Tôi không dám làm nũng ba tôi nhiều, vì người nghiêm, vì người ít nói. Ba tôi là nước Tàu, nước Tàu bí mật. Lòng mẹ tôi mới thật là cái địa hạt tình cảm của tôi. Sống với chúng tôi được một năm, khi đã nói hơi thạo tiếng Việt Nam, thằng cháu tôi bắt đầu đi học. ý kiến ấy là của ba tôi. Ba tôi cho rằng nó thông minh, có thể học chữ Pháp được. Hẳn là tôi không thích có người bạn đồng học và đồng hành như thế. Tôi bảo mẹ tôi:
-Nó thì học gì được chữ Tây, mẹ nhỉ ?
Mẹ tôi gật đầu đồng ý. Từ đấy ngày bốn lần, chúng tôi men theo con đường nhỏ hẹp đến nhà trường. Tôi không phải cắp sách nữa. Tôi lấy sự đi tay không là một cái thú của những người trịnh thượng và kiêu căng. Thằng cháu tôi không bao giờ biết thẹn. Hắn ứng đáp mạnh bạo những câu hỏi của thầy giáo, giữa bao nhiêu cặp mắt nghịch ngợm mở to ra vì tò mò. Có nó đi bên cạnh, tôi được cái lợi là thấy lảng ra xa những người bạn trước kia làm tôi kinh hãi nhất. Tôi ngồi ở lớp ba và cháu tôi, lớp bét. Tôi học hơn nó hai lớp nên nói tiếng Pháp có cơ thạo hơn. Hồi đó, vì chương trình ban sơ học chưa đổi mới như bây giờ, nên một người học trò lớp ba mà biết lõm được mẹo luật chữ Pháp là thường. Nhưng dẫu 'tài' đến đâu, tôi bắt buộc phải thừa nhận rằng thằng cháu tôi học tấn tới đến nỗi thầy giáo phải cất nó lên lớp tư cùng trong một năm. Với một khiếu thông minh sắc nhọn, một bản tính ham học và ham biết, nó cơ hồ có thể tiến ạát đến bực học vấn của tôi lúc nào không biết. Tôi đâm ra lo và... ghen.
Nhưng thằng cháu, thằng cháu ghê gớm ấy, vẫn tuần tự tiến, vẫn tuần tự đọc rõ từ quyển sách này sang quyển sách khác. Hắn học chữ Pháp theo lối cổ điển Trung Hoa, nghĩa là dịch bừa sang bên cạnh những chữ nào khó nhớ. Thí dụ như 'pơ tít tơ' thì nó chữa sang chữ Tàu là 'pổ tít tố', để dễ nhớ. Không cần tôi dạy, người học trò lòng đầy hoài bão to lớn ấy vẫn xáo trộn cả Đông, Tây dưới ánh đèn hoa kỳ, để nhẫn nại phá thủng bức màn đen vây bọc chân trời văn chương Pháp. Bắt đầu từ ngày nghe nó chào bạn bằng một câu tiếng Pháp rất oai vệ, tôi không còn dám khinh nhờn người cháu ấy nữa.
Tôi ước đoán rằng, chỉ chậm lắm là một năm nữa chúng tôi sẽ được cùng nhau ngồi một lớp, học chung một thầy, để rồi nó lại bỏ tôi mà đi xa hơn. Giữa năm ấy, ba tôi mất. Trước khi tắt thở, người vẫn nhắc nhở đến đứa cháu yêu và ân cần dặn mẹ tôi phải chăm sóc nó tử tế. Tuy có lời dặn của người đã khuất, cháu tôi từ đấy sống rất bơ vơ, có lẽ vì nó cảm thấy chung quanh mình sự xa vắng, tuy luôn luôn sống giữa gia đình. Người cháu đau khổ ấy đã thấy chết lần thứ hai niềm thân thiết nhất trong đời. Cái chết của ba tôi mở đầu một cuộc sống khác giữa chúng tôi, cuộc sống dần dần trở nên êm ái vì thiện cảm, nhưng đúng hơn là vì lòng xót thương. Khi tôi không còn lòng ghen tị đối với người cháu ấy nữa, thì lại chính là lúc những sự uất ức nổi lên trong lòng nó, sự uất ức mà không một lần nào nó thèm thổ lộ ra