2. Sau Khi Chết (APRèS LA MORT)
Tác giả: Léon Denis Société Théosophique Adyar, 4 Square Rapp. Paris 7e
Từ lâu người ta đã nhận thấy rằng thế giới càng tiến trên đường vật chất thì càng xa tôn giáo, tín ngưỡng càng giảm, và lòng hoài nghi. Chủ nghĩa duy vật càng tăng, cho rằng đời người đến chết là hết, không biết còn đi tới đâu, tương lai mù mịt. Theo lời tác giả thì nhiều nhà học giả đã cố công tìm hiểu, và với một phương pháp mới "mà họ cũng gọi là khoa học, vì căn cứ vào những sự có thực" là khoa thôi-miên (magnétisme, hypnotisme), họ đã đi sâu vào bên kia cửa tử và biết được bí mật của Tạo-Hóa, những luật thiên nhiên, mà họ gọi là giáo lý huyền bí (la doctrine secréte)
Những điều họ đã nhận thấy được tóm tắt như sau đây:
Ðời sống chỉ là sự tiến triển, trong thời gian và không gian, còn tâm linh (esprit), nó là sự thật vĩnh cửu duy nhất. Như thế tôn giáo đích thực, tức là đúng nghĩa tôn giáo, phải đứng trên và bao gồm tất cả các tính ngưỡng, vì sự thật là cao hơn hết.
Thượng Ðế là cha chung tất cả, chính là cái nguồn của sự sống. Thượng Ðế là vô-cùng-tận mà không thể tượng hình, nghĩa là coi như tách ra khỏi thế giới, đứng riêng biệt ra ngoài. Ðiều tai hại của tín ngưỡng là tạo ra quan niệm một Thượng Ðế có hình dáng như người và đứng ngoài thế giới hữu hình. Theo quan niệm mới cao hơn, thì Thượng Ðế tự tại khắp nơi, hiện hữu trong tất cả mọi vật, là một đại thể bao gồm tất cả các thể vật.
Ðại thể tối thượng không đứng ra ngoài thế giới, mà cũng không ở trong thế giới. Ðó là trung tâm duy nhất ban bố và điều hòa tất cả các mối tương-quan, là nguyên tắc sự liên hệ và tình thương huynh đệ của tất cả vạn vật.
Vũ-trụ không phải đột nhiên từ hư-không tạo thành, theo như các tôn giáo, mà là một cơ thể vĩ đại và vĩnh viễn, vô thủy vô chung, bao giờ cũng có. Trong vũ trụ có nguyên tắc mảnh lực và động lực, lại có mục đích. Mọi vật biến hóa và tiến triển cho vòng sinh tử bất tận, nhưng không có gì tiêu diệt. Trong khi trên trời, có những mặt trời tối đi và tắt, những thế giới già cỗi tan biến, thì ở nơi khác, có những hệ thống mới được tạo thành, với những ngôi sao sáng rực, những thế giới nẩy sinh.
Công cuộc vĩ đại diển tiến qua thời gian vô tận và không gian vô biên, do sự chung sức của vạn vật liên hệ với nhau và lợi ích cho nhau. Một nguyên tắc bất di bất dịch ngự trị trên công cuộc đó, là sự duy nhất của Vũ-trụ, nó bao gồm và điều hòa tất cả các hoạt động riêng rẽ nhưng cùng một mục đích là sự toàn thiện.
Linh hồn không bao giờ tiêu diệt. Nó là nguyên tắc của đời sống, nguyên do của cảm giác. Nó là một sức mạnh vô hình, ngự trị trên phủ tạng chúng ta và điều hòa tất cả bộ phận trong người.
Mỗi đời sống của chúng ta trên thế gian là một giai đoạn của đời sống vĩnh cửu. Luật luân hồi đã được chứng minh trong giấc ngủ thôi-miên, những người bị thôi miên đã nói ra những sự việc ghi sâu trong tiềm thức họ trong những đời đã qua, mà trí nhớ của con người lúc tỉnh không đạt tới được.
Mục đích tối cao là sự toàn thiện, con đường đi tới đó là sự tiến hóa. Số phận mỗi người trong chúng ta điều như nhau, không có người hơn kẻ kém, duy có con đường đi là khác nhau, người đi nhanh kẻ đi chậm. Do đó, những linh hồn chỉ khác nhau về trình độ tiến hóa.
