Tôi vừa xếp valise, vừa gạt nước mắt. Tôi làm cái công việc ghê gớm ấy vào một đêm khuya khoắt, lúc cả nhà tôi ngủ rồi, sau khi nói dối mẹ tôi là ra Nam thăm người bạn. Tôi nghĩ chỉ còn cách nói dối ấy là tiện, vì mẹ tôi chắc cũng không nỡ giận tôi nữa, một khi tôi ở xa. Mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi, nhưng ái ngại dặn:
-Con mau mà về nhé, đây mẹ cho thêm một đồng nữa mà tiêu vặt. Trước sự tử tế trắng trợn của mẹ tôi, tôi suýt oà lên khóc, và chực nắm lấy áo người mà nói: 'Không, con nói dối, con đi lính đấy, mẹ ạ'. Cũng may lúc ấy, mẹ tôi bận hàng, để tôi có đủ thì giờ trở vào nhà, vừa đi vừa sùi sụt. Tôi chọn những cái quần áo còn lành lặn bỏ vào trong valise, và chất thêm vào đấy ít cuốn tiểu thuyết chữ Pháp. Tôi đau đớn như người vừa phạm lỗi nặng, khi tôi nghe, từ gian phòng bên đưa lại, tiếng thở dài não nuột trong giấc ngủ của mẹ tôi. Xếp hành lý xong, tôi bí mật trao valise cho thằng nhỏ, dặn nó mang lại nhà bạn trước vì tôi cần phải đi với vài cái quần áo cho người nhà đỡ nghi. Sáng mai... ánh bình minh chưa bao giờ nhợt nhạt, sầu muộn đến thế. Tôi chống mắt thức, chờ giờ tàu, nên tiếng gà gáy thứ nhất vọng vào lòng tôi một nỗi buồn thăm thẳm. Rồi tiếp đến rạng đông diễu cái cảnh huyền ảo bên ngoài. Sáng ấy, không hiểu sao mẹ tôi lại dậy sớm hơn mọi ngày. Từ dưới bếp, người lệ khệ mang lên một thau nước nóng, thả bơi ở giữa chiếc khăn mặt bông trắng tinh. Người còn tự rót nước cho tôi uống nữa. Lúc ấy, đã sáu giờ Sáng. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là tàu chạy, là tôi đi.
-Kìa con không ra ga đi thì vừa ? Tôi không đáp, lẳng lặng cắp gói quần áo ra đi. Mẹ tôi ngờ là tôi dỗi vì có ít tiền nên gọi lại cho thêm mấy hào. Đã trót bước đi, tôi không thể nào quay lại được nữa, nên chối:
-Đã, con có đủ rồi ạ. Giọng tôi nói run run qua bóng tối mờ mờ. Mẹ tôi đứng lặng nhìn tôi, nhưng chiếc xe tay đã chạy. Chúng tôi có tất cả năm người đồng lòng đi. Theo chương trình đã định, chúng tôi lấy vé tàu ra Hà Nội, rồi từ ở đấy, lên thẳng Vân Nam. Chúng tôi sẽ sống chết với nhau, chúng tôi sẽ làm đủ mọi cách để đến khi về, mặt mày được vinh dự. Đưa chân chúng tôi hôm ấy, độ mươi người, hầu hết là bạn bè cùng lớp, những tâm hồn sôi nổi nhất, mà cũng chóng nguội lạnh nhất. Chúng tôi mặc quần áo vàng học ạinh, mạnh dạn và cố lấy vẻ tươi trẻ. Còn mười lăm phút nữa thì tàu chạy. Trong chúng tôi, lác đác có vài ba cái mặt trở nên nằng nặng, vài cặp mắt hơi chớp.
