Sau bốn năm trời xa cách, anh Cả tôi đã lại trở về. Nhưng những sự vui vẻ tôi hằng đợi ở anh, đã không còn nữa ! Anh tôi lớn lắm rồi, gia dĩ lại cồng kềnh một người vợ mới. Kỷ niệm xưa kia, anh tôi không nhắc lại một lần nào nữa. Tình thân ái xưa cũ dần dần bỏ tôi đi, như bóng mây một buổi chiều lững lờ kéo sang nơi khác. Anh tôi đâm ra cau có, ghen tị với chúng tôi:
-Các chú Tây học rồi lo gì mà chả kiếm được nơi no ấm. Còn tôi, với ngọn bút lông, chết lúc nào không biết.
Cuộc đời sung sướng của anh tôi đến đấy là hết. Và cũng đến đấy là hết mối tình thân thiết trong buổi ngây thơ giữa ba chúng tôi. Ngày xưa không bao giờ về, vì hỡi ôi! ngày xưa đi là mất. Trong lòng tôi, vết thương mà sự phản bội, của thế nhân gây ra tuy lớn, nhưng chưa thấm thía bằng vết thương khơi ra vì sự lãnh đạm của các người nhà. Xa anh, tôi bắt đầu gần lại chị dâu tôi, một linh hồn Trung Hoa lưu lạc. Cũng vì sự thân cận ấy mà có câu chuyện này, câu chuyện mà tôi nhắc lại với một giọng buồn bã, như người nhắc lại một đoạn đường thiếu êm đẹp trong đời. Khi sinh hạ thằng cháu đầu lòng, chị tôi phải bệnh căng sữa. Trong nhà không còn ai tiện cho việc vắt cho cái sữa thừa kia vào chén bằng tôi. Tôi vui vẻ, vô tội làm cái việc ấy, và khoe với anh Hai tôi:
-Anh ạ, vú chị ấy đến to ! Bất ngờ, anh Cả tôi đi qua, nhằm lúc tôi hớ hênh nói lên như thế. Anh đứng lại và không nói, không rằng, tát tôi một cái té xỉu. Câu chuyện ấy đến tai ba tôi. Tôi được người cho gọi lại bên khay tĩnh để dạy nốt cách làm người, ba tôi bảo:
-Đại phàm là em chồng, thì nhất thiết không được vào buồng chị dâu.
-Nhưng con vào vắt sữa kia mà! Ba tôi vớ lấy cái dọc tẩu, khiến tôi mất vía, im lặng. Ba tôi hớp một ngụm nước trà rồi tiếp:
-Tao cấm mày không được bước chân vào buồng chị ấy nữa. Mày không biết chứ luật Tàu cấm ngặt cả em chồng không được nói chuyện với chị dâu. Vừa rồi, mày là một thằng mất dạy. Tôi xấu hổ quá, lùi lũi bước ra ngoài, thề từ nay không thèm chơi với anh chị tôi nữa. Ròng rã trong hai ngày sau, tôi đoán biết một sự xung đột nhỏ nổi lên giữa anh chị tôi, và khi ghé mắt qua khe cửa phòng học nhìn sang bên cạnh, tôi thấy chị dâu tôi đương quỳ trước mặt chồng khóc lóc...
* * *
Chị dâu tôi bây giờ đã sinh được nhiều cháu, và vẫn tận tụy với cảnh dâu con. Không một vết nhơ nào trong mười sáu năm trời, có thể làm mờ được danh tiết của người đàn bà lìa quê hương kia. Mười sáu năm qua trong một thoáng gió. Anh Cả tôi đã già, chị dâu tôi giữa hai thứ tuổi. Riêng tôi vẫn còn xuân sắc, lòng vui giữa cảnh sa mạc của đời. Tôi vẫn cảm thấy cái rát, cái nóng, reo mạnh do một bàn tay xương xương lên má tôi, mỗi lần tôi nghiêng xuống thổi bớt những làn bụi vương trên bức họa ngày xưa. Tôi nhớ nhất cái dáng điệu vừa quỳ vừa khóc của chị dâu tôi, và tôi thấy buồn một nỗi buồn thê thiết quá. Nhưng ngày nay anh Cả tôi đã hiểu và thương tôi rồi. Như thế đã là đủ lắm.