Không có thiên đường cũng không có địa ngục. Không có quan tòa nào buộc tội chúng ta, ngoài chính lương-tri của ta. Khi lương-tri thoát ly khỏi xác thân vật chất thì trở thành sáng suốt, và luật nhân quả là tuyệt đối, bất di bất dịch. Ðời sống hiện tại là cái kết quả của những đời trước, khi linh hồn chuyển sang một xác thân khác thì đem theo hậu quả của cái hành vi tốt hay xấu đã làm qua.
Nhưng linh hồn không phải là bị trói buộc mãi mãi vào trái đất tối tăm nầy. Khi đã tiến hóa, sẽ thăng lên những thế giới sáng hơn, rồi cứ như thế tiến mãi để đi đến hòa đồng với vũ trụ và thực hiện ý muốn của Thượng Ðế.
Mỗi linh hồn là một tàn lửa của lò Tạo Hóa, nó mang trong mình nó tất cả luật của thiên nhiên. Nó là một thế giới riêng biệt, có đủ các tiềm năng. Nó càng tiến tới trong sạch thì tiềm năng càng xuất hiện, rồi dần dần đạt tới mức độ tối cao.
Trong bước tiến, linh hồn phải phấn đấu, phải hy sinh, phải gian khổ. Gian khổ là cần thiết cho tiến hóa. Nó dạy cho chúng ta hiểu biết hơn, cho chúng ta biết đè nén những tham vọng, cho chúng ta biết yêu thương người khác. Tất cả đau khổ trên đời chung sức lại để đưa chúng ta đến chổ toàn thiện.
Xem đấy thì cái chết không đáng sợ, nó chỉ là một sự chuyển tiếp, một sự đổi mới, vì thực ra không có ai chết, mà là một sự thay đổi hình thức bên ngoài, mà nguyên tắc của sự sống là linh hồn vẫn tồn tại mãi mãi, không bao giờ mất. Nó giữ được tất cả bản năng của nó, và tất cả những đức tính nó đã bồi đắp được trải qua nhiều đời liên tiếp. Ðó là kho tàng quý giá mà chúng ta có thể đem theo để hữu ích cho ta trong đời sắp tới.
Trên đây là tóm lược những điều mà các học-giả đã nhận thấy nhờ phương pháp thôi-miên. Các học-giả bắt đầu để ý tìm hiểu các hiện tượng huyền bí từ hơn 100 năm: Hoa kỳ 1848, Anh 1869, Pháp 1887, rồi Ý, Tây-Ban-Nha. Ðại hội tâm linh thế giới năm 1889 và 1900 đã đồng thanh xác định sự tin tưởng vào những nguyên-tắc và sự việc như sau.
- Có Thượng Ðế, là sự sáng suốt tối thượng, là nguyên nhân của vạn vật.
- Trên nhiều thế-giới có đời sống.
- Linh hồn bất diệt, những đời sống của xác thân nối tiếp nhau trên địa cầu và nhiều tinh cầu khác trong không gian
- Sự giao tiếp bằng thôi-miên qua trung gian của con đồng (médium) với các tâm linh đã chứng tỏ rằng hồn người ta vẫn còn tồn tại.
- Tình trạng sướng hay khổ của đời sống thế gian tùy thuộc vào những hành vi quá khứ, đức tính và trình độ tiến hóa của linh hồn.
- Linh hồn tiến hóa vô cùng.
- Sự liên hệ và tình huynh đệ có luôn luôn trong vũ trụ.
Những con đồng làm trung gian để tiếp xúc với các tâm linh trong thế giới vô hình, là những người nhậy cảm, dễ cảm ứng với cõi vô hình. Thầy thôi-miên dùng quyền lực khiến cho hồn vía con đồng thoát ra khỏi xác, như thế một tâm linh, là một linh hồn đã thoát xác có thể điều khiển cơ thể con đồng và nhờ đó tiếp xúc được với trần gian. Có khi con đồng chỉ bị cánh tay dường như tê đi và bị một sức mạnh vô hình đưa đẩy viết ra thành chữ (như tại Việt Nam xưa kia vẫn có, là những người phụ bút Thánh, cầm bút bằng gỗ viết chữ lên mâm đồng).
Huyền-bí học bắt buộc phải có nhiều khôn ngoan và kiên nhẫn. Trong đám đông vô hình vây quanh chúng ta những linh hồn cao thượng thì ít, họ thường ở những nơi thanh nhẹ, chỉ xuất hiện khi nào cần giúp đở cho sự tăng tiến của chúng ta và chỉ giao tiếp với những người có tâm ý trong sạch. Còn đại đa số cũng như ở cỏi trần, là những linh hồn thấp kém, còn thiết tha đến vật chất, nên quanh quẩn gần đám người trong đời sống thể xác. Họ ảnh hưởng đến những người tâm hồn yếu ớt, có khi thúc đẩy người nầy làm những sự dại-dột. Cho nên cần phải rất dè-dặt trong việc tiếp xúc với thế giới vô hình.