ngoài. Như tôi đã có dịp nói trong bài 'Người chị dâu tôi', nhà tôi hồi ấy, cơm toàn ghế khoai. Riêng phần tôi được một niêu cơm trắng với đĩa cá thu kho, hay giò mặn. Những đĩa đồ ăn ngon lành ấy, mẹ tôi thường có ý đẩy lại trước mặt tôi, vì người chỉ muốn có một mình tôi ăn thôi. Cái sung sướng ích kỷ của tôi được diễn ra trong hơn hai năm, và có thể còn diễn ra được mãi, nếu không có một lần... Một lần, thằng cháu tôi mua hai xu kẹo trước bữa cơm. Nó nói thầm với người nhà là ăn cho chắc bụng, vì ăn cơm khoai mãi đã chán đi rồi. Nghe chuyện, và từ đấy, tôi xóa cái phần cơm ích kỷ trên kia đi, để chịu chung sự khó nuốt với những người chung quanh. Ngày tháng lạnh lùng qua... Nhà quê An nam như một tấm lòng hiền từ rộng mở, nhà quê An nam niềm nở, thân thiết tiếp đón chúng tôi, vào lúc mà tương lai chỉ là sự mù mịt, còn dĩ vãng thì lưu lại những dấu vết đau lòng. Chúng tôi sống những ngày tàn ở đấy như nhà ẩn sĩ vui quên những sự bất đắc chí một thời. Cái cảm xúc lần đầu nhận được hoàn cảnh, tôi đem hoà nó vào tình yêu thiên nhiên, và tôi khăng khít giữ lấy từng mẩu kỷ niệm của thiếu thời, do đấy, lòng thương sâu xa đất nước Việt Nam. Sau ngày ba tôi mất đi, cảnh túng thiếu của gia đình tôi lại càng rõ rệt. Mẹ tôi lo lắng trăm nghìn công việc, đến quên cả chăm nom sự học của chúng tôi. Không ai bảo ai, thằng cháu kể trên và tôi cùng biết thu ngắn những hàng chữ trước kia hoang toàng trên mặt giấy. Chúng tôi bắt đầu bỏ những cái gạch ở dưới mỗi bài học đi để được lợi thêm một hàng chữ. Không phải vì nhà tôi nghèo đến nỗi không mua cho chúng tôi được một thếp giấy, nhưng vì chúng tôi thấy sự xin tiền mua vở là một điều khó khăn. Nếu cái gạch trí khôn thường được nẩy ra trong những lúc nguy biến, thì chính trong cảnh nghèo khổ, sự Sáng kiến của người ta mới được dịp đâm chồi.
Thằng cháu thân yêu của tôi biết tự may lấy quần áo mặc, bằng cách phá bốn cái quần đùi một lúc để làm thành một cái quần dài. Nó đem những bẹ cau, bẹ dừa, đóng thành dép, thành những đôi giày Tàu xinh xinh một cách bất ngờ. Nó trau dồi 'nghệ thuật', cần mẫn và tinh vi đến nỗi tôi tưởng sau này ra đời, nó sẽ không cần mang một chút ơn nào của nhân loại. Duy có giấy Tây là nó không chế ra được. Một hôm nó bảo tôi:
-Chú có giấy trắng cho cháu mấy tờ.
Tôi hỏi lấy giấy làm gì, thì nó không đáp. Vài ngày sau, giở vở học của cháu, tôi thấy những tờ giấy tôi cho được dán nối sau mấy trang viết đặc chữ, cái mưu mô tuyệt xảo làm dài hạn hết của những quyển vở ở đám học trò nghèo. Một hôm khác, đương buổi học, tôi được thầy giáo bên lớp ba cho gọi sang. Thầy vừa bảo tôi, vừa chỉ thằng cháu đương qùy ở cuối lớp:
-Có phải thằng này là cháu anh không? Sao anh không bảo nó mua giấy đóng vở học? Tôi sợ quá, không biết đáp thế nào, thì thầy đã tiếp:
-Tôi bảo nó mua vở tất cả bốn lần, mà vẫn chưa có. Nếu chiều nay không có nữa, thì đừng trách tôi ác nhé! Rõ đồ Tàu!
