Không còn nhớ rõ vào trường hợp nào và do miệng ai mà Khỉ Thọt có ý niệm “Khỉ là Tổ tiên của loài Người”. Người là thứ gì. Khỉ Thọt không hề biết, vì chưa bao giờ thấy. Khu rừng này nằm sâu giữa một vùng rừng rậm hoang vu. Ý niệm mơ hồ về loài người có lẽ bắt nguồn một phần từ một cuốn sách mà cha của Khỉ Thọt đã giữ lại được từ một ngày xa xưa, khi Khỉ Thọt còn nhỏ. Ngày đó có một chiếc phi cơ bay qua khu rừng, ngộ nạn đâm nhào xuống đất. Cả hành khách và phi hành đoàn đều chết. Thú rừng một phen hoảng vía vì những tiếng nổ long trời. Mãi một, hai ngày sau thấy yên tĩnh mới mon men tới chỗ tai nạn. Ban đầu rụt rè, sau bạo dạn lần. Chúng lượm những vật văng rớt vung vãi, ban đầu sợ sệt, sau yên tâm, đấm đá giành giựt. Cha của Khỉ Thọt yếu đuối và nhút nhát chỉ lượm được một cuốn sách văng nằm ở một khe đá. Cố nhiên chẳng biết đó là vật gì và dùng để làm gì. Cạp ăn thử, biết ngay không phải là đồ ăn. Quay qua xoay lại, lật từng tờ, tiếng rèn rẹt nghe hay hay, Khỉ cha cứ lật đi lật lại hoài. Nhìn những chữ in rậm đen, chen chúc, thoạt đầu tưởng là kiến, rờ tay thấy không phải, liền hích hích cười một mình. Nhiều trang có hình vẽ tô màu. Không biết đó là cái gì. Nhìn thế này thì ngó như con nai, mà quay ngược lạïi thì con nai đâu mất. Lật thêm vài trang thấy có hình gì giống con gấu. Cũng đứng hai chân và đôi tay buông thõng. Và cũng vậy, khi xoay ngang xoay ngửa thì con gấu cũng đâu mất. Lật tiếp lật tiếp một hồi, thấy những hình gì lạ hoắc, xanh xanh đỏ đỏ.
Nghịch chơi một lát thấy chán, Khỉ cha ném cuốn sách vào một bụi rậm bỏ đi về. Thong dong như một đồ đệ Lão Trang, quay lưng lại Văn minh. Nhưng đi một đỗi chợt nhớ thằng con ở nhà. Có lẽ nên lượm lại đem về cho nó chơi. Nó sẽ không thích vì bỏ vào miệng không ăn được, nhưng mình sẽ giải thích rằng đó không phải là lỗi do mình.
Như vậy đó, cuốn sách hiện diện trong gia định khỉ Thọt, bắt đầu lịch sử Thư tịch trong giới Linh Trưởng.
Ban đầu Khỉ Thọt chơi với cuốn sách như trước đây vẫn thường chơi với một cái vỏ dừa, với một hột thị khô. Phải mãi sau, bỗng một hôm Khỉ Thọt chợt nghĩ rằng con gấu đứng trong bức hình là một “loài Người”. Khuôn mặt con gấu, dáng đứng của nó có nét gì phảng phất giống mình, giống cha mình. Và vậy là Khỉ Thọt hay nghĩ mông lung về “loài Người” xa xôi, mờ ảo. Cho tới ngày Khỉ Thọt có vợ, có con có cháu nội.
Biết được loài Người thì chỉ có loài có cánh bay xa. Như Ngỗng trời. Khỉ Thọt nhiều lần tò mò hỏi, nhưng lũ này tính không bép xép. Khảo lắm mới lọt một tiếng:
- .."Nó” không lót ổ ... không bay được ...ờ, hình như “nó” đứng giống gấu...
May có mấy mụ Két ngồi lê nên biết được một số chi tiết:
- ... Tụi nó chun vô chun ra những cái hộp có khoét lỗ... như kiến vậy đó... Hả? Lông nó ít hơn ông.... Ô, mình nó nhiều màu, hoặc trên trắng dưới đen, hoặc trên vàng dưới nâu ... Ô, ngó dị hợm chớ sao...
Ngoài việc thấy sai hiểu sai, còn thêm ba hoa nói láo. Ai kiểm tra lại được đâu mà lo?
