Báo Thù - Jim Harrison
Tên truyện : Báo Thù
Nguyên tác : Revenge
Tác giả : Jim Harrison
Dịch giả : Thanh Vân
Nguồn : vnthuquan
Đánh máy : tumbleweed
Chương 1
"Báo thù là một món ăn tốt nhất nên dọn lúc đã nguội"
(Ngạn ngữ cổ Sicily)
Bạn không thể nói người đàn ông trần truồng kia còn sống hay đã chết, nếu bạn là con chim đang bay xuống (mà có một con chim đang sà xuống thật, một con kên kên). Chính người ấy cũng không biết là con chim ngập ngừng lúc đáp xuống mặt đất, kêu rền rĩ lúc đến bên cạnh, nghi ngờ và nhìn vào cánh rừng rậm như thể mong đàn chó sói. Xác chết đã thối sẽ được chia theo một kiểu không do những số lượng phần muốn, mà theo kiểu định đã định sẵn, từ trước khi bất cứ kẻ nào biết đến. Con kên kên vừa ăn một con rắn chuông bị xe tải chẹt chết ở ngoài Garcia, một thành phố nhỏ hấp dẫn du khách, cách Nogales khoảng một trăm dặm. Lũ chó sói sẽ theo vòng lượn của con kên kên vì tò mò, dù chúng trong cuộc săn đêm còn đói hay không. Buổi sáng sẽ ấm lên, kên kên sẽ tới đông thêm cho đến lúc người đang chết kia có người nhòm ngó.
Giữa buổi sáng lúc trời sáng rõ, sức nóng đã hun khô và đóng bánh lớp máu trên mặt người đàn ông, máu hầu như đã mất mùi tanh của đồng. Người đang hấp hối lúc này chập chờn, phần lớn vì hơi nóng và mất nước hơn là vì những vết thương: một cánh tay bị vặn xoắn, một vết bầm lớn màu xanh lơ trên ngực, một bên gò má vỡ vụn, máu trào ra giống như mặt trời đỏ tía, hai hòn cà sưng phồng. Máu từ cái đầu bị thương làm đen thẫm cát sỏi và dìm anh ta vào giấc ngủ hôn mê gần như chí tử. Anh ta vẫn còn thở, luồng không khí nóng rít như còi qua chiếc răng vỡ và lúc tiếng còi rít lên đặc biệt to, lũ chim kên kên đâm lúng túng. Một con sói cái và những con sói con vừa cai sữa dừng lại nhưng chỉ một lúc thôi, sói mẹ đớp lũ con như muốn nói cái sinh vật tầm thường này chỉ bị nguy cấp xoàng xoàng thôi. Nó gật gù lúc đi ngang qua một con sói đực già rất to dưới bóng một tảng đá mòn đang tò mò ngắm nghía. Nó nhìn rồi gà gà ngủ, ngay cả trong giấc ngủ vẫn cảnh giác mà chúng ta không biết. Bụng nó đầy javelina và nó rình người đàn ông đang hấp hối chỉ vì đã từ lâu, đấy là vật thú vị nhất bất ngờ trên đường của nó. Tuy vậy, tất cả chỉ là tò mò, khi người chết, sói sẽ bỏ đi ngay, để lại cho lũ kên kên. Đây là chuyến thức canh suốt đêm của nó, vì nó ở gần ngay đó lúc người đàn ông trần truồng kia bị ném ra khỏi xe ô tô trong đêm qua.
Trong buổi chiều tương đối mát mẻ đầu tiên, một nông dân Mexico (peóne theo tiếng lóng của Mexico) và cô con gái đi dọc con đường, len vào các bụi cây nhặt củi. Đúng hơn là người đàn ông đi lầm lì dưới bó củi nhẹ, còn cô bé nhảy lò cò hết chân này đến chân kia, nhảy chân sáo và chạy rồi đợi bố. Em là con một và bố em không muốn để em đi nhặt củi sợ bị bò cạp cắn, hoặc bị corallo, một loài rắn đỏ như san hô không có tín hiệu báo trước như rắn đuôi chuông, dù nó nhút nhát và hay xa lánh nhưng không có nghĩa là không nguy hiểm. Nó chỉ cắn khi bị dồn vào thế bí hoặc bị trêu trọc, rồi trườn đi và lặng lẽ rút vào dưới một khúc gỗ hoặc một tảng đá. Cô bé mang theo quyển Kinh thánh. Em giúp việc trong bếp của hội Truyền giáo Mennonite[1], nơi cha em làm quản gia từ lâu.
Cô bé bắt đầu hát làm lũ chim kên kên còn cách con đường khoảng một trăm mét vỗ cánh bay đi. Đàng nào chúng cũng phải đến các lùm cây trên núi cho an toàn trước khi trời tối. Con sói rút vào chỗ bóng râm dày đặc hơn. Nó nhận ra tiếng người đàn ông và cô con gái, và từ bảy năm trên đời nó đã biết họ có thể nguy hiểm cho nó. Nó đã theo dõi họ trên con đường đến hội truyền giáo không biết bao nhiêu lần, nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy nó. Những con chim lớn vỗ cánh bay trong ánh trời chiều khơi dậy sự tò mò của người cha và anh ta rảo bước. Không như con sói, anh có tính hiếu kỳ của người đi săn, anh nhớ lại có lần gặp một con hươu to bị rời từ vách núi xuống và sau đó là lũ chim kên kên lượn tròn. Anh bảo con gái đợi cách đó một quãng và thận trọng bước vào khu rừng rậm dọc theo con đường. Nghe thấy tiếng thở gấp và tiếng rít yếu ớt, anh vội rút con dao dài có cán nạm ngọc ra. Anh bò không một tiếng động tới thẳng chỗ có tiếng rít, ngửi thấy mùi máu giữa đám phân kên kên. Rồi nhìn thấy người đàn ông và anh vừa huýt còi ra hiệu vừa qùy xuống bắt mạch. Những lúc rỗi rãi, anh hay theo nhà truyền giáo đồng thời là bác sĩ trong những chuyến đi vất vả lên núi, và đã học được nhiều cách sơ cứu cơ bản. Lúc này anh đứng, huýt sáo hoà với người hấp hối và nhìn lên trời. Giống hầu hết dân da đỏ, ý nghĩ đầu tiên của anh là bỏ đi, tránh bất cứ mọi tiếp xúc nào với cảnh sát Liên bang. Nhưng viên bác sĩ đánh bạn với nhiều nhân viên liên bang và anh nhớ đến truyện ngụ ngôn về người hay làm phúc và nhìn xuống thân người, thôi thì đằng nào ta cũng giúp nhưng chắc là quá muộn rồi.
Anh ra khỏi bụi cây và bảo con gái chạy về hội truyền giáo cách đó nửa dặm, dưới thung lũng. Anh ngồi xổm bên lề đường và lăn lưỡi dao tới lui trên lớp sỏi. Cảnh tượng người bị thương trầm trọng làm tim anh đập nhanh hơn, nhưng anh vẫn bình tĩnh nhẩm lại câu chuyện tìm thấy người đó. Hồi trẻ ngoài việc là người đi săn anh đã từng là kẻ cướp vặt và hiểu rằng khi nói với các nhà chức trách, tốt nhất là phải giữ cho mọi sự thật đơn giản.
Ở hội truyền giáo, Diiler đang ngồi ăn món thăn lợn rán với dưa cải bắp và khoai tây. Cái radio V11F của ông ta ngân nga giai điệu của dàn nhạc Mariachi ở Chihuahua. Dù là một Mennonite và chính thức chê bai radio, ông cảm thấy xứng đáng có một số nhượng bộ nhất định và bắt đầu lắng nghe loại âm nhạc này từ mười năm nay, trước khi đến hội truyền giáo dưới chiêu bài đẩy nhanh việc học tiếng Tây Ban Nha thông dụng. To lớn và hồng hào, ông ta gần như kêu inh ỏi theo tiếng nhạc làm đám đàn bà trong bếp bật cười. Nhà thờ không cho phép uống rượu hoặc hút thuốc, nhưng Diller có một thói xấu không bị cấm là tính phàm ăn. Chiều thứ Năm nào ông cũng thưởng thức món thăn lợn nấu cho ông, như dấu vết duy nhất còn lại của cuộc sống ở Mỹ. Ông thích các món ăn Mexico hơn, và ăn nhiều đến mức trở thành truyền thuyết khắp vùng. Ông không phải là người mộ đạo nhiệt thành, nhưng ông hiểu chính cái nghề bác sĩ và tài khéo trong y học đã dán cho ông cái nhãn của Chúa Jésus, rất được sùng bái ở vùng núi kiệt quệ này. Ông không về Mỹ trong những chuyến nghỉ phép mỗi năm một tháng nữa. Cái cảnh ba mươi ngày ngồi ở Bắc Dakota và cầu nguyện cho những kẻ ngoại đạo trên toàn thế giới làm ông chán ngắt. Diller khá thích những kẻ ngoại đạo và vẻ đẹp dãi dầu của vùng h., những nỗi trớ trêu phải chịu đựng và thuyết định mệnh của thời tiền-Cơ đốc. Ông thích ăn thịt gà, thịt heo, heo sữa, dê và cừu mà dân chúng đưa đến làm quà khi ông thực hiện được một kỳ công nào đấy trong y học. Thậm chí ông quý cả anh chàng y tá Antonio ẻo lả, lúc nào cũng tìm ra cớ để lái xe đến Nogales hoặc Hermosillo. Một năm trước, cha đạo của hội truyền giáo đã đến thăm và hỏi Diller có phải Antonio là loại "hơi đặc biệt" không. Diller câm tịt, giữ kín tài nấu ăn của Antonio, anh ta biết nấu những món ăn lạ lùng không có trong sách, và hát rất hay những khúc ballade dù cho các giống trong khúc ca có khuynh hướng đổi giới tính.