6-1940 Vừa một kiếp người Anh Hai tôi đi đến nay đã là sáu năm mà không hề quay về lấy một bận. Thỉnh thoảng tôi có đả động đến chuyện về, anh tôi lại gạt ngay đi:
-Cứ như trẻ con ! Tôi biết vì sao anh tôi không muốn về, mà chỉ thỉnh thoảng mới nhắn lời về thôi: anh tôi nghèo. Nghèo thì về làm gì, một khi họ hàng, bà con cứ yên trí là ai đi đâu xa về thì phải giàu. Nhưng cớ chính giữ anh tôi ở lại mãi đây là cái tuổi ba mươi của anh. Anh tôi nhiều lúc ạoi gương rồi cau mặt lại. Tôi biết anh tôi khổ lắm: ba mươi tuổi mà đã hai lần vợ chết. Nhiều khi nằm ngửa mặt lên trần nhà, đương suy nghĩ sự gì, anh tôi vùng dậy hỏi tôi:
-Mẹ năm nay bao nhiêu tuổi em nhỉ ?
Tôi không biết đáp làm sao cả, vì tôi có biết mẹ tôi bao nhiêu tuổi đâu. Sáu mươi nhé? Bảy mươi nhé? Chắc đâu vào quãng ấy. Điều đúng nhất là mẹ tôi đã già. Đời người chỉ còn tính từng gang, từng tấc; mặt trời đã nhuộm một sắc vàng tận thế vì sắp xuống núi rồi. ở lòng mỗi người trong ba anh em chúng tôi đều có hình ảnh một bà cụ già, vẻ mặt đau khổ, chống gậy chiều chiều trông ngóng một bầy con không về. Anh tôi thấy hỏi tôi cũng không biết được thêm sự gì, nên lại nằm xuống, và lần này, kín đáo thở dài. Tôi ít khi nói chuyện với anh tôi, vì hai anh em ruột ít khi nói chuyện với nhau. Vài ba câu chuyện nhà cửa, mấy điều hỏi thăm về sức khoẻ, rồi chúng tôi quay ra nghĩ ngợi riêng, tựa hồ như sống tách hẳn nhau ra. Anh tôi chơi khét tiếng lên một dạo. Hết giải khiêu vũ này đến giải khiêu vũ khác, hết bạc trăm vất vào sòng này, lại đến bạc nghìn vất vào sòng khác. Trên các dải đường đưa đến những ngõ trụy lạc, anh tôi, mồm phì hơi rượu, thuốc lá ngậm xiên ra một bên mép, vẫn hất cái mũ dạ lên gần chỏm đầu, thất thểu đi tìm cái lý tưởng đen tối của đời anh. Đời sỉ nhục, mắng mỏ anh tôi nhiều lần, nên anh bảo không cần ngó ngàng đến đời nữa. Những con 'gà mái thượng hạng' gọi anh tôi là ông Hoàng, và các bạn của tiền bạc tặng anh là 'người rất thân yêu'. Anh tôi cho bọn này hưởng tất cả những đêm sung sướng mà chúng có thể ao ước được. Tiền bạc, tiền bạc nhắm mắt vất qua cửa sổ ấy, anh tôi không gửi về cho mẹ tôi, cho tôi đồng nào. Anh bảo cứ tiêu, tiêu cho sướng, cho từ cái chóp núi lăn xuống khe sâu, cho cùng một lúc hưởng được cả hai vị đời: khoái lạc và chua chát. Cuối năm sau, người ta cho anh tôi vào tù. Tiền bạc lúc ấy mới được dịp minh oan cho cái két tự nhiên thủng của một nhà buôn to nhất nhì ở Hà Nội. Ngày dán cái trán vào thanh cửa sắt, trước mặt anh tôi, tôi thấy con người phóng đãng ấy nói một giọng buồn lạ:
