của lão thì thật đồ sộ, nặng nề, sũng nước, trây chát khắp nơi bẩn thỉu vì đất sét dính ở đế giầy.
Lão lầm bầm:
"Biết chớ! Chính lão cũng đã năm lần thề trung thành rồi đấy!"
"Thề với ai? Với hoàng đế Nick hả?"
Lão già lắc đầu:
"Xa hơn nữa".
"Hả? Có lẽ nào lại thề với hoàng đế Alexander Đệ Tam được chắc?"
Lão già chép chép miệng một cách chán chường, rồi tiếp tục hút thuốc.
Lão nói:
"Đúng đấy! Nhưng bây giờ thì thề với nhân dân. Có thấy chỗ khác biệt ấy không?"
Tàn thuốc lại rớt xuống đầu gối lão.
Valia hất mái tóc xòa trước trán ra đằng sau, nóng nẩy:
"Thế bột mì ấy là của ai? Chẳng phải là bột của nhân dân là gì? Lão cho là bột ấy chở đến cho ai – chắc chắn không phải là bọn Đức?"
Lão vẫn cái giọng bâng quơ như chẳng bao giờ có ý tranh biện:
"Đúng! Còn cái bọn người ấy cũng lại không phải là người Đức, cũng chẳng phải là dân ta nữa".
Lão hút hết điếu thuốc vấn bằng giấy báo, lão vê vê rồi dụi mẫu thuốc vào nắp chiếc đèn.
Zotov giọng khó chịu:
"Lão này điên rồi! Lão cho luật pháp với trật tự là thế nào? Nếu ai thích gì cứ việc làm nấy, thì liệu sẽ xảy ra sao đây, giả thử tôi thích gì cứ việc đoạt thứ ấy, lão thích gì cứ việc lấy, thì liệu làm thế nào để ta thắng trận được đây?"
Valia góp lời, giọng giận dữ:
"Tại sao đám người ấy lại cướp bóc rạch tung các bao bột như vậy chứ? Có ai lại làm như vậy bao giờ không? Đám người ấy mà là đồng bào của ta được sao?"
Lão già lấy tay quệt mũi, rồi đáp:
"Tôi cho là bọn cướp bóc rạch tung các bao bột, là vì họ đói quá".
Mụ Aunt Frosya quát lên giọng phẫn nộ:
"Đói mà phí của như vậy à? Làm cho bột đổ cả xuống đường rầy như vậy được hả? Bọn chúng nó xé tan các bao bột rồi làm phí mất cả, này đồng chí Trung úy, tôi không hiểu số bột ấy đem nuôi ăn thì được bao nhiêu người nhỉ!"
Lão già nói:
"Phải, ta đánh cuộc với các người là số bột còn lại trên các toa tầu trống trải ấy, thế nào cũng bị hư hỏng nốt cho mà xem!"
Zotov có vẻ giận mình là tại sao lại đi góp lời vào cái câu chuyện chẳng ra đâu vào với đâu, với những lý sự sơ đẳng này, chàng bảo:
"Ôi dào! Có nói với lão già này cũng bằng thừa! Thôi im đi, đừng có ồn ào quá như vậy, tôi không làm việc được!"
Mụ Aunt Frosya đã sửa xong tim đèn, châm lửa. Mụ đứng dậy, giơ tay nhấc chiếc áo tơi mưa cứng nhắc, nhăn nhúm. Mụ bảo:
"Này Valia cưng ơi, cho chị mượn cái bút chì chút nào. Bây giờ chị chắc là chị ghi đến toa số Bẩy Sáu Năm đây".
Zotov quay về phòng riêng.
Vụ rắc rối ngày hôm qua, có thể sẽ có nhiều hậu quả tai hại. Khi đám người ấy thấy có người của bọn họ bị bắn ngã, thì họ liền bỏ cả bột, gào thét giận dữ đổ xô đến anh lính gác. Họ cướp súng của anh lính, anh ta chẳng chống cự lại, rồi họ xúm vào đánh đập anh ta. Nếu không có người trưởng đoàn hộ tống chạy đến giữ lấy anh lính, rồi dẫn anh ta đi, thì có lẽ đám người đến xé xác anh ta ra mất.