Diller rên lên khi con gái của Mauro chạy ào vào, kêu tướng lên là có người bị thương trên núi. Cô bé lôi cái túi cứu thương ra chiếc Dodge Powerwagon nay dùng làm xe cấp cứu, có tấm vải bạt phủ nóc và lều ở đàng sau. Diller đi sau, mang theo món thịt hầm. Ông khóai món dưa bắp cải ở đáy đĩa đẫm mỡ heo. Diller đứng lại trên hiên của đồn điền và hít thật sâu mùi không khí ban chiều, mùi phân bón và mùi đinh hương ngọt ngào, những bông hao nhàu nát đang thối rữa, mùi của những tảng đá và cát quá nóng đang nhạt dần trong đêm. Diller yêu thích thung lũng vì nó có vẻ tối tăm và nhiều bóng râm ngay cả trong lúc nắng rực rỡ.
Tại hiện trường, Mauro cầm đèn pin soi trong lúc Diller lau mỡ heo dính trên bàn tay vào quần và cúi xuống thân người, đọc lời cầu nguyện rồi khám kỹ và dự đoán. Ông không tin người đó sẽ sống vì trong hai mươi bốn giờ đầu tiên thật bấp bênh, anh ta đã bị mất nước nghiêm trọng. Sọ không bị nứt nhưng tròng mắt đưa qua đưa lại cho thấy bị chận thương nặng. Diller lấy đèn bỏ túi ra và cúi xuống gần mắt người đàn ông trần truồng xem chỗ sưng phồng thành núm trong nhãn cầu, một chấn thương rất nghiêm trọng. Sau đó ông lướt đôi tay to lớn, thành thạo lên thân người, khẳng định bị gãy xương sườn và cánh tay trái. Diller luồn cánh tay xuống dưới thân người đàn ông và nâng anh ta lên. Mauro cầm túi và chiếu đèn soi đường.
Về đến bệnh viện, Diller làm việc suốt đêm có Mauro phục dịch. Ông muốn Antonio ở đó giúp nhưng anh chàng đã biến mất vì những lý do giả mạo như thường lệ. Diller hơi hoang mang vì người bệnh. Dưới ánh đèn pin, ông thấy mọi việc đáng thương hơn nữa, nạn nhân đã bị cuộc chiến ma tuý nổ ra gần biên giới hành hạ. Những kẻ tị nạn như thế này đã cung cấp cho Diller vài trường hợp thú vị nhất, xen kẽ với các nạn nhân ung thư của người cao tuổi thông thường, hay trộn Dilaudid mạnh với thuốc để dễ dàng lên thiên đường. Lúc đã lau sạch máu, mới thấy người đàn ông trần truồng này chắc chắn là người nước ngoài: tóc anh ta cắt rất đẹp, răng bọc vàng đắt tiền, móng tay cắt tỉa cẩn thận và làn da rám nắng mặn mà, thân thể lành lặn, cường tráng, mọi vẻ làm anh ta khác hẳn bọn buôn lậu.
Sắp rạng đông, Diller mỉm cười thấy mạch đã đều và có phản ứng với dung dịch trong tĩnh mạch. Ông thận trọng thăm khám kỹ chỗ xương hàm vỡ vụn, sau này sẽ phải làm phẫu thuật thẩm mỹ nếu anh ta muốn. Mauro lau làn da rám nắng bằng giấm và dùng gạc nóng lau hai tinh hoàn sưng phồng, nói đùa trong lúc làm việc mệt nhọc rằng đây là việc tốt nhất cho Antonio. Bác sĩ không nhịn được cười phá lên, dù đó là việc không thể trong lúc vẫn còn khó khăn như thế này. Bác sĩ hát La Paloma trong lúc băng bó các dẻ sườn, Mauro hoà theo bài hát tuyệt vời bằng cái nhịp trẻ con của anh ta.
Mauro và bác sĩ chuyển người đàn ông vào phòng riêng duy nhất trong bệnh viện rồi ra hành lang, con gái của Mauro dọn cà phê cho họ lúc trời vừa hé sáng. Diller nháy mắt với Mauro, cho anh ta một viên Dexamyl và tự uống một viên. Mauro mỉm cười vì điều bí mật nho nhỏ này, suốt thời gian cấp cứu họ không được ngủ, anh ta thích uống mescal [2] giấu dưới gầm giường của anh ta hơn, dù đã tuyên thệ công khai ở nhà thờ chống lại các loại rượu cồn. Ý nghĩ của bác sĩ nhất quán hơn, chỉ khi đã trưởng thành, ông mới nếm vị rượu cồn. Từ lâu rồi, vào năm thứ hai ông ở hội truyền giáo và vợ ông đã bỏ ra đi vĩnh viễn, giải thích trong cơn cuồng loạn rằng bà không thể chịu nổi cuộc sống ở Mexico và bà không còn yêu ông nữa, Diller đã ngồi trên mảnh sân đất suốt đêm và khóc trong lúc người giúp việc hoảng sợ, đứng trong hàng hiên của ấp trại theo dõi ông. Giữa cái đêm lâm ly ấy, Mauro đã mang đến cho ông cả lít mescal và ông đã uống một cách thèm khát. Diller ngủ suốt một ngày nóng bức trên đất, mọi người lần lượt che mặt cho ông và giữ cho ruồi khỏi bâu. Diller mỉm cười khi nhớ lại nỗi đau ấy.
Lúc này những tia năng đầu tiên đã nhuốm màu nâu vàng một bên đỉnh núi. Cái màu riêng biệt ấy làm màu nâu trên sườn núi đầy đá nhạt đi, luôn nhắc ông nhớ đến miếng sườn hươu và sáng nay, sườn hươu lại làm ông nhớ đến những lát thịt hươu. Thịt heo và dưa bắp cải không còn ngon nữa, ông quyết định bỏ và hoà nhập hoàn toàn với cộng đồng bản xứ. Con gà trống gáy làm ông nghĩ đến món gà quay. Người đầu bếp gọi to và Diller cùng Mauro vào bếp, họ ăn một bát to menudo và bánh bột bắp. Ông tin như dân Mexico rằng món lòng hầm nhừ rất bổ, dù ông sẽ không tin như thế nếu không thích món này. Ông là người có khẩu vị nhất định. Ông lo những sở thích ấy sẽ giết ông từ từ vì ông đã tăng đến 135 kí lô, dù ông có bộ khung to lớn và cơ bắp nặng nề. Dexamyl làm máu gõ trống trong tai ông, mang theo sự bất hạnh lan tràn khắp vùng quê, ông thích thú đùa bỡn với thần Chết. Sau bữa sáng, ông vừa đi dạo vừa hát những bài hát ngắn về tình yêu và cái chết. Ông thầm nhận xét rằng bệnh nhân cần có dạ dày thật khoẻ để chịu được nỗi đau khi hết cơn bất tỉnh.
Chiều hôm ấy, Hector, đại uý cảnh sát liên bang khu vực ghé đến lập biên bản về người bị thương. Lúc nửa ngày nhận báo cáo qua điện tín, ông ta vui vẻ ra lệnh cho trợ lý chuẩn bị xe jeep để đi suốt đêm. Đến thăm bác sĩ có nghĩa là được chén lu bù và chơi cờ suốt đêm, bàn luận về nghề làm vườn, về chính trị, về việc nuôi gia súc làm thức ăn, và cuối cùng là có dịp nói về sức khoẻ của ông ta, vì ở độ tuổi năm mươi lăm, Hector mắc chứng nghi bệnh và lo lắng về khả năng sinh dục yếu ớt của mình. Ông ta kính trọng sự mộ đạo sâu sắc của bác sĩ nên chỉ nhắc đến khía cạnh y học của khả năng tính dục một cách tế nhị, điều ấy làm bác sĩ thú vị và ông khuyên nên giảm uống rượu và hút thuốc lá, năng tập thể dục. Lời trêu chọc cuối cùng là gợi ý có lẽ Hector quên mất conchitas của ông ta vì những mối quan tâm thiêng liêng mất rồi. Gần đây bác sĩ cảm thấy rất hoảng vì đã thèm khát lúc ông chữa cho một cô gái sơn cước hấp dẫn bị bò cạp cắn vào chỗ trên cùng của bắp đùi. Ông đã cầu nguyện nhiệt thành nhưng có vẻ như nó chẳng giúp đỡ gì mấy, ý nghĩ của ông cứ trở lại những năm đầu lấy vợ ở miền Bắc Dakota, ông và người vợ trẻ măng của ông đã làm tình đến kiệt sức.