Câu nói sau cùng vừa hết, tôi thấy nổi dậy trong lòng nỗi công phẫn, cái đau đớn khi có người dẫu là người trên chạm đến quốc thể tôi. Tôi nói:
-Thưa thầy, sách vở nó thiếu, để con mua. Nhưng thầy đừng mắng chúng con như thế thì hơn. Giọng tôi nói hơi bướng làm thầy đỏ mặt. Và, tiếp theo câu mắng: 'Đúng là đồ... Tô Định !', một tờ giấy kê khai rõ tội tôi gửi lên ông đốc trường. Tôi bị phạt vì tội hỗn, bị qùy hơn hai tiếng đồng hồ. Lần đó là lần đầu trong đời học ạinh, tôi cảm thấy sự vui vẻ trong lúc chịu phạt. Chiều về, tôi hỏi cháu:
-Sao cháu không mua vở, để thầy giáo phạt cho ? Cháu tôi đáp, lạnh lẽo:
-Nhưng cháu sợ xin tiền bà lắm ! Chỉ một câu trả lời vắn tắt ấy thôi, nhưng nó đã làm tôi cảm động bao nhiêu, Viên Thái thú nhà Hán, hồi Hai Bà Trưng khởi nghĩa. vì tấm lòng há ạinh và nhẫn nại của cháu, nếu sự há ạinh và nhẫn nại ở đời này có thể dùng để xứng đáng chỉ những hành vi cao quý, cao quý ở chỗ nó rất đơn giản, tầm thường. Cách đây một năm, chúng tôi xa nhau, và cháu tôi đã học hết lớp nhì. Tôi bỏ căn trường nhỏ, bỏ khu làng thân yêu, đi học xa, để trau dồi cái học thức mà càng ngày tôi càng thấy thiếu thốn, nghèo nàn.
Rồi cháu tôi cũng thôi học nốt. Nó xoay ra đi làm, sống cái đời của những người Trung Hoa không nề hà sự khó nhọc, Sáng quét hè, chiều lên cửa, không cần biết đến số tiền lương nhiều lắm là ba đồng, khi mới bước chân vào học việc. Mấy năm sau, cháu tôi đã tậu được một ngôi nhà nhỏ, đã lấy vợ, và ạinh con. Cuộc đời khe khắt như lòng người, thô sơ như manh áo vải sọc, đã bị lùi trước sự kiên nhẫn, chịu khó của những người tản mác ở khắp mặt địa cầu, ở bất cứ một nơi nào có khói. Tôi không thể như các bạn đồng bang, không thể như thằng cháu thân yêu của tôi được. Tôi không muốn để cho kinh nghiệm nắm chặt tay lôi đi trên đường đời. Tôi là một đứa trẻ dại, chạy theo con đường thênh thang của lòng sở thích, ngã nhiều lần, rồi lại gượng đứng dậy, trên mặt đầy nước mắt, trong lòng đầy đau thương. Nhưng tôi cảm thấy thanh thú vô cùng, khi cái gai hoa hồng đâm rách da, khi con bướm thân yêu trên tay tôi tan thành phấn, khi tôi được khóc vì những sự điên dại, ngang trái của đời mình. Cháu tôi
-lúc này đã là cha của hai đứa con
-thường bảo tôi:
-Sao chú không chịu gây dựng cuộc đời, cho bà vui lòng? Chú học giỏi, chú có thể đi làm được nhiều tiền. Tôi đưa mắt nhìn hai vợ chồng đứa cháu yêu quý, cồng kềnh thêm hai đứa con, rồi trả lời, nhưng hình như trả lời cho chính tôi thì đúng hơn:
-Cháu ạ, gây dựng trong cuộc đời, là điều tốt, nhưng phá hoại vì văn chương, sự ấy cũng không kém vinh hạnh gì. Cả hai cùng chứng rằng ta đã sống.
8-1943 Ngày lên đường Thế rồi tôi nhất định bỏ cái tỉnh nhỏ của tôi từ đấy. Tôi nhất định đi lính, nhất định bắt chước những bạn đồng học của tôi. Họ, một phần lớn, đã khoác lên mình bộ quần áo màu vàng nhợt, vượt đến một nơi cách đây hàng nghìn dặm. Tiếng hát của buổi từ biệt còn văng vẳng trong tai tôi, thứ tiếng hát mỗi lần cất lên, người nghe có cái cảm tưởng được ngửi thấy mùi thuốc súng, được sống một ít cái không khí ở chiến trường. Họ đã đi rồi. Chân trời bình yên khép lên họ. Bây giờ đến lượt tôi. Ròng rã trong bao nhiêu ngày trời, trong óc tôi hằn một cái dấu hỏi: đi hay ở ? Sau cùng tôi bằng lòng đi. Tôi tâm niệm, giữ gìn cái ý định ấy cho nó khỏi phai, cho nó khỏi lạt. Tôi không dám nhìn mẹ tôi, vì sợ những nếp nhăn trên má người. Tôi sợ không dám chơi với ai nữa. Tôi cầu cho cuộc đời vẫn cũ như cuộc đời, để đừng có cái gì mới hết. Tôi sẽ hăng hái đi như các bạn, bởi quanh tôi, ở đây, gió đã vàng lắm rồi, và mùa thu của cuộc đời đã lại. Tàu chỉ còn một chuyến nữa. Số lính kén có chừng. Tôi hỏi tôi:
-Về nước ta sẽ làm gì ? Ta yếu lắm ! Rồi tôi tự trả lời lấy:
-Quét chuồng ngựa. Lau giày cho ba quân. Làm được tất, làm là tốt rồi.