Các nhà học giả đã nhận thấy rằng mỗi người chúng ta đều có ba phần:
1- Xác thân, là cái vỏ vật chất tạm thời, bỏ lại khi chết như một cái áo cũ rách.
2- Vía (périsprit), là cái vỏ dịch thể, mắt phàm không thấy được, nó theo linh hồn trên đường tiến hóa và cũng thanh lọc như hồn. Nó là một thể thanh nhẹ như éther, có hình dáng của thể xác bao bọc lấy linh hồn, nó như là sợi dây liên lạc giữa xác với hồn. Thể xác của ta (theo Phật học là thân tứ đại: đất, nước, lửa, gió) luôn luôn đổi mới do các chất đem vào cơ-thể và bài tiết ra. Nhờ có vía ta mới giữ được tính chất vững bền, từ trẻ đến già, xác thân có thay đổi mà ta vẫn là ta, nó tựa như cái khuôn mà thể xác đóng vào.
3- Linh hồn, là tính chất thông minh, trung tâm sức mạnh nguồn gốc của lương-tri và bản tính.
Ba phần ấy: vật chất, dịch thể và thông minh, hợp lại thành đời sống, là căn bản tạo nên vũ trụ. Mỗi người là một tiểu vũ-trụ, cũng đủ khả năng và định luật của đại vũ-trụ. Vậy nếu chúng ta hiểu hoàn toàn được chính mình, thì cũng hiểu được những luật cao cả của vũ-trụ. Những nhà học giả đã cố tìm hiểu nhưng vẫn chưa hiểu được hoàn toàn con người.
Linh hồn thoát ra khỏi thể xác vật chất và khoác cái vỏ thanh nhẹ, đó là tâm linh (esprit), tính chất dịch thể, hình dáng người nhưng không lệ thuộc vào những sự câu thúc trần gian, không trông thấy được, không đụng chạm được. Tâm linh là một người đã lìa khỏi xác thịt và đi vào không gian, rồi sẽ lại sinh ra ở một đời vật chất khác, bắt đầu lại cuộc tranh đấu để sinh tồn, cuộc tranh đấu cần thiết cho sự tiến hóa.
Những điều trình bày, theo lời tác giả, không phải là do sự tưởng tượng hoặc suy luận hoặc đoán phỏng, mà chính là do những phiên tiếp xúc rất nhiều với các tâm linh.
Sau đây là những trạng thái từ khi bước qua cửa tử.
Những cảm giác trước và ngay sau khi tắt nghỉ rất là phức tạp và tùy theo tính tình, đức hạnh và trình độ của tâm linh. Cảm giác càng nặng nề và sự lìa bỏ càng dai-dẳng, khi những sợi dây ràng buộc vía với xác thân càng mạnh và càng nhiều. Tức là những người còn luyến tiếc đời nhiều, từ trước chỉ biết hưởng thụ vật chất, và những người tội lỗi thấm nhuần nhiều trược khí. Nhiều người còn tưởng vẫn tiếp tục đời sống xác thân rất lâu sau khi chết, vẫn giữ thói quen cũ và cảm giác như khi còn sống. Cũng có những tâm linh thấp kém, thấy mình ở trong đêm tối dày đặc, hoàn toàn cô đơn, sợ hãi vô cùng. Những tội phạm luôn luôn bị dày vò bởi hình ảnh những nạn nhân của họ.Những người thiếu đức tin, cho rằng chết là hết đến giờ lâm chung rất là sợ hãi, cố bám một cách tuyệt vọng vào sự sống nó lìa xa dần, họ tưởng như là bị rơi vào vực thẳm.
Còn những người đã làm xong phận sự, đã phấn đấu và gian khổ nhiều, lòng không còn tha thiết đến trần tục và tin tưởng ở tương lai, thì cái chết là giải thoát, sự lìa bỏ rất nhanh chóng nhẹ nhàng như một giấc ngủ êm-ái, tiếp theo là bừng tỉnh khoan khoái. Dần dần một ánh sáng tràn ngập, không chói như ánh sáng mặt trời, mà là ánh sáng dịu-dàng tràn lan khắp cả, thắm nhuần vào tâm linh khiến cho có cảm giác vui mừng sung sướng. Rồi tách ra khỏi những người khóc lóc quanh xác chết, thấy mình bay bổng lên cao, gặp những người thân thuộc xưa kia đến chào đón. Từ đấy tâm linh sẽ bay lên những tầng trên tùy theo trình độ thanh khiết. Lo âu đã hết, hoan lạc bắt đầu.