Khi Hector và trợ lý đến, họ đến ngay chỗ người bị thương nhằm giải quyết cho xong những thủ tục tẻ nhạt, để có thể vui chơi cả buổi tối. Bác sĩ cấm lấy vân tay vào lúc này, ông nói sẽ gởi vân tay ngay khi nào các vết thương khá hơn. Trong vụ này, ông sẽ gởi cả dấu vân tay của chính ông vì không muốn gây rắc rối cho bất cứ ai. Những người Mennonite không bao giờ giở luật ra với nhau và bác sĩ áp dụng nguyên tắc này cả trong lúc hành nghề. Ông chăm sóc cả phần hồn lẫn phần xác và tin rằng các nhà cầm quyền dân sự có đủ thiết bị để tiến hành công việc mà không cần ông trợ giúp. Hector rất mừng vì sẽ có chuyến trở lại để thẩm vấn, còn bác sì định sẽ xui bệnh nhân giả vờ mắc chứng quên nếu anh ta muốn thế, hoặc làm bất cứ việc gì miễn là thóat khỏi thói quan liêu và hình phạt nghiêm khắc theo luật dân sự của Mexico. Viên trợ lý lập một biên bản chiếu lệ với thông tin sơ sài của Mauro và sau đó họ đến quán rượu dưới thung lũng để gây ấn tượng với dân địa phương. Hector và bác sĩ ngồi ăn một bữa thịnh soạn nhiều món, Hector làm ra vẻ mệt nhọc như người đã xong công việc suốt một ngày dài và không muốn nhớ lại.
Ngày thứ ba sau khi tìm thấy người bị thương, Diller trở nên ngần ngại. Người đàn ông bị viêm phổi nhẹ và không phản ứng nhanh với Pénicillin, bác sĩ cầu nguyện cho anh ta không bị dị ứng. Diller không muốn làm hại anh ta nếu gửi trực thăng đến bệnh viện cao cấp hơn ở Hermosillo. Thêm hai ngày nữa, sốt đã dịu nhưng vẫn hôn mê. Lúc này Diller quyết định để anh ta hôn mê thêm hai ngày nữa mới gọi điện cho Hector. Ông thích kiểu làm việc tay đôi cân xứng và ông tò mò về người bị thương đến mức nóng lòng bịa ra nhiều lý do để giữ anh ta lại. Đêm trước buổi sáng hạn cuối cùng ông chú ý thấy Mauro đeo chuỗi vòng cổ bằng răng chó sói đến bên giường bệnh. Không ngờ gì nữa, chuỗi vòng là của mẹ Mauro, bà nuôi gia súc và là người giúp việc, tránh cho bà cái tiếng buôn bán dược thảo và làm nghề phù thủy. Diller thường giảng giải về những mối nguy hiểm của thói mê tín dị đoan, nhưng lúc này ông mỉm cười vì ý định tốt đẹp mà ông hiểu là một dạng yêu thương. Lúc ông vặn nhỏ đèn và rời đi, ông không nhận thấy người bị thương đang quan sát qua kẽ hở của một trong những mí mắt không bị bầm tím của anh ta.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương đang nheo mắt nhìn vào bóng tối và tiếng kêu vù vù khe khẽ của chiếc quạt trần cánh bằng gỗ sồi. Tên anh ta là Cochran và anh nghe thấy tiếng rền rĩ của chiếc máy phát điện chạy bằng diesel, tiếng vo ve của con muỗi duy nhất trong phòng, xa hơn và yếu hơn là tiếng nhạc vọng từ chiếc radio của bác sĩ, buồn bã và trữ tình một cách tàn nhẫn dường như làm đêm tối cũng bầm tím như thân thể anh ta vậy. Nhưng nước mắt anh đã cạn trong mấy ngày nửa thức vừa qua. Như bất cứ sinh vật nào đùa giỡn với cái chết, anh đã cố học được bản chất của sự đe doạ trước mắt. Anh biết lúc này chẳng còn mối đe doạ trực tiếp nữa, lẽ ra thấy nhẹ người anh lại cảm thấy như ngưng đọng, như thể anh đang đung đưa một mình trong bóng tối, trong lúc ở bên ngoài vạn vật tiếp tục xoay theo những phép tắc mà anh không còn tham dự nữa.
Anh vừa bị đánh – vượt xa mọi ý định báo thù. Anh coi sự trừng phạt như một sợi chỉ dài kéo ngược từ hiện tại, từ căn phòng này đến gần ngày anh ra đời. Chắc là do tác dụng của thuốc an thần, đầu óc anh có một sự lạ lùng mới mẻ làm anh nhớ mọi sự như những chấm li tuổi dọc theo sợi dây đến cái hiện tại khó mà chịu nổi. Anh không thể ngăn được thứ gì, lồng ngực anh không thể thoát khỏi những dải băng. Anh đau quá không thể ngủ được và ngày mai anh sẽ phải cho bác sĩ biết anh đã tỉnh, để giảm bớt nỗi đau. Anh vui vui vì tính kín đáo, vì ý chí quyết sống vượt qua mọi thứ của anh mà anh hiểu rất rõ. Anh đã trải qua nỗi ân hận lúc để lại vết nhơ từ đoạn đời này sang đoạn đời khác. Anh đã chán sự tiếc thương và sức lực duy nhất còn lại đêm ấy là để mường tượng mọi chuyện đã xảy ra như thế nào, như thế là may lắm rồi.
Đó là đêm dài nhất của anh, và sự sống kích động nó na ná như luồng gió khắc nghiệt, lạnh lẽo, thổi thông thống qua bóng tối căn phòng, đầu tiên là viên bác sĩ lẩm bẩm cầu nguyện, trước lúc đó có một bà lão treo chuỗi vòng vào cột giường và đặt bàn tay lên mắt anh, rồi đến một thanh niên với động tác của một vũ công kéo tuột tấm vải che để nhìn anh. Sau đó là một khoảng không dài, tăm tối chẳng có gì xen ngang, một cánh cửa chớp lách cách, trên đó anh nhìn thấy cái yếm thịt màu đỏ son trên cổ con chim kên kên và nghe thấy âm thanh trong yết hầu phát ra từ cặp mắt vàng khè của con sói lúc con chim vỗ cánh bay lên trời và con sói nhìn chằm chặp vào anh, cả hai không thể hiểu nhau ngoài những cử chỉ đơn giản và hơi thở của anh rít lên qua những chiếc răng vỡ. Trước đó, chiếc xe ô tô xả khí và nảy lên, còn anh nằm trong thùng xe máu chảy đầm đìa, cố nén ho để khạc máu trong cổ họng và việc đó rất đau đớn, gần như quá sức. Sau đó anh bị ném mạnh qua không khí, rơi qua bụi cây, ngực anh đập vào một tảng đá, rồi lăn tròn và đầu anh đập vào cái gì đó.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương tàn tệ như thế, vì anh đã bị thương nặng đủ để thay đổi hoàn toàn dòng đời, có phần theo cách ngược lại, lễ ban thánh thể lần đầu, không ít hơn sự thay đổi đột ngột đối với một người tầm thường, biến đổi một tín đồ Cơ đốc, sự nhập thiền của tín đồ đạo Phật. Tuy nhiên, có thể bỏ qua những ý nghĩ không mạch lạc vì anh đang đau đớn và nhìn vào thứ chúng ta muốn gọi là thực tế đơn giản, một khái niệm chúng ta sử dụng dễ dàng những lúc muốn tự dối mình thoát khỏi sự thối tha đặc biệt trong đời chúng ta.
Buổi sáng trước khi Mauro và con gái tìm thấy anh bên lề đường, trừ buổi sáng hôm sau, anh chỉ là một mẩu thịt ngắc ngoải đang thối rữa suốt từ ngày đến đêm, anh đã tỉnh trong một trạng thái hiếm có mà anh cho là tình yêu thương. Anh sống trong một căn hộ khép kín, đắt vừa phải ở ngoại ô Tucson, là ông chủ của ngôi nhà, trong mảnh sân sau nhỏ kín đáo có một cây đoan và ba sân tennis. Anh đã cho một người New York đã hồi phục có hiệu quả bệnh suyễn, phải đến kiếm tiền ở miền Đông, thuê lại khu nhà.
Anh đang yêu và gọi điện cho người yêu ngay từ lúc thức giấc, một cử chỉ hợp với tuổi trẻ hoặc trang thái mơ mộng của hai thập kỷ trước, hợp với những người đang yêu đắm đuối ở cuối thập niên ba mươi, đầu những năm bốn mươi. Họ nói chuyện vội vã, nhảy lung tung từ tiếng Anh sang tiếng Tây Ban Nha. Họ sẽ gặp nhau công khai được một lát, giải quyết một việc chung của họ rồi dạt vào một căn nhà gỗ nhỏ đã thuê sẵn, thường ở vùng biên giới phía Nam Agua Prieta, Mexico, trước kia dùng để săn chim cút.
Thực ra anh chưa làm được gì, anh nghĩ lúc tắm vòi hương sen. Suốt hai năm trời anh đã loay hoay đến kiệt sức trong cái thời buổi khó khăn này. Ở tuổi bốn mươi mốt, lúc dừng trước gương và cạo râu, anh không còn dừng lại thán phục hình dáng đẹp đẽ của mình nữa, cặp mắt anh thường mệt mỏi, để lộ nhiều dấu hiệu của một người hay uống thuốc an thần.