Khi có chuyến tầu vào sân ga để chở đám người ấy đi, thì các chức quyền quân sự địa phương vội vội vàng vàng tống khứ đám người ấy đi cho thật sớm. Đêm hôm qua, một chuyến tầu như vậy nữa – chuyến 245.413 từ Pavelets đi Archeda. Lúc vào ga Krechetovka thì lúc ấy Zotov đang làm việc, chàng nhận chuyến tầu rồi lại gấp rút cho chuyến tầu lên đường ngay. Chuyến tầu chỉ ngừng lại ở ga có hai mươi phút, đám người bị tập hợp lúc ấy ngủ gà ngủ gật, không một ai ra khỏi các toa tầu. Có nhiều người trong đám những người bị tập trung và bị đưa đi có hộ tống ấy, tỏ vẻ lo sợ hãi hùng lắm. Họ không phải là một đơn vị quân đội, họ không có vũ khí nhưng chính họ tự cho mình hôm qua là nhà binh, bởi vì họ là những người giống y như những người hồi tháng Bẩy nắm giữ những vị trí trước Bobruisk, hay hồi tháng Tám trước Kiew, hay hồi tháng Chín trước Orel.
Zotov cảm thấy sợ sệt các người ấy, sự sợ sệt ấy có lẽ cũng giống như sự sợ hãi của người lính trẻ lúc anh ta vội trao súng cho đám đông chứ không dám bắn đến phát đạn thứ hai. Zotov thấy xấu hổ về chức vụ sĩ quan hậu cần như thể này của mình. Chàng thèm ước được như họ, chàng sẽ sung sướng nếu được góp phần vào những tội lỗi như họ, nó khiến cho chàng cảm thấy mình đang được chiến đấu, đang xông pha ở chiến tuyến đang vượt sông dưới hỏa lực từ đằng sau bắn tới.
Các bạn học của chàng, các bằng hữu của chàng, tất cả lúc này đang ở mặt trận.
Và chàng một mình ở nơi này.
Được sống như vậy, tất chàng thi hành các công việc mới thật là nồng nhiệt hơn nữa. Chàng cảm thấy các công việc ấy vượt xa ra ngoài các công việc của nhà ga đặt dưới sự kiểm soát, các công việc ấy làm cho chàng thấy lúc nào cũng được thoải mái ở trong lòng. Chàng sẽ làm việc nhiều hơn nữa, chàng sẽ tỏ ra càng quán xuyến, càng có khả năng hơn nữa, đến mức độ chót, trong mùa thu khủng hoảng này, với ngày kỷ niệm Cách mạng năm thứ hai mươi bốn sắp tới. Ngày mồng 7 tháng Mười một là ngày nghỉ yêu thích nhất của chàng, một ngày mừng vui hoan lạc mặc dầu đang giữa một mùa âm u buồn tẻ, nhưng năm nay tâm tư nghĩ về ngày kỷ niệm Cách mạng ấy lại đang ray rứt tâm hồn chàng.
Ngoài những công việc thường lệ, chàng còn dành ra một tuần lễ để làm các công việc khác ngay trong lúc chàng đang thi hành công việc thường nhật. Trong một cuộc không tập, các máy bay Đức đánh trúng một chuyến tầu hỏa chở các đồ tiếp liệu của quân đội, trong đó một số là thực phẩm. Nếu cuộc không tập ấy hủy diệt trọn chuyến tầu, thì mọi việc đã xong xuôi rồi. Nhưng có điều may mắn, là phần lớn các hàng hóa trên chuyến tầu ấy không bị thiệt hại. Và vì thế mà bây giờ Zotov mới được lệnh lập bốn bản đầy đủ danh sách của:
(1) các thứ hoàn toàn hỏng không dùng được (những thứ ấy phải ghi vào các danh sách để gửi về sở quân cụ để được đổi thứ khác);
(2) các hàng hóa bị hư hại từ bốn mươi đến tám mươi phần trăm (các thứ này sẽ được quyết định sau là sẽ dùng vào các trường hợp như thế nào);
(3) các hàng hóa bị hư hại từ mười đến bốn mươi phần trăm (các thứ này sẽ phải gửi về nơi cấp phát, kèm theo giải thích đầy đủ, hoặc nhân đấy có thể được đổi thứ mới);
(4) và cuối cùng là các hàng hóa hoàn toàn không bị hư hại, còn nguyên vẹn.