-Huýt ! Huýt ! Sình...Sình ! Tiếng còi và máy của tàu chở than làm chúng tôi, không hẹn nhau, cùng giật mình. Lấy vé xong, tôi vừa xách valise ra sân ga, thì có người bạn bảo tôi:
-Mẹ anh kia kìa! Mẹ tôi thật ! Tôi vội vàng giấu chiếc valise đi, rồi chạy ra đón người. Tôi chắc mẹ tôi đã được mách về cuộc hành trình của tôi, nên tôi lo lắm. Nhưng sự thực thì mẹ tôi chưa biết gì hết. Tôi muốn khóc lên mà thú tội với người, vì tôi không còn một phần nhỏ can đảm nào bỏ đi trước những vết nhăn chằng chịt trên mặt người nữa. Mẹ tôi đưa ra một cái gói gì to bọc bằng nhật trình, rồi bảo tôi:
-Con bỏ quên đôi giày 'săng đan' này, nên mẹ phải chạy lên đưa cho con. Mẹ tôi đã 'chạy' lên thực, cố nhiên là chạy trên đôi chân gầy yếu, vì sợ tốn tiền xe, đưa cho tôi đôi giày mà người biết là tôi thích đi nhất. Tôi cầm đôi giày mà ứa nước mắt. Tôi đã quáết định về sự đi của tôi rồi. Tôi đã quáết định bằng cách... ở lại ! Không một lời nói, tôi đến giằng chiếc valise ở tay bạn lại, và trong khi các bạn nhốn nháo ra sân ga, tôi cũng nhốn nháo... trở về. Mẹ tôi ngạc nhiên bảo tôi:
-Sao con không đi với các anh cho vui ? Tôi lắc đầu:
-Để hôm khác con đi cũng được.
* * *
Câu chuyện trên, mãi đến hai năm sau, mẹ tôi mới biết. Mẹ tôi biết, rồi mẹ tôi cười, rồi mẹ tôi đánh yêu tôi mà bảo:
-Mày chả về mà làm quan cho mẹ nhờ ! Các bạn tôi cũng không đạt được đến mục đích. Họ nản chí ở dọc đường, có kẻ xuống Nam, có người gan liền theo tàu đến Hà Nội rồi đáp ô tô trở về. Gặp lại nhau, chúng tôi chỉ cười, cười rơi nước mắt, và không ai bảo ai, cùng lẳng lặng đẩy câu chuyện trên kia vào dĩ vãng. * * * Hôm nay, một buổi chiều không nắng, không mưa, một buổi chiều nhàn tĩnh. Tôi đứng trên một dốc phố vắng, đưa mắt nhìn toán người từ xa lại với màu áo tôi thường khoác ngày xưa, ngày mà tôi đã suýt một lần về nước. Gió chiều lên lành lạnh. Qua màu áo cũng bạc, cũng cũ ấy, cái màu áo xông lên mùi Y Đông, tự nhiên, tôi cảm thấy ai hoài, chua xót. Hình như từ phương trời xa đương trôi về lòng tôi một buổi chiều tận thế.....
2-1940 Chị Yên Chính tên chị là An. Mẹ tôi gọi tránh ra là Yên. Yên là con nuôi mẹ tôi, nuôi để thay cho người nhà, để có ai hỏi thì bảo: nó là con nuôi tôi. Mẹ tôi thường kể lại rằng mua chị ta với cái giá hai quan tiền vào một năm lụt lội, đói kém. Yên như biết phận mình là con nuôi nên không bao giờ lên mặt với tôi hết. Ngày tôi còn nhỏ, Yên giữ tôi. Đó là người bạn gái ngày xưa, để sau này thành một người chị rất tốt. Kể ra, đối với Yên, tôi chịu lỗi nhiều lắm. Lòng tử tế, trung thành của Yên, mỗi lần nhắc đến, tôi không khỏi ngậm ngùi. Ngày nay, tuy Yên không sống chung với tôi trên quả đất này nữa, nhưng hình ảnh Yên vẫn theo tôi, bên những hình ảnh thân mến khác. Chị Yên có một thân hình gầy nhẳng, trái hẳn lại với cái sức khỏe dai dẳng của chị. Cái nghệ thuật độc nhất, cái nghệ thuật đạt được đến cái độ tối cao của Yên là sự bổ hết mười hai tạ củi trong một ngày liền. Mẹ tôi đảm đang thế mà vẫn phải lắc đầu, mỗi