-Cũng chả nên trách ai. Tiền bạc kiếm được một cách không lương thiện chỉ nên tiêu vào những chỗ không lương thiện. Mẹ tôi ngày ngày đem cho anh mấy chiếc bánh giò và thỉnh thoảng phong thuốc lá. Một tháng sau, anh tôi được tha. Lo liệu nơi ăn, chốn ở cho anh tôi xong, chúng tôi đưa chân mẹ ra tàu. Lúc tàu huýt còi đưa mẹ tôi trở lại cái làng, cái chợ ở một vùng nhà quê Trung Kỳ, thì người chỉ vào cái đầu bị húi trọc của anh tôi mà dặn:
-Rồi liệu mà tu tỉnh lại đấy, con nhé ! Anh tôi im lặng không đáp. Nhìn dáng đi vẫn đường hoàng của anh, tôi thầm nhủ:
-Hay anh này lại định thụt két nữa đây? Nhưng tôi không dám nói ra; tiếng thế, tôi vẫn sợ anh tôi, tôi còn phục anh tôi là khác. Anh tôi xấu ở ngoài đời, nhưng khi còn ở đằng sau cánh cửa gian phòng thuê, anh tôi vẫn tỏ ra là một người anh biết dạy em, yêu em. Tôi nghiệm thấy từ ngày anh tôi bị bắt, bè bạn cứ rủ nhau vắng dần. Tự nhiên, trên trái đất của tình cảm, những bóng dáng thân thiết biến mòn đi, chỉ còn để mọc lên bên anh, hình dáng một người đàn bà góa tay dắt đứa con nhỏ là tôi. Nhớ đến những người trước kia hay cho tôi ăn bánh, hay vuốt má tôi, tôi hỏi anh:
-Các anh Thịnh, Thảo, chị Joséphine Huệ, Henriette Loan đâu rồi anh ?
Anh tôi không trả lời, đứng nhìn ra dãy phố âm thầm dưới bầu trời tang tóc như không hứa có ngày mai... Cuối năm sau, tôi tiếp được tin anh tôi lấy vợ. Anh tôi lấy một người rất đứng đắn, theo lời anh, cốt để làm lại cuộc đời đã gần long lở hết. Tôi mừng vì có người chị dâu tốt, còn mẹ tôi, vì từ nay đỡ phải lo lắng nhiều cho anh. Trước mấy hôm cưới, anh tôi gửi cho tôi một bức thư:
Haiphong le 25 Mars 1936 Em yêu quí. Anh báo cho em một tin vui: anh sắp lấy vợ. Em có thể tin chắc rằng em sẽ có một người chị dâu biết chiều chuộng em. Bao giờ rỗi, anh gửi tiền cho mà xuống đây chơi, lúc ấy, em mới tin lời anh nói là thật. Chúc em học hành tấn tới. Về chuyện này anh đã có thư thưa với mẹ rồi. Mẹ cũng bằng lòng. Anh của em X.X
Ngước mắt nhìn lên tấm lịch, tôi viết thư trả lời cho anh:
Hanoi le 27 Mars 1939 Anh yêu quý, Em sung sướng vô cùng khi nghe tin anh lấy vợ. Em sung sướng hơn nữa là người vợ hiền lành của anh sẽ là người chị dâu gương mẫu của em. Nhưng em buồn lắm anh ạ. Tháng trước mẹ gửi ra cho em năm đồng, mẹ bảo đấy là tiền học vay được. Hiện giờ mẹ không có lấy một cái quần cho ra trò, vì cái quần lĩnh Bưởi của anh biếu mẹ năm ngoái để mặc đi chợ đã sờn rách rồi. Em không muốn quấy mẹ, nên em phải quấy anh. Anh chịu khó vay tạm cho em ở đâu bốn đồng rưỡi (quatre piaạtres et cinquante centạ) cho em giả tiền học, không thì ông đốc trường đuổi đi. Em chả còn lòng nào mà làm thơ mừng anh chị nữa. Bao giờ có tiền hãy hay. Chúc anh chị bình an. Em bé của anh X.X.