Anh lau khô người trong phòng khách, cho con chó săn lông xù tên là Doll ra khỏi cánh cửa trượt, và bắt đầu một loạt các bài tập yoga phức tạp. Anh dừng lại đặt đĩa La Mer của Débussy vào máy stereo và mỉm cười với bức tranh lớn anh đã phóng từ bức ảnh lớp năm của con gái anh. Vừa mỉm cười, bứt rứt vì lẻ loi, anh cảm thấy day dứt nhớ lại hồi ở Torrejón bên ngoài Madrid, cứ đến thứ Bảy anh và con gái lại đi chợ, mua đủ thứ cho bữa ăn linh đình ngày Chủ nhật. Con bé có mái tóc vàng lộng lẫy giống mẹ và hay hỏi đủ thứ về Tây Ban Nha, đất nước đầy mê hoặc đối với nó. Sau đó hai bố con đến tiệm cà phê, anh gọi nửa chai vang trắng, và một ly nước cam ép cho con gái, nó hút chầm chậm và nói bằng giọng trẻ con "jugo de naranja al natural", Những ông già Tây Ban Nha thích ngắm cô bé ăn một đĩa tapas, thân ái nhận xét về chiều sâu của "tâm hồn" cô bé đang ăn món mực dầm, ăn cả râu mực và tất tần tật. Giờ đây con bé đang sống với mẹ ở San Diego. Cuộc thao diễn ở Lào của anh giữa bao nhiêu thứ (rượu, gái, sự bất lực không thể ngồi yên) đã làm cuộc hôn nhân của họ tan vỡ. Hồi ở Lào, anh đã vẩy một phát Phantom 75 để lại một gã thuỷ thủ chết đứ đừ, và ở hai tháng với một số ngư dân thân thiện trong rừng rậm để tránh quân Pathet Lào và cộng sản. Về cơ bản, anh chống chính trị và giờ đây chiến tranh chỉ tái hiện trong những cơn ác mộng. Anh đã từng là phi công lái khu trục suốt hai mươi mốt năm, từ năm mười chín được ba chín tuổi, và lúc này không thể chịu được cảnh tượng một chiếc máy bay. Anh lái chiếc Mark IV mòn vẹt đi khắp nơi ở California, lao vào những cuộc chè chén lu bù.
Sau khi tập xong, anh uống một tách cà phê và kiểm tra ba cái vợt tennis C6 Trabert của anh. Ngày hôm kia, anh đã xếp thứ hai trong một cuộc thi đấu ở câu lạc bộ, chỉ thua một thanh niên trẻ bằng nửa tuổi anh, đang được coi là một tay nhà nghề có triển vọng hứa hẹn nhất ở Arizona. Hôm nay anh và bạn chơi được coi là một cặp đánh đôi nhiều khả năng thắng, nhất là anh. Hôm qua tỷ số là 7-5, 4-6 và 6-4 trong một ngày rất nóng và ngay cả khi đứng thứ hai, anh biết anh sẽ không đứng thứ ba. Tibey đã sai thuộc hạ của anh ta đặt một thùng Dom Perignon trong xe với một bông hồng trắng muốt, lẻ loi cài trên tấm thiệp. Nhìn bông hồng trắng anh không thể đoán ra và nghĩ đến Miryea, vợ của Tibey.
Tên thật của Tibey là Baldassaro Mendez. Giống như nhiều người Mexico quá ư giàu có, anh ta có một ngôi nhà dự phòng ở Mỹ. họ là một cộng đồng nhỏ và đến dự tiệc ở nhà nhau tại Palm Beach, Dallas, Phoenix và San Antonio. Họ đầu tư chiều sâu vào bất động sản, một kiểu kinh doanh đơn giản nhất đỡ phải trông coi, và dễ dàng bước vào các giới trong xã hội vì sự giàu có ghê gớm của họ và sự quyến rũ của dân lục địa. Tibey sử dụng anh như một đấu thủ gian lận trong các cuộc thi đấu ở nhà anh ta, và Cochran thán phục sức sống thô lỗ của Tibey. Cochran luôn từ chối tiền của Tibey dù anh nhận lời đến thành phố Mexico, ở đó là cặp đánh đôi họ đà lôi kéo hai gã Texas vào một trận đấu trên nóc nhà ở Camino Real. Họ bỏ túi ba ngàn đô la, gần bằng số tiền Tibey mất bay cho một bữa tiệc hai mươi người ở Forquet Miryea. Anh để những cái vợt xuống, thấy dây đã căng rất chuẩn. Anh lấy bức ảnh trang xã hội trong ví ra ngắm hình dáng hững hờ, mảnh dẻ của nàng đang cưỡi con ngựa thuần chủng. Một sự vô lý hiển nhiên làm sao. Anh đã trải qua nhiều cuộc chiến trên tình trường đủ để coi tình yêu gần như một thứ bệnh, một quan niệm phổ biến ngày xưa, hồi thế giới có vẻ như trẻ hơn và sáng suốt hơn.
Anh nằm trên sàn nhà và thở thật sâu, cố đoán đầu mối câu chuyện đang hình thành trong đầu. Anh hay cười nhạo khi các phi công khác có linh cảm về điềm gở, cứ như cảm giác tổn thất luôn có sẵn dưới xương ức của họ và bắt đầu lan toả. Nhưng nó đã xảy ra vào ngày có chuyến công cán suýt chết của anh, một van điều tiết không thể điều khiển nổi, một loại trôi tự do nghĩ mà sợ. Doll cào cào bên cánh cửa trượt và anh để nó vào, phun nước cho nó mát rồi vuốt ve nó trong cái ổ trên đi văng của nó. Doll lúc nào cũng mảnh khảnh, dịu dàng, lặng lẽ và anh ngạc nhiên mỗi khi đưa nó ra cánh đồng, nó trở thành một cái máy săn rất hăng hái.
Ai cũng mong có một giới hạn bí ẩn trong đời, để chẳng phải làm gì đặc biệt cũng được yên ổn. Trước khi gặp Miryea, anh đã có một cuộc tình ngắn ngủi với một cô gái ở Corpus Christi, vừa tốt nghiệp Wellesley, nhưng sự huyền bí sớm tan biến vì ác ý, anh nhận ra rằng anh đã trói mình vào chuyện yêu đương này chỉ để khỏi buồn chán. Anh đã mất hai năm cố thu xếp cuộc sống dân sự, và hiểu rằng chẳng bao giờ anh giải quyết mọi việc một cách chính xác như trong hải quân, anh luôn có chuyện này nọ với người mẹ hay cáu, và anh là đứa con nuôi mồ côi mà bà đối đãi chẳng khác gì anh hành nghề vậy. Cô gái Texas ấy xinh đẹp, chân dài và sáng dạ nhưng quá trẻ và gàn gàn, cô như một ngôi nhà muốn được người ta lui tới, còn Miryea dù chỉ lớn hơn cô vài tuổi lại là ngôi nhà năng được lui tới. Anh chơi tennis ở nhà Tibey đã hơn ba tháng, song Miryea nhận ra anh chỉ vì tình cờ. Hôm ấy, sau bữa tối ở nhà Tibey, mọi người uống quá nhiều rượu vang, nàng bắt gặp anh đang ngắm nhìn những quyển sách trong thư viện của nàng, trong luc những người đàn ông khác lao vào cá cược rất cao cho ván billard, còn cánh đàn bà đang trò chuyện về những Givenchys mới và vì sao Halston lại trở thành uỷ mị.
Sau nhiều chuyến du lịch ở Guantánamo, lần đầu tiên anh làm hướng dẫn và chuyến du lịch sau đó ở Torrejón anh đã nói tiếng Tây Ban Nha trôi chảy. Anh không chịu làm kẻ ngu, ngay từ hồi niên thiếu ở Indiana anh đã tháo rời một chiếc Ford V-8 xem nó hoạt động ra sao, và gia nhập hải quân chỉ vì muốn làm việc với các động cơ phản lực. Anh luôn ngạc nhiên sao dân chúng lại đánh giá thấp sự hiểu biết về máy khu trục đến thế. Anh lao vào học tiếng Tây Ban Nha cẩn thận và có phương pháp. Miền Trung tây đã nổi tiếng về loại thanh niên nông dân độc thân muốn hiểu biết mọi thứ, và ở Guantánamo, anh rất ngạc nhiên thấy người ta nói được nhiều thứ tiếng khác nhau, một câu hỏi không kém phần hấp dẫn. Những anh chàng nông dân ấy rất biết nhìn xa trông rộng. Cochran thích sự sáng tạo trong ngôn ngữ và học tiếng Tây Ban Nha như một cuộc thử nghiệm, tìm tòi như một nhà thông thái ngốc nghếch, quen với lịch Tàu mà vẫn khư khư giữ tiểu thuyết và thơ. Không người nào trong số bạn bè dám hỏi vì sao anh là người đứng đầu thật tự nhiên và là người giỏi nhất trong mọi việc anh chọn làm, dù là đánh pool, bơi với một ống thở và chơi tennis, luôn giữ vai trò độc tôn trong những chuyện nhảm nhí như một thứ bẩm sinh và anh say mê hơn, táo bạo hơn mọi người, đến mức đáng ghen tị.