Điều làm cho công việc gặp phải khó khăn, phức tạp, là tất cả các thứ hàng hóa của chuyến tầu bị ném bom đều chất trong các nhà kho, các hàng ấy không được cất giữ đúng phép, lại thêm đủ thứ người lạ mặt lởn vởn quanh nhà ga, bọn người ấy có vẻ muốn ăn trộm ăn cắp các hàng hóa. Khó khăn hơn cả, là việc xem xét rồi giám định xem tỷ lệ phần trăm bị hư hại của các hàng hóa là bao nhiêu, đòi hỏi phải đợi các chuyên viên từ Michurinsk và Voronez tới mới làm nổi, khiến sinh ra một khó khăn vô cùng khác nữa là vấn đề xê dịch các thùng hàng hóa ấy trong các nhà kho, giữa khi ấy thì lại quá thiếu phu khuân vác, chuyển vận.
Ném bom các chuyến tấu chở hàng hóa thì phi công tồi tệ đến đâu cũng làm được, nhưng đây chỉ mới ở giai đoạn mò mẫn thôi!
Nhưng một khi Zotov vì cái tính tự mình thích muốn mọi việc phải thật rõ ràng, và chàng thực hiện mỗi việc thật tỉ mỉ thận trọng, thì chàng cũng tự tay lập được rất nhiều danh sách các thứ hàng hóa rồi. Chàng nghĩ rằng trong hôm nay chàng sẽ lập được một ít danh sách nữa, và hi vọng trong vòng một tuần lễ nữa thì làm xong xuôi được hết.
Công việc ấy là công việc hàng ngày của chàng, ngoài công việc ấy chàng còn để mắt đến công việc khác nữa. Ở đây Zotov là một người ăn học cao, có khiếu tổ chức, chàng làm công việc của người đứng mũi chịu sào, cho nên cần phải có kinh nghiệm nhiều. Hiện giờ chàng có thể nhìn thấy thật rõ ràng các thiếu sót, khiếm khuyết trong kế hoạch động viên hiện hữu của Xô Viết khi chiến tranh bùng nổ, chàng cũng nhận thấy các khuyết điểm, các bất toàn trong vấn đề kiểm soát sự vận chuyển các loại chiến cụ, công tác này sẽ phải giao phó cho cơ quan Vận chuyến Hỏa xa Lục quân đảm nhiệm. Đấy chẳng phải là công việc trực tiếp của chàng là gì, công việc của chàng là ghi chép tất cả, cân nhắc ước lượng tất cả, rồi lập bản tường trình gửi về bộ Quốc phòng. Giả thử các cố gắng của chàng không thể thực hiện được trong trận chiến tranh này, thì các khả năng ấy cũng sẽ thể hiện hoàn toàn trong trận chiến tranh sau.
Và đây là công việc Zotov thấy cần phải có thì giờ và nghị lực nhưng nếu chàng đem ý tưởng ấy của mình mà thổ lộ cho cấp trên của chàng hay cho cơ quan chỉ huy giao lộ hỏa xa nghe, thì thể nào họ cũng cười vào mũi chàng ngay. Nhưng vì cái thái độ ấy, chàng thấy họ là những con người không mấy phong phú về trí tưởng tượng.