Bốn ngày sau, đương ngồi trong lớp, tôi nhận được một lá thư từ Hải Phòng gửi lên. Tôi xé ra xem thì thấy... tám đồng bạc! Tôi bàng hoàng như người chợt tỉnh ngủ. Có điều lạ là chữ đề phong bì lại là chữ đàn bà, hơi mất 'phốt'. Tám đồng là tám đồng! Bức thư
-gọi thế vì nó có tem, có dấu
-không thêm một chữ hỏi thăm nào. Mãi sau này, lúc người chị dâu quý hóa của tôi mất đi, anh tôi mới kể chuyện lại: 'Hôm nhận được thư tôi, anh tôi đút túi rồi quên đi. Cách đến ba hôm sau ngày cưới, chị tôi lục quần áo xem có thư nhân tình không, thì bắt được mảnh giấy cầu cứu ấy. Chị tôi tháo ngay chiếc nhẫn ra cầm đi, gửi tiền cho tôi, vì chị không biết mua mandat thế nào'. Câu chuyện trên kia sống mãi trong trí tôi, như vẻ mặt phúc hậu trong ảnh của người đàn bà đi qua cuộc đời anh tôi vừa đúng sáu tháng. Hôm nhận được tin chị tôi chết, tôi gục đầu xuống bàn khóc, như khóc một người ân nhân. Cái tình xa xôi ấy quả thật là cao quý, cao quý thêm khi người thi ân lại chưa gặp người chịu ân lấy một lần. Ngày nay, mỗi khi gặp trên đường đời một người đàn bà thùy mị, tôi lại nhớ đến chị dâu tôi và tôi chắc sau này sẽ được ve vuốt bởi những bàn tay dịu dàng như cái bàn tay tôi tưởng tượng. Lâu lâu, tôi lại xuống Hải Phòng thăm anh tôi một lần. Tôi nhận thấy anh tôi gầy đi, buồn thêm ra. Anh tôi thôi việc, nhất định nằm lì ở nhà một người bạn. Trong số phận đen tối của cuộc đời, anh tôi dò dẫm níu lấy cái tương lai không chắc chắn, mắt nhìn ra một phương trời không hứa hẹn, giữa một cánh đồng mà bão táp vừa đi qua. Tôi thương anh tôi lắm, những lúc anh ngồi gác chân lên bàn, ngửa mình ra thành ghế, điếu thuốc lá cháy hờ hững giữa hai kẽ tay, cặp mắt ngó chăm chú lên trần nhà trắng, trên đó, rong chơi mấy con thạch sùng. Một lần, tôi hấp tấp đi tàu từ Hà Nội xuống báo cho anh tôi một tin mừng: tại một công sở trên đây người ta đương cần dùng một viên thư ký thạo tiếng Anh. Trái lại với sự tôi chờ đợi, anh tôi lạnh lùng gật đầu một cái, rồi trả lời:
-Để anh xem!
Suốt ngày hôm ấy, tôi không thấy anh tôi đả động đến chuyện đi làm. Anh tôi cứ lờ đi như không có tôi ở bên mình, vẫn quẳng mũ xuống giường, rồi lại ném thân xuống ghế. Một giấc mơ bao phủ lấy cử chỉ và lời nói của anh. Con đường tôi ném ra trước mắt anh lại nhỏ quá, bấp bênh quá, trong áng sương mù dày nghịt vây kín đời anh. Nghe tôi giục lần thứ ba, anh tôi mới uể oải lại bàn ngồi làm 'đờ măng', còn tôi thì yên trí cầm quyển sách xem, rồi ngủ mất. Khi tôi tỉnh dậy, anh tôi đã đi từ lúc nào. Tôi lò mò lại bàn xem anh tôi đã viết được những gì, thì trời ơi! anh tôi thoắng một lối chữ như gà bới, với một văn pháp khó nhọc và mơ mộng đến cực điểm. Anh tôi viết như thế này: Kính gửi ông giám đốc, Tôi tên là....ngụ ở số nhà...phố....Hải Phòng, được hân hạnh đến với tấm lòng thành kính sâu xa.... sâu xa.... sâu xa xin ông cái chân việc khuyết.... Trời ơi! Tôi buồn quá, buồn quá, buồn.... buồn.... đến chết được... Chưa hết, anh tôi còn bỏ một đoạn giấy trắng, rồi chua thêm, như người nói xong chuyện, buồn quá, gắt lên một tiếng chua chát: 'Phải chăng là người ta phải sống thật sa ngã mới thấy mình sung sướng??? Tôi buột miệng than dài:
-Ra anh này hỏng rồi! Điên rồi! Mơ ngủ rồi! Hai giờ sau, anh tôi cầm cái vé tàu về, bảo tôi:
-Đến ba giờ tàu chạy, em ra ga đi thì vừa ! Tôi ngơ ngác, không hiểu sao, nhưng cũng đi thu vén quần áo bỏ vào cặp, vì đã gần hai giờ bốn mươi rồi. Anh tôi đưa chân tôi ra ga, giơ tay chào tôi theo kiểu nhà binh, và nói bằng một thứ giọng say rượu:
-Em viết thư thưa với mẹ là anh vẫn bình yên nhé !