Lúc con người xinh đẹp ấy đến gần anh đang cầm một quyển sách, tuyển tập Lorca mà anh rất quen in trên giấy vỏ hành[3], bìa bọc da ở Barcelona. Anh đã hoàn toàn nhầm lẫn vì thái độ hờ hững của nàng suốt ba tháng qua. Sự thể đã vượt xa ý định đánh "một cú" vào khu vực căng thẳng dành riêng. Thành thử lúc nhìn thấy nàng anh mất hết vẻ duyên dáng, thoải mái và chủ động của mình. Anh cảm thấy nàng chỉ cần liếc mắt là anh đã bị gục ngã và hôm trước trong lúc đang bơi, anh đã phải uống một ly mới dám nhìn nàng cắn miếng bánh mì kẹp trước khi nàng quyết định ngủ trưa, và Tibey đã nhún vai, một cử chỉ phổ biến tỏ thái độ không hiểu. Anh nghĩ với tư cách là bạn của Tibey, nàng cho anh là một kẻ làm ăn to đầu mà dại và anh đã khéo léo làm mọi thứ để xua tan ý nghĩ của nàng. Lúc nàng áp sát vào anh bên giá sách, anh nhận ra đây là lần đầu tiên anh nói chuyện với nàng chỉ có một mình. Nàng gõ nhẹ vào quyển sách trongtay anh và đọc tên sách. Nàng mỉm cười và trích dẫn Lorca[4] "Quiero dormir el sueno de las mansanas, alearme tumulto de los cêmnterios…" ("Tôi muốn ngủ một giấc diệu huyền, xa cách sự hỗn độn của các nghĩa trang…") Anh tưởng như chưa bao giờ nghe thấy lời nào đẹp hơn và nhìn đăm đăm lên trần nhà, đỏ mặt như một cậu học sinh thật thà, anh cũng trích dẫn bài thơ ấy đáp lại "Tu vientre es una lucha de raices/ y tus labios una alba sin nàngntrno / Bajo las rosas tibias de la cama / los muertos gimen esperando tuno" ("Bụng em là chiến trường của mọi gốc rễ / môi em là ánh bình minh mờ tỏ / dưới những bông hồng ấm áp trên giường / người chết rên rỉ đợi đến lượt").
Nàng nhìn anh đăm đăm trong giây lát và thái dương anh đập loạn xạ. Nàng đỏ bừng mặt và ngoảnh nhìn đi, còn anh muốn nói một câu ngốc nghếch nào đó cho đỡ căng thẳng nhưng không thể tìm ra lời. Nàng hếch cằm như đang nhìn một vật xa xăm và lúc nhìn vào cổ nàng, anh tưởng như thấy mùi thơm hoà trộn giữa cỏ ba lá và quả cam. Anh đánh rơi quyển sách xuống sàn và nàng cười phá lên rồi bỏ đi. Anh nốc hết một ly đầy brandy, rượu cứ dâng lên trong cổ làm anh trào nước mắt.
Đêm ấy lúc về đến nhà cứ đi đi lại lại không ngủ, bất chấp cả thuốc ngủ lẫn rượu. Tảng sáng, anh đưa con Doll vào sa mạc và bảo nó bắt vài con chim cút nhưng nó chẳng mấy hứng thú vì lúc này là tháng Tám, chưa đến mùa săn và anh không mang theo súng. Nó đứng sững, vểnh mõm chỉ một con cú nhỏ trong bụi mesquite[5], rồi chạy thành những vòng tròn để đùa, trêu chọc chủ. Anh quyết định đi một chuyến dài để ổn định. Anh chẳng còn là cậu bé mười tám, có quan hệ với một người đàn bà làm anh hoàn toàn mất tự chủ. Nàng làm anh nhớ lại rõ ràng những người phụ nữ của Modigliani[6] anh đã xem trong một bảo tàng ở Paris. Anh nhớ lúc xem tranh, anh đã nói có người đàn bà nào như thế mình sẽ yêu mất thôi. Thật buồn cười. Doll cào cào và rên rỉ bên chân anh lúc anh nhìn mà chẳng thấy gì vào phong cảnh toàn những cây ngọc giá và cây mesquite.
Trở về anh đau đầu dữ dội và thay băng trong máy ghi âm đến năm, sáu lần. Anh nghe Tên cướp biển bốn mươi tuổi của Jimmy Buffet và tràn ngập cảm giác tự khinh mình. Anh bảo Doll ngồi vào ghế trước mặt, một việc hiếm hoi, vừa vuốt đầu nó vừa nghĩ sẽ vui vẻ trở lại với các cô hầu bàn và tiếp viên. Anh vốn ghét những phụ nữ giàu có. Vài tháng trước, anh đi bơi với một cô gái ở Corpus Chirsti, cô ta quên tháo chiếc đồng hồ Tiffany và anh đã nghĩ chiếc đồng hồ ấy có thể nuôi sống gia đình anh cả một năm hồi anh đang ở Indiana. Họ có một nông trại nhỏ, một hiệu sửa chữa ô tô và máy kéo. Lúc bức bách, cha anh có thể bán một bộ ắc quy lây ba con gà cho bữa ăn ngày chủ nhật. Anh không hiểu điều gì làm anh mê mẩn vợ của một nhà triệu phú Mexico đến thế, hơn cả một phi vụ lớn vì Tibey sở hữu một máy bay phản lực Lear và một cặp Piper Comanche dành cho các sân bay nhỏ hơn. Anh quyết định gọi Vonetta khi về đến nhà. Cô là chủ một tiệm ăn chuyên các món nướng, trạc tuổi anh và là một bạn tình tuyệt vời, đã ly hôn hai lần. Cô đã theo anh vài cuộc đi săn và câu cá, có thể quay chim cút ngon lành ngya trên giường bằng than mesquite. Lẽ tất nhiên cô hay kể những chuyện vui thông tục và tường nhà cô đầy những bức tranh trên nền nhung đen, gồm một con bò đực có cái nhìn hung hãn và một buổi hòng hôn Tahiti. Một buổi sáng, anh phát cáu với cô vì lúc thức dậy thấy cô đã ra ngoài, đang rửa xe cho anh.
Lúc về đến nhà, anh uống hai viên thuốc ngủ, tắm một chầu nước nóng và cố lết đến giường, lấy gối đè lên điện thoại. Anh cười mỉm vì cảm thấy buồn ngủ, nghĩ đến bức thư mới nhận được của cha. Anh gởi cho con gái tấm ảnh của anh, tay cầm cúp trong một cuộc thi đấu tennis. Vợ anh đã làm đám cưới với ông anh cả của anh, hiện đang làm việc với cha trên con tàu đánh cá ngừ của gia đình ngoài khơi San Diego. Họ đã rời Indiana từ hồi anh ở độ tuổi thiếu niên, sự kiện ấy vẫn còn khơi dậy nỗi buồn trong lòng anh nhưng cha anh đang làm ăn khấm khá ở California. Trong thư ông viết "Cha đã xem ảnh, tuyệt lắm. Bao giờ con chán việc mặc quần đùi chạy quanh sân, trên tàu luôn có chỗ cho con. Yêu con. Cha."
Nhưng lúc thức dậy vào giữa trưa vì tiếng gõ cửa, cơn ác mộng lại bắt đầu. Miryea cho người đưa tin mang đến một hộp sách trong thư viện của nàng, bọc gói cẩn thận, tất cả đều đóng bìa da, có nhiều ghi chú của nàng bên lề. Có vài cuốn tiểu thuyết của Barója, có cả Gia đình Pacual Duarte của Camilo J. Cela, nina Huanca của Faustino Gonzalez-Aller, những quyển thơ của Machado, Guillén, Octavio Paz, Neruda và Nicanor Parra. Bức thư ngắn ngủi chỉ viết "Đây là một vài quyển ưa thích của tôi. Hy vọng anh cũng thích chúng. Miryea." Nàng viết thêm dòng tái bút "la Luz del entendimiento / me hace ser muy comedio". ("Ánh sáng của trí tuệ / làm tôi thành người biết suy xét nhất").
Anh uống liền ba tách cà phê, thêm brandy vào tách thứ ba, tìm nguồn gốc những câu trích dẫn mà anh cho là của Lorca. Cuối cùng anh tìm thấy trong La Casada Infiel ("Người vợ bất trung"). Anh rót thêm ly nữa và cầm lấy điện thoại nhưng chỉ có người hầu nói Señor Mendez đang ở Mérida. Anh không dám hỏi thẳng Miryea. Anh đi quanh phòng khách như mê sảng và nguyền rủa. Lúc này anh không thể ghé qua, giả vờ gặp Tibey được nữa. Những người hầu của Tibey hình như cũng là vệ sĩ, chẳng ai có vẻ lờ phờ của người hầu thông thường. Lần đầu tiên anh tự cho phép mình hình dung Miryea khoả thân. Anh nguyền rủa và ném mạnh cái ly vào tường bên trên đi văng. Con Doll sủa nhắng lên và anh cho nó cái bánh mì nhỏ kẹp thịt bò rán cho nó yên. Anh quay số nhà Tibey lần nữa, hy vọng có thể nàng trả lời nhưng vẫn là người hầu đó, cứ như anh ta dính lấy điện thoại vật. Anh lấy một khẩu su"ng săn trong tủ đựng súng, định đi bắn đĩa đất sét song lại để vào chỗ cũ, biết rằng mình chẳng thích thú cũng như không thể tập trung. Anh đi giày ống, nghĩ một chuyến dài tản bộ ban đêm trong sa mạc có thể làm anh bình tĩnh trở lại.