Ða số là những người không có tội nặng nhưng cũng không có đức cao lúc đầu ở trong tình trạng sợ hãi, lại vẫn còn đau khổ và khóc lóc với những người thân trong đời đã qua. Lâu dần những tâm linh khác đến khuyên nhủ, khiến cho trút bỏ những dây ràng buộc với trần gian và thăng lên nơi sáng sủa hơn.
Thường thường hồn lìa xác bớt đau khổ hơn sau một thời gian dài bệnh hoạn. Những cái chết đột ngột, mạnh bạo, xẩy ra trong khi cơ thể đương đầy sinh lực, làm cho hồn đau đớn như bị xé ra và ở trong tình trạng động loạn kéo dài. Những người tự sát có những cảm giác khủng khiếp, trong nhiều năm họ còn cảm thấy nỗi thống khổ trong giờ chót, và thất vọng sợ hãi khi nhận ra rằng họ chỉ đổi khổ não nọ lấy khổ não kia gay gắt hơn nhiều.
Những linh hồn được xếp đặt trong không gian theo một định luật rất đơn giản. Vía càng thanh nhẹ thì khi lìa khỏi xác thân càng nhanh chóng và sẽ bay lên tầng càng cao, nơi có những vía khác cũng thanh nhẹ như mình.. Có thể so sánh những tâm linh trên các tầng trời như những quả bóng thổi phồng bằng chất khí nặng nhẹ khác nhau, bay lên độ cao khác nhau. Tâm linh không phải ở yên một chỗ, tự do di chuyển và có thể tiến cao hơn được. Còn những tâm linh nặng trược thì phải ở những tầng thấp kém.
Như thế mỗi tâm linh tự xét thưởng phạt lấy mình, là quan tòa của chính mình. Khi đã lìa khỏi cái vỏ vật chất, thì tự nhiên sáng suốt, kiểm điểm lại hành vi của mình, cân nhắc việc thiện việc ác, đó là giờ phút cực kỳ đau khổ. Trình độ thanh khiết, vị trí trong không gian, là kết quả những tiến bộ và quyết định phẩm giá của tâm linh. Ðó là bản án không thể sai lầm, không thể cưỡng lại. Không có tòa án,không có xét xử, chỉ là cái luật bất di bất dịch, tự động thi hành. Tất cả những hành vi và ý nghĩ đều phản chiếu vào một tấm gương và tự động ghi khắc vào cái võ dịch thể của chúng ta như là một cuốn sổ. Trong thời sống thì cuốn sổ ấy đóng vì thân xác vật chất nặng trược, nhưng khi chết thì sổ ấy dần dần mở ra.
Vậy nên tâm linh khi thoát xác, mang trong mình nó thiên đường hoặc địa ngục. Kẻ làm điều ác, tưởng rằng không ai biết việc mình làm, nhưng lúc nầy bao nhiêu điều ác đều bày lộ ra. Người sống còn có việc làm, việc học, giấc ngủ, làm cho khuây khỏa, người chết không còn những ưu điểm ấy nữa, hình ảnh quá khứ luôn luôn bày ra trước mặt. Lòng ăn-năn cay đắng không ngừng khiến cho những tâm linh ấy mong sớm trở lại thế gian để chịu đau khổ để chuộc lại quá khứ.
Tâm linh tiến hóa cao có một đời sống rất hoạt động, song không mệt nhọc. Không có vấn đề không gian, ý muốn đến đâu là đến tức thì. Những tâm linh ấy rất thanh nhẹ, đến độ những tâm linh thấp kém không thể trông thấy. Trông, nghe, cảm không còn phải bằng bộ phận vật chất như chúng ta, nhưng trực tiếp vì thế họ sáng suốt hơn chúng ta nhiều.
Tâm linh tiến hóa cao không còn nhu cầu vật chất, cũng không còn phiền não. Trái lại tâm linh thấp vẫn còn mang theo những thói quen, nhu cầu, vẫn thiết tha vật chất, vì không lên cao được, họ chia xẻ cuộc đời với người sống, lẫn lộn vào công việc và thú vui của những người nầy. Những tham vọng, thèm thuồng, luôn luôn thức tỉnh, càng bị kích thích vì tiếp xúc với người sống mà không thỏa mãn được, đau khổ càng nhiều.