lần thuật lại cái kỳ công ấy. Một hôm chị Yên cầm dao rựa chặt củi, vô ý để lưỡi dao phập vào đầu ngón chân cái bắn ra cách đấy vài thước. Không một tiếng kêu, chị lấy vạt áo bịt ngay chỗ máu chảy, và lê dần nhặt cái đầu ngón chân lìa ra kia, chắp lại. Tuy bị thương, chị vẫn bổ củi, với một vẻ điềm tĩnh không hai. Không phải chị Yên bị mẹ tôi bạc đãi, nhưng vì tính thích làm, nên Yên tự muốn đầy đọa mình luôn. Người con gái ấy, suốt trong mười mấy năm trời, đã chứng kiến cái lên xuống của gia đình tôi, đã chia chung cảnh vui vẻ, nghèo khó với mọi người trong nhà. Ngày bốn lượt, chị gánh hàng cho mẹ tôi đi, về chợ, tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn tre trên vai, bình yên nhip với tháng ngày âm u vắng mọi sự xa hoa của một người đàn bà Việt Nam chân chính. Chị Yên của tôi không đẹp, nhưng có duyên. Chị ăn trầu cắn chỉ, và vá vai một cách tài tình. Đôi khi có người giễu cợt chị, chị chỉ yên lặng. Tôi không hiểu có phải vì sự chịu thương, chịu khó như thế mà kiếp Yên chỉ là một chuỗi ngày đau khổ, nó thu ngắn đời sống của Yên lại không ? Chị Yên là tượng trưng cái tinh thần Việt Nam cao quý, là đại biểu của những bà mẹ cúi mình trên sự khó nhọc, để ạinh sản ra một đàn con lìa cội rễ, vênh vang tự nhận mình là những đầu óc Sáng suốt của cái thế kỷ đương qua. Trước sau, dưới sự phán đoán nghiêm ngặt của kỷ niệm, đối với chị Yên tôi vẫn là người bội bạc. Chữ bội bạc, với tôi, còn là nhẹ, tôi toan mượn đến tiếng dã man. Tôi không thể nào quên được một hôm, đi học về, lục nồi không thấy cá thu, thứ cá tôi ưa nhất, vì chị đã để cho mèo tha mất rồi, tôi nóng mắt, sẵn đôi giày Tây đang đi, nhằm xương ống chân chị mà chọt một cái thật mạnh. Yên nhắm mắt lại, nghiến răng để chịu đựng sự tàn ác của tôi. Khi nghe thấy tiếng guốc của mẹ tôi xuống nhà, Yên vội đứng lên, xuýt xoa:
-Khiếp ! Cái bực cửa làm cao quá, vấp phải luôn ! Mẹ tôi lườm chị và mắng:
-Rõ mù ! Người ta đi thì chả thấy việc gì. Chỉ được cái bị thịt ! Tôi không biết nói thế nào cả nên yên lặng. Đợi mẹ tôi đi khỏi, tôi tháo đôi giày Tây ra, trói cả hai chiếc làm một, định vất xuống ao. Chị Yên thấy thế, can tôi:
-Đừng em ! Vất giày đi, nhỡ mẹ hỏi không thấy, mẹ đánh chết ! Tôi phụng phịu trả lời:
-Nó đá chị thì em vất quách nó đi. Đôi giày ấy, tôi đem ném nó vào một xó, nói thác với mẹ tôi là đau chân phải đi guốc. Tôi vất nó đi, nhưng thỉnh thoảng Yên lại lấy nó ra lau chùi, làm tôi phát gắt:
-Chị còn tiếc nó làm gì nữa. Để em chặt nó ra. Tôi chặt nó ra thật. Bắt đầu từ đấy, không bao giờ tôi dùng thứ giày Tây mõm nhái và có ống như thế nữa. Thậm chí tôi ghét lây cả những người mang nó. Tôi thương Yên ngày một thêm, bởi chỗ tôi đá Yên loét thành một mụn sâu quảng, rồi biến ra cái sẹo thâm đen. Lòng tôi đôi phen thắt lại, rùng rợn nghĩ đến cái cử chỉ hung hãn của mình. Còn Yên, Yên không nghĩ gì hết. Mỗi lần tôi nhắc chuyện xưa, Yên chỉ cười mà gạt đi:
-Trò con nít, nhắc lại làm gì! Lòng Yên chỉ biết có sự trung thành và tận tuỵ.