Vì vậy chàng thấy tốt hơn hết là gấp rút làm việc, cuối cùng là với những chỉ thị đính kèm như vậy! Zotov xoa xoa hai bàn tay, các ngón tay xủn xoẳn của chàng kỳ kỳ vào lòng bàn tay, rồi chàng cầm cây viết chì (loại viết chì không thể tẩy xóa được mực) di di trên các con số để xem lại, biên xuống những con số dài dằng dặc, thỉnh thoảng lại ghi riêng con số các chuyến tầu, hàng hóa và các toa tầu lên nhiều tờ lật ngược trở lại. Công việc làm này không thể được phép lỗi lầm dù là lỗi lầm nhỏ bé nhất chẳng khác nào như bộ phận nhằm đích của một cây súng. Trong lúc cặm cụi làm việc, tinh thần tập trung cả vào những con số, hai hàng lông mày chàng cau lại môi dưới trễ ra.
Đúng lúc ấy, Valia Podshebyakina gõ cửa phòng.
"Trung úy Vassily, em vào được không?"
Và không đợi chàng cho phép, cô đã đẩy cửa bước vào. Cô cũng cầm trên tay một bản danh sách.
Đại cương mà nói, thì cô không nên vào trong buồng này; các việc cô cần hỏi Trung úy chỉ cần đứng ở cửa mà hỏi cũng đủ rồi, hoặc cứ đứng ở ngay cửa phòng cô mà hỏi cũng được. Tuy nhiên có điều: giờ làm việc của Zotov và Valia lại thường thường trùng nhau và chàng cảm thấy nếu cấm nàng vào phòng làm việc của chàng thì là một điều khiếm nhã, không khôn khéo.
Chàng ngừng lại ở con số ấy, lấy mảnh giấy chặn vào cột đang làm dở để cho nhớ.
"Trung úy Vassily, em làm rộn ông phải không! Xin phiền ông…"
Chiếc ghế phụ không tiện tầm tay, vì thế cô Valia phải nghiêng người trên cạnh bàn để chỉ cho Zotov thấy một trang chính thức trên có những dòng số tẩy xóa, gian lận.
Cô nói:
"Trong chuyến tầu Bốn Bốn Sáu có một toa mang số Năm Mươi Bẩy Tám Mươi Ba. Em phải ghi vào chỗ nào?"
"Cô đợi tôi tí, tôi tìm cho".
Zotov kéo một ngăn kéo, mau lẹ dò tìm con số cần tìm trong ba hàng cột hồ sơ, rồi mở nhanh hồ sơ (vì thế cô Valia không nhìn thấy kịp), chàng tìm ngay thấy con số.
"Đây rồi, Năm Mươi Bẩy Tám Ba Một, đi Pachelma".
"Em thấy rồi…"
Valia vừa nói vừa ghi xuống chữ "pac".
Xong việc, cô chưa đi ra, cứ tiếp tục nghiêng người trên bàn giấy của Zotov, cô vẫn chăm chú nhìn lên tờ giấy, môi cô mút mút đầu cục tẩy ở bút chì.
Zotov mắng:
"Cô xem chữ "c" này xem, viết như thế thì không thể nào bảo là chữ "v" được. Viết như thế thì các toa tầu sẽ bị gửi đi Pavelets mất!"
Valia đáp, giọng vẫn tự nhiên:
"Dạ, đúng! Vassily đừng rầy em nhé!"
Rồi qua mái tóc nâu buông xõa, cô liếc nhanh nhìn Trung úy. Rồi cô lấy bút khoanh tròn chữ "c" lại.
Cô tiếp:
"Bây giờ đến chỗ khác".
Giọng cô nũng nịu, cô lại đưa bút lên môi. Mái tóc cô thật dầy, vàng hoe uốn cong vươn xa khỏi trán, che khuất cặp mắt cô. Nhưng cô vẫn để mặc cho tóc xõa như vậy chứ không vén ra một bên. Mái tóc cô có vẻ óng ả, sạch sẽ và mềm mại lắm… Zotov tưởng tượng nếu vuốt ve mái tóc ấy chắc thú vị biết là bao!
"Đây rồi, toa tầu không mui này, toa số Một Không Năm Trăm Mười".
"Một toa tầu nhỏ hả?"
"Không, toa lớn".
"Tôi nghi quá".
"Tại sao vậy?"
"Có lẽ có thêm một số nữa".