Tôi chưa đi đâu bao giờ, nên nói đến đi đâu, tôi vẫn cảm động. Mộng giang hồ ám ảnh tôi từ hồi nhỏ, ngày tôi bắt đầu cầm cái thước dò đường trên tấm bản đồ năm châu. Tôi ao ước sang Marseille, sang Manille, Hương Cảng, sang Lào, sang Cao Mên. ở đâu, tôi cũng tin chắc rằng cảnh tượng đẹp đẽ, sung sướng hơn ở tỉnh nhà. Tôi mơ ước được làm bồi tàu thủy, được theo về xứ sở của họ, những người Pháp giàu lòng nhân từ. Tôi biết cả giá tàu sang Pháp, từ trên 'pont', đến hạng nhất, bằng cách mày mò, thóc mách riêng. Nơi xa, nơi xa với tất cả những tuổi trẻ như tôi, nơi xa vẫn có một sức quyến rũ say đắm. Tôi nhớ mãi cái màu trời xanh biếc, sắc nước lam tươi, chen vào giữa là những cánh buồm trắng chấm lửng một cách nên thơ trong mấy bức ảnh bày rải rác ở các cửa hiệu. Tôi phải đi. Tôi phải sống. Đời tôi phải khác thế này. Và cơ hội tốt nhất đã đến. Nhưng tôi mới có mười lăm tuổi. Tôi băn khoăn không hiểu vì sao được đi là thú, tôi lại ngại ngần giữa lúc nên đi. Vì mẹ tôi chăng ? Vì nước Nam yêu quý chăng ? Có lẽ. Những ruộng đất, đồi núi của xứ Trung Kỳ bình yên như thế này, ai xa mà không nhớ được! Tôi thấy là một sức mạnh quá đầu óc tôi, sự rời bỏ một người mẹ hằng nựng nịu tôi, hôn hít tôi, hằng chia bùi, xẻ ngọt với tôi. Thêm nữa trời ban cho cái óc mộng, tôi đã trót làm thơ cái tình sâu rộng ấy lên, và biến nó thành tình yêu đất nước. ' Mẹ.' Thực không còn gì có nghĩa bằng người ấy nữa. Người ấy to quá, rộng quá, tuy tất cả sự có nghĩa chỉ là cái thân hình tiều tụy, bọc bằng chiếc áo vá vai. Ngày mai là ngày lên đường, mà hôm nay, tôi chưa sửa ạoạn gì hết. Tôi đờ đẫn cả người. Tôi bâng khuâng như vừa để mất đi một cái gì thân thiết lắm. Và lúc tôi khép mắt lại, để không trông thấy, không tưởng tượng gì nữa, thì hồn tôi chợt nhận biết một cảnh sắc lưu luyến hằng ngày: cảnh quê mùa, đồng áng. ạ hay ! Nước Nam đẹp đến như thế này ư ? Ngày thường tôi có thấy nước Nam 'mẹ' như thế này đâu! Một tổ quốc. Hai tổ quốc. Cái trên là cha tôi. Cái dưới, mẹ. Tôi nắm tay lại, nói như người quáết định:
-Đi là đi ! Đi là đi ? Dễ như thế à ? Không, đi là ... nhớ! Tôi để rơi một giọt nước mắt cho bạn tôi trông thấy. Hắn cười:
-à, thằng này nó khóc, anh em S. Hay nhớ mẹ thì ở nhà! Tôi vội gạt nước mắt, cãi:
-Người ta ngáp mà lại! Sự chế giễu của bạn làm tôi hăng lên, không bịn rịn nữa. Nhưng không bịn rịn nữa thì tôi lại xấu hổ. Tôi nhận rõ rằng trong đám người quả quáết kia, tôi là người thiếu quả quáết nhất. Tôi sắp được giang hồ rất phải lúc, cái giang hồ nhiễm đầy vẻ hào hùng, phóng thái. Quê hương của tôi gọi tôi, cái đất nước mà tất cả mọi tấm lòng tôi còn đều phải thương nhớ đến. Xưa kia, lòng tôi đôi phen náo nức, muốn cao lên, cao lên theo lá cờ vui mừng trước gió, nó là cái dấu hiệu của một tình yêu khác rào rạt trong tôi. Xưa kia tôi từng mơ ước một cuộc đi đến mục đích, tốt đẹp như bây giờ. Đi là sống. Tôi cần phải đi, và đây rồi, ngày lên đường đã lại.