Anh sắp chui vào xe của anh thì nàng đỗ xe vào chỗ trống cạnh anh. Anh chết lặng lúc nàng nói nàng không muốn làm gián đoạn buổi tối của anh và anh trả lời không sao. Nàng vuốt mái tóc ra sau và sửa lại chiếc khăn quấn quanh cổ rồi cười vì tình trạng không nói nên lời của anh. Anh cầm lấy tay nàng và hôn, như một chàng ngốc phong nhã. Nàng hôn bàn tay anh, rồi cắn nó và lại cười:
- Em đang nghĩ đến việc sẽ ở với anh một thời gian dài.
Họ làm tình suốt buổi tối, nhưng lúc chín giờ đêm nàng nói phải về để tránh mọi sự nghi ngờ. Anh bảo Tibey đang ở Mérida, và nàng nói em có một nửa tá chồng sẽ giết bất cứ kẻ nào xúc phạm đến em. Rồi nàng bảo anh ra khỏi phòng vì nàng muốn viết cho anh một bức thư, và đến sáng anh mới được mở. Nàng ra đi trong lúc anh đang đứng đợi trong buồng tắm, sung sướng ngắm mình trong gương. Anh nghe tiếng cánh cửa đóng lại và chạy vội ra khỏi buồng tắm và lao ra cửa, chỉ kịp nhìn thấy nàng chui vào chiếc BMW trắng của nàng. Nàng vẫy tay và phóng vụt đi. Doll gặp anh ở cửa. Bất cứ lúc nào có phụ nữ đến thăm anh, nó cũng ngủ hoặc giả vờ ngủ suốt với vẻ bẽn lẽn vì ghen tuông. Anh bóc toạc bức thư, chỉ thấy nàng viết nàng ghét nói lời chia tay và lặp đi lặp lại "Em yêu anh" tới bảy lần. Anh vừa nướng một miếng thịt lớn vừa hát, loạng choạng trên bếp nhưng chỉ ăn hết một nửa rồi liệng cả đĩa xuống cho Doll. Đêm ấy lần đầu tiên trong nhiều tháng, anh ngủ rất ngon. Cứ như thể anh đã vượt qua được căn bệnh đau răng kéo dài và khủng khiếp.
Tất cả mọi chuyện chỉ mới xảy ra ba tuần trước đây. Sự khiếp đảm lan khắp người lúc anh thu xếp túi tennis không phải là không có căn cứ. Một buổi tối nàng đổ cà phê nóng lên bộ ngực trần của nàng và khóc nức nở. Anh chạy kiếm thuốc pô mát nhưng nàng xua tay bảo nàng không bị bỏng, chỉ buồn vì câu chuyện sẽ không đi đến đâu. Anh cố hôn lên vết cà phê hồng hồng trên bộ ngực trắng nõn nà của nàng và nàng như hóa rồ, yêu cầu anh đừng chạm đến nàng. Anh đứng ngây ra đó suốt nửa giờ lúc nàng ngồi cứng ngắc nhìn anh trân trân. Chưa bao giờ anh thấy một thân hình đẹp trọn vẹn đến thế, cuối cùng anh quỳ xuống hôn lên đầu gối nàng và nàng kéo anh vào với nàng. Anh vội vã nói với nàng rằng anh đã sắp đặt mọi kế hoạch, anh sẽ rút hết số tiền tiết kiệm và họ sẽ bỏ trốn đến Seville là thành phố anh ưa thích trên trái đất này, ở đấy sẽ không có ai tìm ra họ. Nhưng nàng nói nếu anh nhắc đến việc đó một lần nữa, nàng sẽ chẳng bao giờ đến gặp anh. Đêm ấy lúc ra về, nàng tỏ ra lạnh lùng kỳ lạ với anh.
Không người nào trong bọn họ biết rằng lúc họ hôn nhau bên xe nàng có một "người hầu" dựa vào cây cọ cách đó một trăm mét và theo dõi.
Lời cảnh báo thực sự và phá vỡ sự bí mật của họ đã đến, lúc anh sung sướng thú nhận cuộc tình của mình với người bạn đánh đôi, anh ta tái mét mặt ngay lập tức. Đó là người bạn duy nhất, là người tâm phúc của anh ở Tucson và là phi công của hãng Aeromexico. Anh ta bảo anh là đồ đầu đất, là đồ ngu mới không biết vì sao người ta gọi Mendez là Tibey, anh không hiểu và sửng sốt trước phản ứng ấy. Người bạn nói:
- Tibey là tiburón, nghĩa là cá mập. Ngày mai cậu hãy đi ngay khỏi đây và đừng bao giờ trở lại. Thằng ấy mà nổi điên lên sẽ giết cậu chết tươi, nếu cậu không chịu đi. Cậu sẽ bị vùi sâu trong sa mạc đấy.
Anh đánh bạn và người bạn có vẻ không thèm để ý, rót hai cốc vại cho họ và nói anh ta có nhiều mối quan hệ, có thể làm một hộ chiếu giả khá an toàn để giữ bí mật, ngoài ra có thể cho Cochran tiền nếu anh cần.
Thật là một buổi tối đầy đe doạ và kinh hãi, nhưng hôm sau anh thức dậy có vẻ yên ổn. Song anh lại kể với Miryea và nàng cười phá lên, tiếng cười của nàng trong vắt như trẻ con và nói đừng ngốc thế, anh ta sẽ không giết anh đâu, anh ta sẽ giết em rồi nàng không cho nói lại chuyện ấy. Việc ấy mới xảy ra có mấy ngày trước. Ngay sau cuộc thi đấu, họ có ba ngày trọn vẹn bên nhau vì Tibey đang ở Caracas. Nàng bày trò đi thăm người ch. là vợ một nhà ngoại giao của Liên Hiệp Quốc ở New York. Sau cuộc thi đấu, tài xế đưa nàng ra sân bay và anh đón nàng ở đấy, họ đến Douglas, một thành phố biên giới ở bên kia Agua Prieta, và sáng hôm sau sẽ đến một căn nhà gỗ nhỏ.
Mọi việc suôn sẻ trừ cuộc thi tennis kéo dài đến tận chiều. Anh không thể thấy Miryea trong đám đông và sau khi thắng ván đầu nhờ người bạn cùng chơi, họ thua ván thứ hai 6-2 và bắt đầu ván thứ ba thật tệ. Người bạn quắc mắt nhìn anh và anh cảm thấy đôi chân nặng như chì. Anh quát một người phụ nữ trong đám đông đã đứng dậy lúc anh giao bóng. Rồi Miryea vào và bẽn lẽn nháy mắt với anh, anh nhớ anh đã hạnh phúc biết chừng nào và kết thúc ván thứ ba rất nhanh. Lúc anh đang tắm, tài xế của Tibey vào phòng thay quần áo, vô tình đưa chiếc phong bì cho anh và báo tin Señor Tibey muốn tặng anh một món quà. Lau khô người xong, anh mở phong bì và thấy tấm vé một chiều hạng nhất đi Paris rồi đến Madrid cùng mấy ngàn đô la toàn tờ một trăm và một bức thư ngắn viết từ nhiều ngày trước "Tôi biết anh sẽ thắng, bạn của anh". Anh kiểm tra tấm vé vài lần, thầm nghĩ có lẽ do nhầm lẫn nên đã quên lượt khứ hồi. Anh quyết định không nói chuyện này với Miryea. Phá hỏng kỳ nghỉ cuối tuần làm gì kia chứ? Anh nghĩ và cô' át nỗi bứt rứt mà trong thâm tâm anh cảm thấy thật sâu sắc, rõ ràng.
Trên đường ra sân bay, anh ghé vào căn hộ đón Doll và lấy túi. Anh uống vội một ly vang và cố xua cơn cồn cào cứ ào đến từng đợt. Anh cười thầm, nghĩ đến những năm đã qua thường là ở Mach II[7], những khúc quanh, khúc ngoặt trên bầu trời Việt Nam, Lào, và Cam pu chia, thỉnh thoảng lại vãi tè ra quần lúc tránh tên lửa. Hoặc lúc vọt khỏi vịnh Eglin khi tia lửa điện bắt đầu thiêu huỷ chiếc Phantom, hay những lần hạ cánh suýt chết trong đêm. Người bạn thân nhất của anh đã bị thủng máy bay ở Boca Chica gần Key West, sau khi sống sót qua một trăm phi vụ ở Đông Nam Á. Anh thường coi cuộc sống dân sự là một ân huệ và mối hiểm nghèo mới mẻ này làm anh vừa bực mình vừa phấn khích, tuyến thượng thận cứ dồn lên như cảm giác của bất cứ loài động vật có vú nào.