Cô hất mái tóc ra đằng sau, cặp mày trên mắt cô cũng đẹp như mái tóc cô, cô nói:
"Mình phải làm sao bây giờ?"
"Sao, dĩ nhiên là phải tìm xem chứ! Cô Valia, cô phải thận trọng thêm tí nữa mới được. Có phải là toa ấy cùng trong một chuyến tầu không?"
"Đúng".
Zotov lại lật hồ sơ, tra cột các con số, trong khi ấy cô Valia nhìn Trung úy, chàng có hai tai vểnh trông thật buồn cười, mũi thì có hình như một củ khoai, còn mắt thì qua cặp kính cô có thể thấy rõ hai con mắt chàng mầu xanh lợt với một cái chấm nhỏ mầu xám. Trong những lúc làm việc như thế này, chàng hay cáu kỉnh, bí mật.
Zotov cáu kỉnh:
"A, xem này! Cô thế này thì có gọi là đem mà bắn bỏ: Không phải là Không Năm, mà là Không Không Năm, hả, cô!..."
"Hai số không?"
Valia đáp có vẻ ngạc nhiên, cô ghi thêm một số không nữa.
"Có phải cô đã học hết bực trung học rồi không? Quả thật tự cô nhục mạ cả sự học của cô rồi!"
"Vassily, em không thấy trung học ăn nhằm gì vào với công việc này cả. Còn toa tầu này đi đâu đấy?"
"Đi Kirsanow".
Valia vừa ghi vừa nói:
"Rồi, em hiểu!"
Nhưng cô vẫn chưa đi. Cô vẫn cứ nghiêng người như vậy trên cạnh bàn giấy của Zotov ngay bên cạnh chàng. Cô đang suy nghĩ lung lắm, cô gãi gãi chỗ thớ gỗ xước ra ở cạnh bàn, cô vân vê mảnh gỗ rồi lại ráp mảnh gỗ vào chỗ cũ.
Ánh mắt nhìn của Zotov không thoát được cặp vú nhỏ nhắn trẻ trung của nàng Valia, bây giờ thì hình dáng đôi nhũ hoa ấy nhìn thấy rất rõ ràng vì cô cúi nửa người về phía trước, thường thường thì cặp nhũ hoa ấy bị nén chặt dưới bộ quần áo hỏa xa vải thô kệch.
Cô bảo:
"Buổi gác đêm của chúng mình cũng sắp hết rồi".
Cô nói, cặp môi trễ xuống. Cặp môi cô rất mọng, hồng, đầy vẻ trẻ trung.
"Nhưng, trước khi hết phiên gác, cũng còn có việc phải làm".
Zotov ngừng nói, chàng cau mày ngắm nghía cô gái.
"Rồi thì cô về với bà già chủ nhà trọ ấy của cô chứ?"
"Vâng, chứ còn về đâu nữa?"
"Thế cô chẳng bao giờ đi thăm người nào khác à?"
"Lúc này em thấy không phải là lúc đi xã giao!"
"Nhưng cô làm sao mà sống được với mụ đàn bà ấy chứ? Đến một mái lều cỏ cô cũng không có, phải ghép các thùng đồ cũ vào làm giường mà ngủ".
"Tại sao ông biết như vậy?"
"Thì người ta nói, cô hiểu không! Cô Valia, tôi thấy bây giờ không phải lúc để nằm đệm êm, nhất là như trường hợp của tôi. Tôi thấy mình ở đây chứ không ở nơi mặt trận, là một điều xấu hổ quá!"
"Em thì em không thấy như vậy. Ông chẳng đang thi hành nhiệm vụ của ông là gì? Thế thì tại sao lại phải xấu hổ chứ? Dù sao đi nữa, em đánh cuộc rằng thế nào ông cũng vẫn còn đủ thời giờ để có lúc nằm trong hầm hố chiến hào mà. Vả lại, ai biết trước được là liệu ông có còn sống để được thấy hoà bình hay không… Vì thế, em thấy khi ông còn được may mắn, tại sao ông lại không sống cho đúng với nghĩa sống của một con người bình thường nào?"