Yên không thể nào như tôi, một người tự tạo ra đau khổ để sống, để sung sướng vì thấy mình đau khổ hơn người. Tâm hồn mơ ước kín đáo của người con gái ấy chỉ hơi hé mở để rung động vì một trong số những người thích Yên. Tôi biết chuyện, trêu Yên, và Yên chỉ đỏ mặt. Yên không biết chữ, nên vẫn nhờ tôi đọc các truyện Phạm Công và Cúc Hoa cho nghe. Yên thuộc lòng từng đoạn và đôi khi ngâm lên. Dưới ánh Sáng của ngọn đèn dầu con, những tối, Yên chăm chú nghe tôi đọc, và nhiều lúc đọc theo. Cuối năm ấy, người yêu Yên đến hỏi Yên. Mẹ tôi bằng lòng gả, nhưng bảo đợi đến hết tang ba tôi. Non ba năm đối với người con gái ấy có là bao; đó chỉ là một sự đợi chờ nhỏ nhặt, bên cạnh những công việc liên miên. Gia dĩ, chị Yên lại không biết thế nào là phản bội, thì cái ái tình chỉ thầm nuôi trong lòng hẳn phải là đẹp đẽ, chân thật. Trong gia đình tôi, sau ngày ba tôi mất, xảy ra nhiều chuyện bất bình giữa mẹ tôi và dì ghẻ tôi, chuyện bất bình kéo theo nó cả một cảnh chia rẽ vĩnh viễn. Hôm cãi cọ đầu tiên, hai người xung đột nhau. Chị Yên giúp mẹ tôi một cách đắc lực. Chị lăn vào gỡ tóc cho mẹ tôi, chị tát, chị xé những người về phái khác, trong khi tôi vừa khóc, vừa chạy loanh quanh. Kết quả chị Yên được đôi mắt sưng tím, mất một mảng da đầu. Chị bảo:
-Giá chúng nó còn đánh mẹ nữa, thì chị cho nhừ đòn !
Trông chị Yên lúc ấy đến gan dạ. Ai dám bảo đấy là một người con gái nhà quê, một người con gái gầy nhẳng, yếu ớt ? Yên trung thành trên hết mọi người trung thành. Tuy nghèo nhưng chị Yên không bao giờ lấy cắp, mặc dầu nhiều lúc mẹ tôi giao chìa khoá cho Yên giữ. Vốn liếng của chị Yên là vài hào chỉ giắt trong thắt lưng để ăn trầu dần. Chị Yên có cả chiếc gương nhỏ hình bầu dục, cả chiếc lược đồi mồi, và bằng những thức này, Yên giữ gìn nhan sắc để đợi một ngày đẹp đẽ đến trong đời Yên. Người thiếu nữ Việt Nam gương mẫu ấy còn một cách trang sức khác là ạoi dung nhan mình trên làn nước giếng lặng lẽ, rồi lấy tay từ từ rẽ ra hai bên mái tóc đen lanh lánh. Bánh quà nhận được sau mỗi buổi mẹ tôi đi chợ về, tôi thường chia cho Yên. Nhưng Yên để dành, trả lại cho tôi. Tôi hỏi chị:
-Sao bánh ngon thế mà chị không ăn ? Yên đáp, đôi mắt buồn buồn:
-Chị lớn rồi, chị không thích ăn nữa.
-Chị lớn rồi, chị đi lấy chồng phải không ? Yên hơi đỏ mặt, đáp:
-Không, chị không lấy chồng, chị ở với mẹ và em.
Yên hay ru tôi ngủ, tiếng hát của Yên rất buồn, buồn vì lòng Yên sẵn buồn, hay vì từ nghìn xưa, tiếng hay ru em vẫn buồn như thế ? Câu Yên thường hát là: 'Cát bay, vàng lại ra vàng,' 'Những người quân tử dạ càng đinh ninh' Nếu văn mà bây giờ tôi tin là người, thì tiếng hát xưa kia, biết đâu, lại không là tâm hồn Yên một ít? Ngủ trong tình thương của mẹ, trong lòng yêu của Yên, tôi say sưa trọn mười mấy năm trời đằng đẵng, và chỉ tỉnh dậy, cách đây không bao lâu, để tin rằng nước Nam, quê hương thứ hai của tôi, còn đẹp lắm, người nước Nam vẫn rất đỗi hiền lành !