Gần đến sân bay, bầu trời Tucson trông như phồng lên và bẩn thỉu vì sắc vàng do khí thải của xe hơi. Một cuộn băng bị kẹt và lúc anh kéo, nó trải ra như sợi mì khắp chỗ ngồi. Mặc dù có điều hoà nhiệt độ, trong xe vẫn nặc mùi ozone và anh mong mỏi chuyến đi xuyên núi với Miryea. Anh quyết định bỏ qua chặng nghỉ ở khách sạn và Douglas. Họ sẽ ăn trưa tại một nhà hàng lịch sự ở Agua Prieta, rồi đến căn nhà gỗ nhỏ gần Colonia Marelas lúc đêm xuống. Biết đâu Tibey chẳng có bạn bè ở Douglas, và nỗi lo cho chuyến đi càng tăng thêm khi nghĩ đến việc bị bắt quả tang trong khách sạn. Người bạn ở hãng Aeromexico của anh quả quyết rằng Tibey dính dấp đến mọi loại mánh khóe về tài chính cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, cả những việc làm ăn chính đáng lẫn vận chuyển heroin qua biên giới. Ngày thứ Hai lúc về đến nhà, anh sẽ gọi điện cho một người bạn cũ ở Tình báo hải quân để kiểm tra về Tibey qua Washington. Tuy vậy việc đó chẳng quan trọng, anh rất mến Tibey và ba tháng qua họ đã chuyển từ mối quan hệ quen biết tình cờ thành một thứ gần như bạn bè. Ba tuần gần đây với Miryea gây cho anh nỗi đau nhất định vì mặc cảm tội lỗi, nhưng anh yêu nàng không sao chịu nổi và anh bám chặt lấy mối tình này, như một thứ lớn lao đầu tiên suốt bao năm tháng trong đời. Nói tóm lại, anh tương tư như một cậu học trò trung học loại đặc biệt nhậy cảm, băn khoăn không biết có dám chia xẻ bài thơ với người mình yêu hoặc sợ cô nàng cười nhạo. Anh đọc bài thờ của nàng vì sự yểu điệu dịu dàng, sự lãng mạn của nàng nhanh chóng hoà quyện với anh, họ đắm chìm trong trạng thái yêu đương ngây ngất, trạng thái kéo họ trở lại những cảm xúc làm họ tươi trẻ lại dù đang ở độ tuổi nào. Chuyện ấy xảy ra từ lứa tuổi học trò đến những người về hưu, sự gắn kết ngẫu nhiên, chắc chắn của hai tâm hồn và thể xác thường dẫn đến hậu quả kinh hoàng và bất hạnh, vì quá nhiều sức sống tiềm tàng được giải phóng. Đã từ lâu anh không cảm thấy bất cứ việc gì hơi giống như thế, anh đã có đến nửa tá mối tình mê đắm với đàn bà, từ nữ diễn viên truyền hình ở Madrid đến cô gái Texas gần đây, chưa tính đến cuộc hôn nhân của anh chỉ tăng thêm tình bạn bè trìu mến hơn bất cứ thứ gì. Vợ anh là nữ y tá ở căn cứ Guam, một cô gái nông dân người Indiana và họ lấy nhau gần như chỉ vì ảnh hưởng của nỗi buồn nhớ quê hương.
Ở lối vào Braniff, anh nhét gọn tờ mười đô la cho người phu khuân vác nhờ để mắt trông hộ chiếc xe và đi thẳng đến phòng đợi V.I.P. nơi Miryea đang ngồi nhấm nháp ly đồ uống, cực kỳ hấp dẫn và bình tĩnh. Anh uống martini Stoclichnaya và nàng kể với anh rằng nàng đã phải giở mánh khoé lúc kiểm tra cái túi đi New York đầy những quần áo, nói là quà tặng cho chị gái. Cả hai đều thu hút sự chú ý nhiều hơn họ tưởng; anh rám nắng và cường tráng, hoàn hảo không chê vào đâu được, trông trẻ hơn tuổi thật đến năm sáu tuổi nếu không nhìn kỹ quanh mắt, anh ăn mặc đơn giản nhưng đắt tiền với chiếc Rolex ở cổ tay. Còn nàng thu hút sự chú ý như một cơn lốc ở khắp mọi nơi, nhất là khi khán giả là loại người thời lưu, họ đoán nàng ở Rome, London hoặc Paris. Nàng sinh ở thành phố Mexico, nguồn gốc Guatemalan-Barcelona, học ở Lausanne và Paris. Nàng đã trải qua nhiều năm thanh xuân (nàng hai mươi bảy tuổi) là người lạnh lùng, trung lập và trang nhã, dưới lớp vỏ ấy nung nấu một phụ nữ trẻ đam mê và hiểu biết. Nàng hơi thấp hơn anh, có một vẻ yêu kiều hầu như dễ sợ dù nàng làm bất cứ cử chỉ giản dị nào như ngồi trong phòng đợi Braniff, châm điếu thuốc lá và xem tờ tạp chí, nhiều con mắt vẫn đổ dồn vào nàng. Trong lúc ấy, một người đàn ông lớn tuổi hơn, thân hình chắc nịch có chiếc cặp da dê thỉnh thoảng lại nhìn từ sau tờ Forbes. Anh ta là trung uý của Tibey ở thành phố Mexico mà nàng không nhận ra. Lúc họ rời đi, anh ta đi theo làm như ngẫu nhiên và gọi một cú điện thoại, rồi tách khỏi họ ở lối đi đầu tiên trên đường ra cầu thang máy bay.
Trong xe, nàng vô cùng hạnh phúc, với tâm trạng trẻ thơ, nàng tua lại cuộn băng và hát cho anh nghe những bài dân ca Guađalajaran anh thích. Ra ngoài ranh giới thành phố, nàng lôi túi của nàng ở ghế sau và thay bộ complet trang trọng Balenciaga bằng bộ váy áo mùa hè nhẹ nhàng. Anh nói anh không thể chịu nổi khi nhìn nàng ngồi đó với tốc độ bảy mươi dặm một giờ, nàng nói anh yêu của em chẳng ai bắt anh phải chịu, thế là anh lái xe rời con đường vắng vẻ và họ làm tình ngay lúc cuối chiều, ưỡn cong người trên mui xe. Cách đấy khoảng bốn trăm mét, trên ngọn đồi nhỏ có một người đàn ông quan sát họ qua chiếc ống nhòm Zeiss-Ikon. Gã dựa sát vào chiếc xe tải nhỏ không biển số và thầm thở dài lúc đôi chân Miryea giơ lên, hạ xuống và quấn lấy bạn tình. Lấy một lon Tres Equis trong thùng lạnh trên ghế, gã cảm thấy phát sốt như không khí nóng nực vì cái cảnh chập chờn, vặn vẹo qua ống nhòm.
Gã nghĩ thầm nếu Tiburón ở đây, chắc anh ta đã rút phắt khẩu súng trường dưới ghế mà bắn họ chết tươi, như bắn một con hươu hay con dê núi. Trong lúc gã quan sát, cuộc tình của họ đã xong, miệng nàng há ra trong tiếng cười ròn rã đủ cho gã nghe thấy. Nàng nhảy theo nhiều vòng tròn và người quan sát toát mồ hôi lúc người đàn ông sụp xuống mặt đất và la hét gì đó. Gã hạ thấp ông nhòm xuống trong giây lát và nghĩ không thể chê trách thị hiếu của thằng cha nước ngoài này, nàng đẹp như một ảo mộng, còn gã chỉ nhìn thấy nàng một lần từ xa khi Tiburón đến thăm bà mẹ già ở Durango một tuần lễ.
Trở vào xe, nàng nói nàng cảm thấy mình như một ả gái điếm, người đẫm mồ hôi, mái tóc ẩm ướt dính bết vào thái dương. thật phi thường, được đi một chuyến bằng xe vì từ nhiều năm nay nàng chẳng làm gì ngoài những chuyến bay. Anh bắt đầu băn khoăn, hơi hoang mang về chiếc xe tải nhỏ đi sau độ một phần tư dặm, nghĩ anh phải chú ý đến nó trước khi họ ngừng xe. Nhưng chiếc xe tải rẽ vào Benson và anh thôi lo lắng cho đến lúc họ đi qua Tombstone, nàng nhắm mắt lại và nghĩ cái tên của thành phố này mới kinh khủng làm sao! (Tombstone: bia mộ). Anh nhớ lại hồi mình mới lên mười, anh đã làm một tấm bia mộ cho con ngựa của anh mắc vào dây thép gai và bị thương nặng đến mức cha anh phải bắn chết nó. Anh đã viết bằng sơn lên một tảng đá lớn: SUSY, SINH NĂM 1943 CHẾT NĂM 1946. NẰM Ở ĐÂY, MỘT CON NGỰA CÁI MORGAN CỪ KHÔI, ĐƯỢC J.COCHRAN YÊU QUÝ VÀ THƯƠNG TIẾC KHI NÓ QUA ĐỜi. Cochran đã thuổng câu cuối cùng trong một tờ báo tỉnh, in trong mục cáo phó.