Linh hồn đạo đức, sau khi đã thắng được tham vọng, đã lìa bỏ xác thân tàn phế, cái xác thân đã từng quá đau khổ lẫn vinh quang, nay bay lên không gian vô tận. Do một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nó bay qua những vùng mà mọi vật đều hòa dịu và rực-rỡ, có cảm giác nhẹ nhàng sung sướng, trần gian không có lời nào tả được. Không còn là cái thân nặng nề, như ngục tù tối tăm, nay là cái thân dịch thể, hoàn toàn tự do, không gì trở ngại.
Tuy nhiên, những tâm linh nầy cũng sẽ đầu thai trở lại thân hình xác thịt, hoặc ở thế giới nầy, hoặc ở thế giới khác, để tiến, tiến mãi. Trên những thế giới cao hơn, đời sống sẽ lâu dài hơn và sung sướng hơn, không có những nhu-cầu vật chất như ở đây. Ðến khi tâm linh đã trãi qua đời sống trên các tầng cao, thì sẽ thoát khỏi luân hồi, bấy giờ là đời sống yên tỉnh, trong sạch, vĩnh cửu, đoạn tuyệt phiền não. Rồi tiến lên mãi, lên mãi đến thượng đỉnh. Chỉ có những tâm linh tiến hóa cao tột bực mới chịu nổi ánh sáng mãnh liệt của Thượng Ðế.
Muốn được thăng lên những tầng cao, thì trước hết phải lìa bỏ những tham vọng, thèm thuồng, phải đạt được những đức tính dịu-dàng, nhẫn nại, tin tưởng, phải chịu khổ không phàn-nàn, khóc trong thầm lặng, coi nhẹ của cải và lạc thú giả tạm của thế gian, đặt hết tâm tư vào việc thiện. Phải chịu đau đớn, thiếu thốn, nhục nhằn, cô đơn, phiền muộn, phải chịu ngậm đắng nuốt cay. Vì chỉ có cái khổ nó mới làm nẩy nở sức mạnh hùng dũng của linh hồn, nó rèn đúc linh hồn để phấn đấu để được thanh khiết, để thăng tiến lên đời sống cực lạc. Hãy trả lại trái đất tất cả những gì thuộc trái đất, hãy hướng lên những kho tàng vĩnh cửu, hãy làm tròn phận sự, dù có phải hy sinh, phải chết. Hãy ban ra tình thương, tình thương vô cùng tận. Ðó là gieo mầm cho lạc thú tương lai.
3. Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND)
(Phần 1)
Tác giả: Ruth montgomery Coward, Mc Cann & Geoghegan, Inc, 200 Madison Ave NewYork, N.Y. 10016
Tác giả thuật lại lời của một người từ thế giới bên kia nói lên bằng phương pháp đánh máy tự động. Người ấy tên là Arthur Ford, đã chết ngày 14-1-1971, thọ trên 70 tuổi. Phần lớn đời sống của ông dành cho việc khảo cứu về thế giới vô hình. Ông là một con đồng (medium) nghĩa là người có khả-năng để cho những linh hồn có thể tiếp xúc với người trần qua trung gian của ông. Có rất nhiều người đã biết tiếng ông.
Ông học rộng, đọc nhiều, sáng suốt, nghĩa là có thể nhận biết ngoài giác quan vật chất, có khả-năng nhìn đồ vật mà đoán được sở hữu chủ. Ngay trong khi thức tỉnh, ông có thể nghe người chết nói với ông. Không như nhiều con đồng cần nơi hoàn toàn đen tối, ông có thể lên đồng bất cứ lúc nào, ban ngày hay đèn sáng, chỉ buộc một chiếc khăn thẫm màu bịt ngay mắt, linh hồn người chết sẽ nói qua miệng ông. Khi còn trẻ, ông là mục sư Tin Lành, ông đã có khả năng nhìn thấy được ngoài tầm con mắt, như một buổi sáng trong trại lính. Trước khi thức giậy, ông "trông thấy" tên những người mới chết đêm vừa qua, ông kể cho các bạn hay, họ ra xem bản danh sách thấy đúng, không những đúng tên mà đúng cả thứ tự. Trong nhiều năm sau ông nghiên cứu về Huyền-Bí- Học.