Anh tôi nói xong rồi biến mất. Nhìn lại sân ga, tôi hình dung bóng một người đau khổ, đi trộn vào trong những người đẹp đẽ, vui tươi, cái rơm rác trôi dạt trên biển đời, qua bao nhiêu ngày giông tố. Tàu chạy được quá hai ga thì tôi quên mất anh tôi đi. Trời mát và đẹp của tiết tháng tám cứ như xui người ta làm thơ. Đồng lúa miên man chảy ở hai bên thành tàu, mau hơn dãy núi đường xa đi như người bách bộ. Anh Cả tôi nghèo và phải nuôi vợ con. Anh Hai tôi phong trần, chán hết mọi sự cho đến cả há vọng. Tôi làm thơ và chỉ thích có làm thơ. Mẹ tôi đau khổ ạinh ra ba chúng tôi để chỉ càng ngày càng thêm đau khổ, càng ngày càng thấy mình già đi. Cách ít lâu, anh tôi lại lấy vợ, lại thử lập cuộc đời. Sự cưới xin lần này không kèn, không trống. Người chị dâu mới của tôi chắc hẳn không được lương thiện lắm, vì anh tôi, tôi biết, chỉ thích tạo hạnh phúc trong những đêm đen, và làm mặt trời vào những ngày mưa lạnh. Mẹ tôi trả lời anh rằng: 'Con muốn lấy ai thì lấy, mẹ bây giờ nghèo lắm, không còn sức nào lo cho con nữa. Mẹ chỉ lo cho thằng út sau này sẽ phải bơ vơ thôi.' Thằng út là tôi. Nhưng tôi có bơ vơ đâu nào? Tôi vẫn ngày ngày nhìn mây gió, xây dựng cuộc đời trong không gian và ước ao cái chết của Lý Thái Bạch. Tôi sung sướng lắm. Tôi sống thoả rồi. Nàng thơ đến cho tôi hoa, và lấy cái tay hiền hậu xé từng mảnh đời của tôi mang đi, xé mà vẫn cho thuốc tê, nước ngọt. Mẹ tôi nhầm, cũng như người đời nhầm. Tôi có khổ đâu, mà mẹ tôi cứ khóc thương tôi mãi? Người chị dâu mới của tôi lại cũng... chết nốt ! Tôi nhất định không lấy làm lạ nữa. Mẹ tôi bảo anh có số ạát vợ. ạát vợ thì lấy đến tiên, tiên cũng chết nữa là người! Anh tôi nhất định không lập gia đình nữa, nhất định không về. Rồi anh bỏ đi vào Sài Gòn, vào Phnom Pênh, và nghe đâu đương làm một chân gì trên hãng tàu buôn chạy ngoài vịnh Xiêm La. Nhiều lúc tôi quên bẵng rằng trong đời tôi còn có một người anh đi bao nhiêu lâu mà chớ hề viết cho tôi một chữ. Không gian thê lương và mông mênh lắm, bóng dáng một con chim chỉ là con số không trong vùng rộng lớn.
Tôi chắc anh tôi đã nhiều lần phải buồn, cũng như mẹ tôi nhiều lần đưa dải yếm lên lau nước mắt, và tôi tưởng tượng qua sợi khói thuốc lá, mơ màng đến một góc biển xa xôi, nơi phiêu lưu một linh hồn phóng dật. Bây giờ tôi đã đi đạo, vì tôi xét ra là tôn giáo chỉ cần cho sự tìm hiểu cái nghĩa tinh thần của sự sống. Hằng ngày đọc kinh, hằng tuần quỳ trước tòa giải tội, tôi thấy tôi trong sạch hơn lên. Nhưng tôi không khỏi có vài giọt nước mắt ứa trên mi, chảy trên quyển kinh tôi đọc, khi tôi nghĩ rằng, xa tôi đây, qua mây và qua gió, còn một người đau khổ sống tách hẳn ra những nỗi vui sướng trên trần . Giờ này, mẹ tôi chắc cũng đương lần hạt, và tùy theo hai tôn giáo khác nhau, lời cầu xin của chúng tôi vẫn là một: mong cho kẻ ở xa chóng được yên ổn trở về. Nhìn lên tượng Chúa, tôi thấy tự đấy tỏa ra một lẽ thiêng liêng, nhân từ và đẹp đẽ. Tôi nhìn vào trong hồn, hình ảnh một tù nhân của đời xổ tóc, ngày ngày nhìn ra mây gió, làm tôi đoạn lòng. Điều tôi tin đúng nhất, là Chúa sẽ ạoi lòng cho anh tôi, sẽ cho anh hưởng một cuộc đời khác hẳn cuộc đời anh đang sống. Tin như thế, nên tôi chắc sẽ được bắt tay anh tôi ở trên thiên đường.