Đã bao nhiêu lần, cánh mây xuân ngừng trên quãng đồng đầy hứa hẹn, trên dòng nước sông trong, đã bao nhiêu lần những người đàn bà nhà quê đau khổ, chua xót, nhưng vẫn bị sống quên lãng trong luỹ tre xanh ! Hỡi nước Nam! Tôi nghiêng lòng xuống người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói thứ tiếng của người, vì tôi đã thề yêu người trên bực tuyệt vời của tôn giáo. Trên dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công nghiệp của lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu, và trong số những người này, chị Yên tôi là một. Tôi kể nốt chuyện chị Yên. Hình như bao giờ chị Yên cũng đứng trước mắt tôi, với những nét nhăn nhó, với cái thân mình gẫy oặt vì sức gieo nặng của đau thương. Chị Yên chết rồi, nhưng chết như chị Yên là thoát. Tôi sống không hơn một chiếc lá lạc, một cánh mày vương. Tôi lớn rồi, tôi đã hiểu thế nào là bổn phận một người sống. Tôi đã biết thế nào là tha thứ, mặc dầu mỗi khi nhìn lại thời xưa, tôi vẫn căm ghét trước hình ảnh con người đáng ghét mà tôi đã có lần từ chối không nhận trong sổ họ nhà tôi. Còn hơn hai tháng nữa đến ngày cưới chị Yên, thì nhà tôi nhận chứa thêm một người khách: cậu họ tôi. Đó là một cái bóng thân thích lạc đi đâu lâu ngày, rồi một hôm, không hiểu vì túng tiền hay buồn sao đấy, sa xuống cái mái nhà quen biết, một cách vô lý và hết sức vô duyên. Tôi không bao giờ ưa những hạng người như thế, những người sống không ra sống, giằng cướp tay trên những hạnh phúc không thuộc về phần mình. Tôi hỏi mẹ tôi:
-Cái người nào đấy, mẹ ? Con trông ghét lắm ! Mẹ tôi trợn mắt lên:
-Hỗn nào! Cậu mày đấy! Một giọt máu đào còn hơn ao nước lã! Cậu thì cậu, tôi nhất định không ưa. Tình cảm của tôi trao cho ai, tôi muốn nó thẳng một mạch. Bắt nó quẹo lại, hay xiên đi, nó rất hậm hực. Đến mỗi bữa cơm, tôi ạo cho người ấy đôi đũa tre xấu nhất, nhưng chị Yên lại đổi ngay cho đôi đũa đẹp. Làm như thế, Yên chỉ là do lòng tử tế, nhưng có ai biết lòng tử tế cho Yên ? Yên đã bị hiểu lầm một cách tai hại. Cậu tôi, trông người xâu xấu thế nào ấy. n thì ăn nhiều, ngủ lại ngủ mê mệt đến tám chín giờ. Từ ngày có vị khách ấy vào, tôi mất vui. Yên chắc cũng không vui lắm, nhưng tính tình kín đáo, Yên không để lộ sự bất mãn như tôi. Có cái bóng gì hắt lên ngày sống vui tươi của tôi làm tôi khó chịu. Chị Yên hay dậy sớm đun nước pha trà. Biết lệ ấy, cậu tôi cũng lò mò dậy sớm, vào bếp, ngồi ngay cạnh Yên. Mỗi lần xuống bếp, tôi lại lộn tiết lên, vì cái dáng điệu đáng ghét của cậu. Tôi bảo chị Yên:
-Sao chị không chừa cái mặt ấy ra ? Yên lắc đầu:
-Chừa làm sao được, vì cậu ấy là người nhà kia mà ! Tôi biết chị Yên đâu khổ lắm. Chị Yên bị vướng, bị ngáng, đủ tình đủ tội. Một hôm, không nén được giận nữa, tôi bảo mẹ tôi:
-Mẹ ạ, mẹ đuổi quách cái cậu gì đi. Mẹ tôi ngừng tay khâu, lườm tôi:
-Lần này là lần thứ mấy rồi hả ? Tôi ngập ngừng:
-Cậu ấy... cậu ấy... Nhưng tôi im bặt, chạy vội ra ngoài sân. Tôi biết là nếu nói sự thật ra trong nhà tôi sẽ có sự xô xát, và Yên sẽ không còn được 'cát bay vàng lại ra vàng' nữa. Sự tức giận, hằn học, tôi trút nó vào trong một bức thư gửi ra Hà Nội cho anh tôi: 'Anh ơi,' Nhà ta có cái người cậu gì ấy. Trông cậu ấy em chỉ muốn đánh chết đi. Cậu ta cứ xán lại gần chị Yên rồi cười thế nào ấy. Em nghĩ giả dụ anh có ở nhà thì mấy mà chúng mình chả làm nên chuyện. Không tin anh cứ về nhà mà xem, em không nói dối đâu. Chúc anh bình yên; em tức lắm anh ạ. Em yêu của anh, X.X. Tái bút:-Anh có về thì mua bánh về nhé. Anh mua cả khăn chít đầu cho chị Yên nữa. Về mà xem, mau lên anh!