Họ đến Douglas lúc bảy giờ, mua một ít đồ và lái xe qua biên giới vào Agua Prieta, anh mua cho nàng cái túi xách của người làm yên ngựa và họ ăn tối, có món súp tôm và cabrito, đùi dê non quay ướp dầu, tỏi và cỏ xạ hương. Anh yêu thích Mexico và hỏi nàng về Durango, thành phố quê hương của Tibey ở Sierra Madres. Nàng kể Durango rất đỗi tầm thường là một trung tâm chăn nuôi gia súc và khai mỏ, không hề được nhắc đến trong những cuốn sách du lịch, chính vì thế mà nàng rất thích. Tibey có một nông trại ở đấy và Cochran đã được mời đi săn vài tháng. Miryea nói nơi ấy giống như Montana hoặc các vùng Catalonia hay Castile, trong nông trại có nhiều chim cút, gà tây hoang dã và nàng để ngựa của nàng ở đấy. Tibey đã dựng một sân tennis bằng đất sét và dồn nàng phát điên vì nàng không chịu chơi, và rồi anh ta đã huấn vài tên tay sai, có một tay chơi tennis nhà nghề từ thành phố Mexico đến giúp.
Họ đến gần căn nhà gỗ trong ánh sáng cuối cùng lúc chạng vạng, cẩn thận leo lên ngọn núi theo con đường chỉ có hai làn xe. Họ phải dừng lại hai lần, ra khỏi xe dọn những hòn đá ra khỏi rãnh, trong ánh sáng đèn pha tràn trề. Anh ước giá kiếm được tấm bản đồ chi tiết của vùng này nhưng không có. Theo phương pháp thông thường, anh đã biết nhiều hơn về Mexico và dân Mexico hơn mọi du khách Mỹ. Anh đã đọc Zapata và cuộc Cách mạng Mexico của Wolmack và đến nửa tá sách khác về lịch sử Mexico gần đây. Dù sao đi nữa, anh vẫn là một chiến binh chuyên nghiệp và ưa thích các samurai Nhật Bản, đấy là một phần bản năng trong triết lý sống để thành người biết lưu tâm,biết và hiểu trọn vẹn hết mức anh ở đâu và vì sao. Anh chỉ không là khán giả một cách bản năng và không thể chịu nổi việc nghị lực của anh lại bị kẻ khác chi phối. Trong ngành, đặc tính này làm anh không được các sĩ quan cấp trên ưa, còn mọi người coi anh như một người hùng bẩm sinh. Trong hai năm đầu của cuộc đời dân sự, anh được phép làm việc tùy ý. Ở Mexico, trong một quán rượu ở một làng nhỏ trên núi, chỉ sau vài cuộc thăm viếng, anh đã nổi tiếng và được đón tiếp đặc biệt. Dân địa phương trêu chọc cách phát âm đặc Castilia của anh và băt chước rất buồn cười.
Lúc đến căn nhà gỗ, anh biết ngay rằng nàng thích nó. Doll cáu kỉnh ngửi ngửi quanh nàng, lùng sục trên mặt đất nhưng cảnh giác vì nó đã được dạy về bọ cạp và rắn chuông. Trong tía sáng cuối cùng, anh dỡ các thứ khỏi xe và nhóm lửa trong lò sưởi nhỏ. Anh trải cái túi ngủ đôi lên giường lúc nàng đăm đăm nhìn ngọn lửa, lắng nghe cơn mưa rào ngắn gõ trên mái tôn. Củi khô toả mùi thơm gần như nước hoa và nàng đòi anh mang nệm cao su và túi ngủ đến khoảng trống trước lò sưởi. Anh vặn nhỏ ngọn đèn dầu hoả và nghĩ đến cuộc đi dạo buổi sáng, anh sẽ đưa nàng lên núi, nơi nhánh sông nhỏ làm thành một cái ao trong xanh giữa lòng đá. Họ làm tình từ tốn và anh sửng sốt vì ánh lửa bập bùng làm những cái bóng chuyển động lên xuống trên thân hình nàng. Họ hơi chuếnh choáng và anh rút một thanh củi to ra khỏi lò sưởi, vì căn phòng có vẻ đặc khói và quá nóng. Nàng ngủ lơ mơ một lúc còn anh uống thêm một ly, cố nhớ xem đã khi nào anh thấy đầy đủ đến thế này, vẫn còn sống mà lại được siêu thoát hoàn toàn.
Lúc này chúng ta phải tránh cặp tình nhân và để họ nghỉ ngơi nhưng chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi. Hãy để chúng ta ngồi trên nắp lò như một quái vật sư tử đầu chim, cặp mắt bằng đá dửng dưng, có cặp mắt bằng đá là tốt nhất với những gì chúng ta sắp nhìn thấy. Căn phòng trở lạnh và cặp tình nhân ôm ghì lấy nhau cho ấm, họ cựa quậy trong giấc ngủ. Ánh sáng của ngọn đèn dầu thật nhỏ, bóng lò sưởi trở nên lạnh lẽo và yếu ớt. Bên ngoài, làn gió xoáy và kêu u u dưới mái hiên như lời than van ai oán của một thày phù thuỷ. Bên bậu cửa Doll không ngủ được, nó gầm gừ, rên rỉ rồi sủa dữ dội khi cánh cửa bật tung. Căn phòng xanh lè lúc một khẩu súng săn thổi bay con chó. Ba tên đàn ông lao vào căn nhà gỗ, một trong ba đứa đồ sộ đến quái gở. Chúng vồ lấy cặp tình nhân và Cochran rú lên khi luồng hơi bị ép khỏi người anh, anh bị gã khổng lồ quát bằng tiếng Tây Ban Nha bóp nghẹt lấy cổ. Miryea bị tóm chặt lấy cánh tay và nàng ngất đi, bị gã đàn ông giữ chặt, chính là người mà chúng ta thấy đã theo dõi bằng ống nhòm. Tibey đứng đằng sau và vặn to ngọn đèn dầu. Anh ta vớ bình nước trên bàn đổ vào cặp tình nhân cho tỉnh lại. Cặp mắt Tibey cách xa nhau hơn thường lệ, miệng anh ta vẫn mở tuy chẳng thốt lời nào. Gã khổng lồ giữ Cochran thật chặt để anh có thể thấy Tibey lấy con dao cạo ra khỏi túi áo và cắt một nhát thật sâu qua môi Miryea, một kiểu trả thù cổ điển của bọn ma cô với một cô gái bướng bỉnh. Đôi môi sẽ sẽ không bao giờ khâu lại được hoàn hảo, nhất là bị để lâu, mà lần này sẽ là như thế. Tibey gật đầu. Đến lượt Cochran. Gã khổng lồ dựng anh vào lò sưởi, đánh anh túi bụi bằng những cú đấm dài, mạnh mẽ. Miryea lại ngất nhưng Tibey tóm chặt tai nàng, tay kia vạch mí mắt bắt nàng mở mắt. Lúc Cochran bị lôi qua, anh tưởng như nhìn thấy tai nàng rời ra trong bàn tay Tibey. Tibey đá một cú vào bụng dưới của Cochran rồi rửa tay. Tên nhỏ con hơn tiêm cho Miryea một mũi thuốc và họ bị chất vào cốp chiếc xe limousine đỗ dưới đường mòn. Tibey ngồi trong limousine hít thở thật sâu, nói to lên rằng có lẽ chúng đang làm tình trong cốp xe. Tên khổng lồ và tên nhỏ con hơn bận đổ dầu khắp chung quanh căn nhà gỗ. Chúng kéo xe của Cochran dựa vào cánh cửa. Tên nhỏ con ném một que diêm vào căn nhà và trong lúc bọn chúng đi xuống đường, hình bóng chúng nổi bật trên nền căn nhà đang bốc cháy. Quãng đường đến Durango thật dài và Tibey nằm ngửa uống rượu từ chai Scotch lúc chúng lắc lư xuôi con đường mòn ra đường cái. Anh ta nhìn thấy chiếc xe nổ tung, lờ mờ trong kính chiếu hậu. Còn khoảng ba chục dặm xuống đường, còn xa mới ra đến đường cái, chúng đỗ lại và tung một thân người vào bụi rậm.
Chú thích:
[1] Mennonite: thành viên của một giáo phái Cơ đốc hiện ở Friesland vào thế kỷ 16, giữ nguyên tắc tương tự như tín đồ Anabaptist, phản đối việc rửa tội cho trẻ sơ sinh, tuyên thê, tham gia quân ngũ và nắm giữ cơ quan dân sự. Trong các thế kỷ sau đó, nhiều người di cư sang Châu Âu, Nga rồi đến Bắc và Nam Mỹ để tìm kiếm tự do về chính trị.
[2] Mescal: loại rượu không màu của người da đỏ Mexico được chưng cất từ lá cây thùa.
[3] Giấy vỏ hành: một loại giấy mỏng, một mặt láng.
[4] Federico Garcia Lorca (1899-1936): nhà thơ và nhà viết kịch Tây Ban Nha.
[5] Mesquite: loại cây họ đậu mọc thành bụi, quả rất ngọt, là thức ăn ưa thích của gia súc. Mọc ở miền tây nam Mỹ và Mexico.
[6] Amedeo Modigliani (1884-1920): hoạ sĩ Italy ở Pháp.
[7] Match II : Tốc độ bay gấp hai lần tốc độ âm thanh.
|