Tác giả cũng có khả-năng nhưng không muốn trở thành con đồng, mà chỉ dùng vào việc đánh máy tự động. Phương pháp nầy cũng như cầu cơ, phụ bút tại Việt Nam, nhưng diễn tả được nhiều hơn, và rõ-ràng nhanh chóng hơn. Những phiên đánh máy tự độ ng để viết ra cuốn nầy, bắt đầu ít ngàysau khi việc hỏa táng thi hài ông Ford hoàn tất, và tro được rãi xuống Ðại-Tây-Dương gần Miami. Những lời trong cuốn nầy là lời của ông Ford mà tác giả thuật lại. Cuốn sách được xuất bản năm 1971 là năm ông Ford chết.
Ðại khái những điểm quan trọng như sau:
- Mỗi người là một thực-thể tồn-tại mãi mãi trong cõi vô cùng, không đầu, không cuối vô thủy vô chung.
- Mỗi người trong chúng ta là một phần của Thượng Ðế, tất cả chúng ta hợp lại là Thượng Ðế.
- Mỗi chúng ta đều thiếu sót nếu không có toàn thể nhân loại, cả người sống và người chết. Tất cả chúng ta hợp lại thành Tâm linh Vũ-trụ, mà ta quen gọi là Thượng Ðế.
- Trong cõi vô hình không có thời gian, chúng ta có thể xóa bỏ thời gian và không gian, vì có thể đến bất cứ nơi nào bất cứ lúc nào theo ý ta muốn, và chúng ta có thể nhìn xa trong cái mà thế gian gọi là tương lai, vì mọi sự đều định trước cả. Nếu người nhân thế hiểu rằng mọi sự được định trước đến mức nào, thì họ sẽ không phải phấn đấu mảnh liệt để tránh tai ương, vì khi đã là tiền định thì khổ tâm có ích gì! Hãy chấp nhận mọi việc xẩy đến, duy phải nhớ cố gắng có một đời sống hữu ích. Chẳ ng nên sợ hãi, vì đó là ý muốn của Thượng Ðế, hoặc là phận sự mà ta đã lựa chọn khi trở lại đời sống vật chất. Giữ tâm thoải mái làm hết sức mình.
- Ði vào cõi chết chẳng khác gì bước qua một cửa mở chào đón, bước ấy nhanh chóng hầu như không cảm thấy. Người thì vui mừng, kẻ thì miển cưỡng, nhưng phải đều nghe theo tiếng gọi của Vũ-trụ đến nơi yên tỉnh.
- Có nhiều việc làm, nhưng chỉ là những việc có mục-đích cần thiết và thích nghi, nhưng muốn làm hay không tùy ý, không ai bắt buộc phải làm gì cả, tự mình chọn lấy việc làm nếu muốn tiến.
- Ý nghĩ cũng là hành động. Với ý nghĩ chúng ta tạo nên không những khuôn khổ cho đời sống tương lai, mà còn cả Thiên đường hay Ðịa ngục cho chính mình.
- Tham thiền rất là quan trọng, cần tiếp tục luôn luôn trong cõi hữu hình, vì đó là sợi dây liên lạc với tâm của Thượng Ðế. Như người đi học, mỗi ngày bài học khó hơn hôm trước. Cũng thế, mỗi ngày bỏ qua không tham thiền là một ngày uổng phí, mà thời giờ trôi đi rất nhanh chóng. Có ở bên vô hình mới thấy rõ là bên hữu hình một đời người không lâu hơn một tia chớp là bao, và thời gian từ đời sống nầy sang đời sống khác, có khi trải hàng bao nhiêu thế-kỷ hay hàng triệu năm, cũng chỉ như là nh ững lúc chờ đợi hơi lâu mà thôi.
- Thời gian trong cõi vô hình không có nghĩa gì cả. Không ai có tuổi, vì ai cũng có từ lúc sơ khai và không bao giờ là tận cùng, không có thời giờ, không có gì chết, không có sự chết. Mọi vật đều có từ đầu, không có việc gì tiêu diệt, chỉ là thay đổi trạng thái, như con sâu hóa bướm, rồi tan rã và hồn nó lại sang một thân hình khác.