Zotov nhấc mũ ra, chàng miết miết ngón tay trên trán. Chiếc mũ hơi chật nhưng chàng không làm sao tìm được lấy một cái rộng hơn trong suốt các kho của sở quân trang.
Trên góc tờ giấy ghi các hàng số, cô Valia tẩn mẩn vẽ hình lăng nhăng, nét bút chì thật mềm mại, trông từa tựa như hình một cái móng vuốt.
"Tại sao ông lại thôi không ở trọ nhà Avdeyevs? Em thấy ông ở đấy, khá lắm chứ, phải không ông?"
"Tôi đi khỏi đấy, có thế thôi!"
Zotov sụp mí mắt nhìn xuống, tự nhiên chàng thấy mặt nóng bừng. Valia thì cứ tô đậm mãi cái hình lăng nhăng tựa như cái móng vuốt.
Cả hai im lặng. Valia đưa mắt nhìn cái đầu của Zotov theo chiều nghiêng, đầu Zotov tròn tròn. Nếu không có cặp kính, thì cái đầu ấy là đầu một thằng bé con, tóc chàng không dầy nhưng óng ả, loáng thoáng có vài nơi tóc chàng quăn quăn như hình cái dấu hỏi.
"Ông thì chẳng bao giờ đi xem hát bóng. Ông tất phải mê sách kinh khủng. Ông cho em mượn vài cuốn nhé!"
Zotov ngước mắt nhìn lên, mặt chàng vẫn còn đỏ:
"Ai nói với cô về truyện sách vở?"
"Em đoán là ông có nhiều sách".
"Tôi chẳng có sách gì cả. Sách tôi để cả ở nhà".
"Ông nói thế chẳng qua là vì ông không muốn cho em mượn chứ gì!"
"Không, không phải đâu cô, tôi không có cuốn nào cả mà. Vả lại làm sao tôi có thể đem theo được? Người lính mỗi người chỉ có một cái ba lô, người lính chỉ được phép có như vậy thôi".
"Nếu vậy thì để em cho ông mượn vài cuốn nhé".
"Cô có nhiều sách không?"
"Mời ông qua xem tủ sách".
"Các sách ấy là loại sách nào?"
"A… A…, cuốn The Blast Furnances này, cuốn Prince Serebrenny này, đủ mọi loại khác nữa này".
"Thế còn cô, cô đọc các cuốn ấy chưa?"
"Em có đọc vài cuốn rồi…"
Đột nhiên ngửng đầu, cô nhìn chăm chăm vào hai mắt chàng rồi nói một hơi:
"Vassily, tại sao ông không dọn sang ở cùng với chúng tôi? Phòng của bà Vova bỏ trống mà, ông có thể ở căn phòng ấy được. Trong phòng ấy có lò sưởi, như vậy ấm cúng hơn. Má em sẽ nấu ăn cho ông. Ông đừng nhắc đến cái bà già chủ nhà trọ ấy nữa!"
Hai người vẫn nhìn nhau, mỗi người che giấu nỗi niềm bí ẩn của mình.
Valia thấy Zotov ngập ngừng, chàng có vẻ sắp nhận lời rồi. Tại sao cái anh chàng dáng điệu tức cười này lại không nhận lời như vậy chứ? Anh chàng nhà binh nào cũng thường nói là mình không có vợ chỉ riêng có một mình chàng thì lại bảo là mình có vợ. Các chàng quân nhân nào cũng ở trọ trong các căn nhà thật êm đềm ở trong làng, ở trọ như vậy được sung sướng hơn nhiều, lại được trông nom săn sóc tốt nữa. Cả cha lẫn em nàng Valia đều ở trong quân ngũ và ra trận cả rồi, nên nàng rất cần có một người đàn ông ở trong nhà. Cả hai có thể cùng về nhà, mỗi khi hết buổi gác vào mãi đêm khuya, đường về nhà phải qua những con đường tối tăm, lầy lội (lúc ấy chắc chàng phải dắt tay nàng), đến khi hai người về đến nhà rồi, hai người cùng ăn cơm với nhau, bông đùa với nhau…