Viết xong thư, tôi hả lắm, lẩm bẩm mãi:
-Rồi phen này biết tay nhau ! Mẹ tôi vẫn không hay biết gì hết, vẫn lặng lẽ ngày hai buổi đi chợ, và khi về lại đưa cho cậu tôi những thức nhắm rượu. Tôi ngứa mắt lắm, nhưng không biết làm sao được. Yên cũng như lấy cái buồn của tôi. Yên hay ngồi một mình, thỉnh thoảng lại thở dài. Một Sáng, tôi thức dậy sớm, thì đã nghe tiếng cậu tôi nói trong bếp:
-Trông Yên ngồi bên lửa hay lắm ! Không có tiếng trả lời, rồi tiếng tiếp theo:
-Người ta khen còn làm bộ. Tôi gọi to lên:
-Chị Yên ra đây, chị Yên ! Yên vớ được dịp tốt chạy ra với tôi, nét mặt xanh ngắt. Tôi cầm tay Yên mà tội nghiệp hộ. Yên nhìn tôi, lộ vẻ cảm ơn, rồi lấy dải yếm lau mắt. Từ đấy, tôi không gọi cái người kia là cậu nữa. Tôi gọi bằng 'ấy' hay 'này', như người vợ mới cưới thẹn thò không dám gọi chồng bằng 'cậu' hay 'mình'. Rồi đến một Sáng kia
-độc ác thay là cái Sáng ấy
-tôi đương ngủ thì một bàn tay chợt đánh thức tôi dậy. Tôi hốt hoảng nhận ra là Yên, Yên đương khóc. Lúc ấy, trời Sáng chưa rõ mặt người. Ngọn đèn canh trộm vẫn leo lét cháy, ủ dột. Tôi ngồi dậy hỏi Yên:
-Sao chị khóc ? Yên không đáp, lắc đầu, mãi sau mới nức nở:
-Em ở lại, chị đi đây. Tôi rụng rời:
-Chị Yên đi đâu ? Ai đánh chị Yên ? Yên như chợt biết câu nói của mình là hớ, nên chữa:
-Không ai đánh chị hết, chị đi rồi chị lại về. Thấy tôi giữ riết lấy vạt áo, mà bên ngoài thì đã có tiếng gà gáy báo trăng thượng tầng lên, Yên nóng ruột: 'Chị ra tỉnh mua hàng cho mẹ. Em có tiền cho chị vay mấy hào'. Tôi lục rương đưa cho Yên một đồng bạc, tiền mẹ tôi cho để mua sách. Chị Yên còn nắm tay tôi đến mấy lượt nữa rồi mới bước ra đi. Bên ngoài, tiếng một con chó sủa bóng trăng lạnh. Tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, thì chợt nghĩ đến một sự. Tâm linh vô cùng Sáng suốt của trẻ nhỏ đã cho phép tôi phác vẽ một chuyện ghê người. Tôi nhảy xuống đất, gọi:
-Cậu ! Cậu đâu rồi ! Không có tiếng thưa. Tôi vặn to ngọn đèn lên, rồi chạy lay tay cậu. Sự thông minh riêng làm cho tôi ngờ rằng cách ngủ mê của cậu tôi là giả vờ. Đợi tôi lay đến lần thứ năm
-người lớn ai lại ngủ mê thế nhỉ ?
-cậu tôi mới choàng tỉnh dậy, làm ra vẻ ngơ ngác nhìn tôi. Trước cặp mắt mở ra không vướng một bóng mệt nào của giấc ngủ, tôi điên lên:
-à, ra cậu gớm thật. Cậu tồi thật ! Cậu tôi tỏ vẻ kinh ngạc hỏi tôi:
-Sao cháu lại bảo cậu tồi ? Tôi càng tức thêm:
-Còn không tồi ! Được để tôi mách với mẹ tôi cho mà xem!
Sáng hôm sau, vị quý khách ấy vội vàng từ giã nhà tôi, nói dối là đã tìm được việc làm. Câu chuyện trên kia, tôi không dám nói cho ai biết, vì tôi chỉ hiểu nó bằng khiếu thông minh riêng, mà không bắt được tang chứng. Ròng rã trong hai năm trời tìm kiếm, mẹ tôi thấy chị Yên ở làng Nhồi, gần tỉnh lỵ Thanh Hóa, yên phận bên một người chồng ngày ngày xe đá về tạc những hình tượng xinh xinh...
Tôi sống bên núi Nhồi, bên chị tôi, trong hơn một năm trời nữa, hưởng lại, lúc cuộc đời bắt đầu chớm buồn, những ý vị đậm đà của một mối tình cao quý.