12 -1940 thằng cháu đích tôn Chỉ mãi cách đây không lâu, sau mười năm từ ngày ba tôi mất đi tôi mới kịp nhận thấy lòng thương yêu của người trao cho thằng cháu đích tôn là hợp lẽ.
Và, càng chân nhận cái giá trị của tấm lòng yêu thương ấy, tôi càng cảm thấy mình là nhỏ nhen, ích kỷ. Nó lớn hơn tôi năm tuổi, và mồ côi từ ngày mới biết đi. Đó là một tâm hồn rất lạ, tôi có thể nói là lạ hơn mọi tâm hồn tôi gặp từ trước đến nay. Đó là một đứa trẻ ạinh ra trong cảnh túng thiếu, gạo ít, khoai nhiều, để rồi lớn lên dưới một trời binh lửa. Trong cặp mắt thâm và sắc của nó, tôi thoáng thấy vẻ cương quáết thầm kín của một tấm lòng phơi ra trước sự tàn ác của số mệnh, thử thách những nỗi khe khắt nhất đời. Một người khác vào tuổi thằng cháu tôi không thể nào sống hơn những cảnh gian nan như thế: nó đã từng nhịn đói ròng rã trong sáu ngày trời để tránh loạn, và đã từng thăm viếng cảnh mất còn của gia đình sau bao ngày giặc giã. Cuộc cách mệnh vĩ đại của đất nước Trung Hoa, tôi tin như thế, nếu đã tạo ra những Tôn Dật Tiên, Uông Tinh Vệ, thì nó cũng đã tạo nên thằng cháu tôi, một tâm hồn dạn dày và đau khổ. Có khác là những bộ mặt trên được Sáng ngời qua lịch sử, còn cái dưới thì bị chìm đắm trong tối tăm. Vậy trải những nỗi gian nan quá lớn lao cho một tâm hồn còn bé bỏng, thằng cháu ấy đã đặt chân lên đất nước Việt Nam của tôi -tôi viết rõ: đất nước Việt Nam của tôi -với cái thân hình thô bỉ, tâm tính cục cằn. Tôi thì đương ở thời kỳ yêu những cái gì mảnh dẻ, bé nhỏ, và những bước chân đầu tiên của thằng cháu tả trên dội xuống thềm gạch nhà tôi, đem lại ngay cho tôi sự khó chịu của một người thốt nhiên thấy mình bị ngáng trên con đường đi. Thủa ấy, tôi sống gần như lơ đãng hẳn, nên tôi chưa từng để ý đến những dòng máu thân thiết đương còn chảy trên một mảnh đất khác đây. Hồn tôi chỉ đầy đủ khi nào nó có lẩn một phần lớn linh hồn Việt Nam.