Ông Ford kể lại cảm giác của ông: Sau khi thoát xác, tôi cảm thấy nhẹ-nhàng, tự do, sung sướng, không còn vướng-víu xác thân nặng nề, không còn bệnh hoạn đau đớn, cảm giác khoan-khoái không sao tả được. Rồi gặp các bạn bè thân thuộc xưa kia đến chào đón vui mừng. Ðời sống hai bên không khác gì nhau, chúng tôi vẫn ở đây, duy không có cái thể xác bị nhiều luật vật-chất ràng buộc. Chúng tôi tự do như gió muốn đi đâu và lúc nào cũng được, có thể đi xuyên qua các vật hữu hình. Nhưng không phải là đi lang-thang, vì ai cũng có mục đích.
Mục đích ở đây cũng như ở bên hữu hình, là làm theo ý muốn của Thượng Ðế. Chúng tôi không ai giống ai, mỗi người một việc khác nhau. Chúng tôi thực sự không được trông thấy Thượng Ðế, nhưng lúc nào cũng cảm thấy Thượng Ðế ở gần kề, vì chúng ta là Thượng Ðế, Thượng Ðế là chúng ta, không có cách biệt. Chúng ta cũng ví như những ngón tay, tuy rằng riêng biệt nhưng vẫn thuộc vào một khối chung.
Thượng Ðế là một sức mạnh trường tồn, nó hợp nhất tất cả mọi vật trong vũ-trụ. Sức mạnh ấy là Chân-lý vũ-trụ, là toàn thiện vũ-trụ. Người mới sinh ra cũng toàn thiện, nhưng sau càng đông thì càng cạnh tranh nhau về vật chất nên mất hòa đồng , mất hòa đồng là căn-bản sinh ra tội ác, cho nên phải chịu luân hồi. Nhưng chúng ta sẽ luôn luôn tìm đến toàn thiện, tìm đến tình thương của Thượng Ðế, tình thương là chất keo gắn liền chúng ta với sức mạnh trung-ương. Hãy yêu thương lẫn nhau, yêu thương Thượng Ðế, yêu thương chính mình, hãy tự mình hòa điệu với sức mạnh vô cùng ấy. Vì chúng ta còn thiếu sót chưa toàn thiện, nên còn phải trở lại trái đất nhiều lần, để mài dũa những khía cạnh lởm chởm của chúng ta cho được hoàn toàn tròn trặn để hòa đồng với đại khối.
Thượng-Ðế cũng là sự hiểu biết hoàn toàn, biết cả những điều cầu nguyện chưa phát ra lời. Ngài là ánh sáng, là sự thật, là tình thương. Ngài là đức Sáng Tạo ra ta, là cha chúng ta, yêu thương mỗi người trong chúng ta. Ngài sẵn-sàng ban cho ta tất cả những gì lợi ích nhất cho ta mà không thiệt hại đến ai khác. Tất cả những điều cầu nguyện do lòng tin và tình thương đều được ban cho. Ngài hàn gắn vết đau, Ngài yêu thương, Ngài an ủi, Ngài coi sóc ngày đêm và năm tháng. Thượng Ðế là tất cả.
Ông Ford nói đến vài trường hợp khác nhau của những người đã bước qua cửa tử.
Người mới qua đời với cái chết tự nhiên, bỏ lại xác thân mệt mỏi bệnh hoạn, thì hồn lìa ra dễ dàng không cảm thấy gì.Vừa mới lúc trước còn mang mớ xương thịt đau đớn, mà ngay sau đó đã thấy mình ở trong cảnh đẹp tươi trong sáng. Có người ở trên một cánh đồng cỏ có cây có suối. Bỗng nhớ nhà muốn về nhà, tức thì về ngay, thấy nhà đông người mà không ai để ý đến mình cả. Thấy vợ mặt áo tang ngồi khóc, y lại gần vỗ-về vợ, nhưng vợ không trả lời. Rồi thấy sửa soạn đám tang, y đến gần xem thì rất hoảng sợ, vì đây là lần đầu y trông thấy thân hình y nằm đó và người ta sắp đem chôn. Y cố kêu gọi mọi người rằng y vẫn còn khỏe mạnh đây, nhưng vô ích. Rồi y thấy nhiều người thân củ đã chết từ lâu vây quanh chào đón và nói cho y biết rằng y đã sang cõi vô-hình. Một ông già râu bạc gọi y đến trường học, trong lớp có nhiều người khác, ông già cho biết y nay đã thoát xác rồi, gia đình bè bạn không thể trông thấy và nói chuyện với y được nữa. Y phải chấp nhận và tập cho quen với đời sống tâm linh, có nhiều khả năng hơn trước. Bấy giờ y nhớ lại cuộc đời đã qua và cả những đời trước nữa. Y rất đau khổ đã không hoàn tất được công việc mà y đã quyết định làm khi y nhận lãnh cái thân xác thịt vừa qua. Nay y nhớ lại cái mục tiêu mà y tự đặt ra khi đó, và giận cho y đã quên mất vài phần khi ở trong đời vật chất. Tại sao tiềm thức y nhớ, mà tâm thức y lại quên? Do đó y đã uổng phí một phần đời y, khiến cho y chậm tiến. Y cũng nhận thấy rằng đây là một thế giới hoạt động, người lười biếng tự làm hại mình vì không a i bắt buộc phải làm gì cả, không làm gì thì cứ ở mãi trong tình trạng thấp kém mà không tiến cao lên được.