Tôi yêu nhớ nước tôi thật, nhưng tình yêu ấy, trước khi gieo vào lòng tôi, phải được lọc qua màu cây xanh thắm vây kín lấy những làng mạc thân yêu. Đôi phen lòng tôi se lại, nhưng sự se lòng vì một tình cảm khác lập tức được hoà trong âm điệu của một thứ tiếng nói âu yếm, cái tiếng nói của trái tim tôi. Ngày xưa, cho đến bây giờ nữa, hồn tôi nhiều lúc bỏ tôi đi, và áng chừng không tìm thấy phương trời nhất định, lại trở về với tôi, để lại rời xa tôi như thế mãi. Nếu vào những lúc bị phân chia trong tình cảm như thế, có ai hỏi tôi yêu nước Nam hay nước Trung Hoa, thì tôi chỉ còn biết... khóc! Tôi khó mà nói ra đây, cái tâm trạng phức tạp của một người mà huyết quản chứa đựng hai thứ tinh hoa, ngoài sự để cho lòng mình rung động, rung động đến tận cùng vì một tấm tình nghìn đời không có lời phân giải. Tôi còn nhớ rõ hôm đó, sau buổi học chiều, về nhà, tôi đã thấy cái con người là lạ ấy ngồi xếp bằng tròn lên tấm phản, gần bàn thờ, vây chung quanh là họ hàng, thân thích. Không hiểu sao tôi nghĩ ngay đến một trò lạ mắt, thứ trò vẫn diễu ở ngoài đường của mấy người Tàu mãi võ. Đôi mắt thâm của thằng cháu xa lạ bật lên nhìn tôi, khiến tôi lùi lại. Thấy dáng điệu sợ sệt của tôi, anh tôi cười:
-ông cháu của chú đấy ! Thằng Quắn đấy mà! Thằng Quắn ! Thằng Quắn là thằng nào ? Tôi nhìn anh tôi, ngờ vực:
-Anh đừng nói dối nữa, ai đấy anh ?
-Con anh chị ở bên Tàu đấy. Ba yêu nó hơn mày kia ! Biết không ai nói dối tôi nữa, tôi mới tin. Nhưng lúc tôi tin là lúc tôi ghét. Một sự ghen tuông nổi dậy, xâm chiếm lấy tôi. Tôi vất sách ra giường, làu nhàu:
-Cháu với chả cháu ! Chạy xuống bếp, tôi phụng phịu hỏi mẹ:
-Sao anh Hai lại bảo ba yêu nó hả mẹ? Mẹ tôi cười:
-Vì nó là cháu !
-Thế mẹ cũng yêu nó à ? Mẹ tôi biết tôi ghen, nên vừa dịu giọng, vừa lấy tay đánh vào má tôi:
-Con chó con của mẹ thì ai mà ghét được ! Vẫn chưa yên lòng, tôi còn hỏi gặng người thêm:
-Mẹ đừng yêu nó nhé, mẹ yêu con kia ! Mẹ thề đi ! Mẹ tôi vụt cười, nhưng cũng chiều lòng tôi:
-Nào, thề nào. Đứa nào mà yêu nó hơn con thì đứa ấy... không ăn cơm nữa ! Từ đấy, tôi gieo cái ác cảm vô lý xuống đầu thằng cháu xa lạ. Tôi hạch sách nó, kèn cựa nó, nhưng vẻ mặt thiết bì lạnh lùng kia vẫn không vì thế mà thay đổi. Mỗi lần tôi có làm quá lắm, thì nó chỉ:
-Chú hay ghẹo cháu lắm ! Đến thế mà vẫn cho là ghẹo, thì chỉ có một mình thằng cháu tôi mới nghĩ được sự đó. Đôi khi tôi gắt lên:
-Cút, cút về Tàu đi ! ở đây làm hại ông ! Nhưng nó vẫn lầm lì suốt ngày. Mẹ tôi bảo nó thâm. Ba tôi cho là nó biết nghĩ. Hình như ba tôi có lý hơn. Nó đi thơ thẩn hết trong sân lại ra đường, mồm lẩm nhẩm đọc những gì không rõ. Tôi hỏi mãi nó mới đáp:
-Cháu học bài ! Tôi lườm lườm:
-Mày thì có mà học ăn ! Tôi gắt, nó im lặng. Và sự này càng làm tôi thêm tức. Thậm chí tôi ngờ nó nịnh ba tôi, để người yêu nó. Nhiều lần đi học về, lên gác, tôi thấy nó nằm sóng ạoài bên cạnh khay đèn của ba tôi, không để hút mà để trò chuyện. Những lúc ấy, nó tươi cười, vui vẻ, nhưng hễ thoáng thấy tôi là im bặt. Ba tôi thường bảo tôi:
-Con làm gì mà xung khắc với nó thế. Chú cháu không biết thì dạy bảo nhau mới phải chứ. Tôi vâng dạ cho có chuyện.