Hành động tốt nhất để tiến là ban bố tình thương. Một ý nghĩ không tốt, nhất là một ác ý đối với ngươì khác, có thể làm chậm bước tiến đến độ phải cần cả một đời tương lai hoặc hơn nữa để gạt bỏ vết đen ghi trong cuốn sổ tiềm thức. Chớ nói ác, chớ nghĩ ác. Không có điều ác nếu tự ta không tạo ra nó. Chính chúng ta là ma quỷ của chúng ta.
Trong đời sống xác thịt, ta có thể vượt qua được các chướng ngại của thân vật chất, nếu những sự ham muốn, thù hận, được gạt bỏ ra ngoài. Ðời sống thế gian là một đời sống đầy cám dỗ. Sự thách đố vượt qua cám dỗ là con đường nhanh chóng nhất để tiến lên trình-độ cao hơn. Ðối với vô cùng, thì cái thân vật chất chỉ được một khoảnh-khắc ngắn ngủi đã bị hủy diệt rồi, thế thì tại sao không cố vượt qua cám dỗ vật chất nó chỉ tồn tại trong một chớp mắt, để cho sự tiến hóa của ta bị trì hoãn. Nên luôn luôn lưu tâm vào điểm nầy để thắng lực lượng ma quỷ nó vây quanh ta và thúc đẩy ta xa Ðấng Tạo Hóa, chỉ vì khoái lạc nhất thời.
Ma quỷ không phải là một người, hay nói đúng hơn là một hồn người, nhưng là một lực lượng mà mỗi hành động sai lầm càng làm cho nó mạnh hơn. Nguyên thủy chỉ có một danh từ, là danh từ Thiện tức là Thượng-Ðế. Cha chúng ta không đặt ra điều ác, nhưng những linh hồn ở trong thể xác thì ham muốn, tranh đấu, cải cọ với nhau, muốn cho mình được hơn kẻ khác, nên tạo ra một lực lượng ác, dần dần kết thành khối mà người ta quen gọi là quỷ Satan. Không phải Thượng Ðế mà chính là người đã sinh ra quỷ Satan, nó không phải là một linh hồn ác, nhưng là sự hình thành của tội ác, nuôi dưỡng bằng mỗi ý nghĩ và hành động ác. Muốn phá Satan, người cần thức tỉnh rằng ý nghĩ cũng là hành động, và mỗi khi một ý nghĩ ác hoặc hành động ác được thay bằng một ý nghĩ hoặc hành động với tình thương, là mỗi lần con quỷ sẽ bị thu nhỏ lại một phần. Ðến khi nào thiện hay ác không còn trong trái tim mọi người trên trái đất, không những trong thể xác mà cả trong tâm linh, thì chúng ta sẽ đạt tới Chân - Thiện - Mỹ.
Người ốm nặng mong chết để thoát khổ, là người mà hồn lìa xác nhẹ-nhàng hơn cả, vì sung sướng trút bỏ được cái thân bệnh hoạn. Người có tâm đầy tình thương, sẵn-sàng giúp đỡ những linh hồn khác, như những trẻ thơ ngay không có mẹ và những hồn mới còn gặp khó khăn.
Những người chết đột ngột mà không phải là lỗi của họ, như bị tai nạn, bị sát hại hay vì chiến tranh, bị xúc động mạnh khi thấy mình ở trong cõi vô hình không còn làm được những việc quen làm trước kia. Những linh hồn khác hết lòng giúp họ để họ thích nghi với hoàn cảnh mới.
Những người đi lính miễn cưỡng bị tử trận, rất tức giận đã mất cái thân xác trẻ trung hăng-hái. Sự tức giận đó đã không thể giải quyết được gì, còn cản trở bước tiến của tâm linh rất nhiều
Last edited by Lythongcz; 03-10-2008 at 02:18 AM.
|