- ... Ồ, tất nhiên là tụi nó quý cháu ... Có chớ, nó mời cháu dự tiệc hoài ... Món ăn ngon khỏi chê ... Hẳn nhiên là có khế, ớt, chuối ... Hôm về nó tặng quà cả đống ... Nhận đâu được, vì làm sao đem về? ... Trời ơi, bay mỏi cánh thấy mồ...
Khỉ Thọt sung sướng đến mê người mỗi lần được nghe Két nói về loài Người, lũ cháu xa của mình. Cháu? Chớ sao? Mình là Tổ tiên thì lũ nó phải là cháu.
Khi Két chào từ giã, luôn luôn Khỉ Thọt kéo Két ra một chỗ riêng để hỏi riêng.
- Mày thấy mặt mũi lũ nó có giống tao không?
Tức thì Két lia liạ:
- Y như đúc khuôn. Giống sao mà giống như cắt cái mặt ông mà lắp vô vậy.
- Nói nho nhỏ. Nó có nói với mày nó nhớ tổ tiên của nó trên này không?
- Ui cha, nó bỏ ăn quên ngủ. Nó nhớ quá đến nỗi phải làm ca dao:
Chim có tổ, người có tông
Cây có cội, nước có nguồn.
- Bữa nào gặp lại tụi nó, mày nói dùm, tao cũng nhớ tụi nó lắm. Nhưng tao làm sao đi thăm được?
- Chớ sao! Con cháu, ai lại không nhớ? Ông mà xuống đó, tụi nó cưng, nó chìu, nó để trên đầu trên cổ.
- Khỉ Thọt thích quá, cười híp đôi mắt.
Một lần khác Khỉ Thọt bẻ tặng Két một trái chuối chín trước khi hỏi chuyện. Vừa nói:
- Tặng mầy trái chuối. Vừa hái chiều qua.
Thực tế thì đã đễ dành hơn bốn bữa, thấp thỏm đợi Két tới. Phải quà cáp chút ít cho nó.
Lần tặng Két trái ổi, nó khoái quá, mổ những miếng thật bự rồi cái lưỡi cứ nhăm nhăm lia lịa. Ăn xong, cười toe toét:
- Ngon quá! À, bữa trước cháu có dặn tụi nó hôm nào lên mời ông xuống ở chơi với tụi nó dưới thành phố. Tụi nó hẹn, nội trong năm nay thế nào cũng lên đón ông.
Khỉ Thọt cười híp mắt:
- Lũ nó biết ăn ở. Lễ nghĩa chu đáo.
Bao nhiêu niềm êm ái, Khỉ Thọt không thể giữ kín cho riêng mình. Ông phải tìm nơi thổ lộ. Ðầu tiên là thằng khỉ cháu nội. Một lần ngồi chơi coi chừng nó, nhân nó cứ leo lên lưng ông, trèo xuống đùi ông, bám vào cổ ông, kẹp ngang hông ông, kéo tai ông, bịt mắt ông, thọc ngón tay ngoáy vào miệng ông... ông mệt quá, ông dọa nó:
- Mày quấy tao quá, tạo chịu hết nỗi. Bữa nào tao xuống ở dưới thành phố.
- Cái thành phố ở cái chỗ nào? Mà ông đi lạc đường, beo nó chụp ông liền.
- Xì! Có “loài Người” nó lên đón ông.
- Loài Người là cái gì? Nó lớn bằng con Ngựa vằn hả? Ông leo ngồi trên lưng nó hả?
- Không. Nó là cháu. Cháu cũng như mày vậy.
- Vậy thì nó cũng leo lên lưng ông, cũng thọc ngón tay ngoáy vào miệng ông.
Khỉ Thọt cười to, cười ngoặt ngoẽo.
- Nó lễ nghĩa. Có đâu như mày?
Tỉ tê ngồi nói chuyện với mụ Khỉ vợ thì cứ bị mụ nạt ngang:
- Dẹp! Dẹp! Ngày nào cũng bấy nhiêu chuyện đó. Ði khoe cả đầu trên ngõ dưới. Ngày nào cũng đi khoe. Ðến nỗi gặp tôi đâu là họ nói móc nói mỉa. Có ham lắm thì xuống dưới đó mà ở với tụi nó.
- Chớ ở đây mỗi ngày bà thí cho tôi có hai ba trái chuối, bốn năm trái ổi, sáu bảy trái sim.
- Bộ tưởng kiếm cho ra bấy nhiêu đó, dễ lắm? Thử đi kiếm coi.
Khỉ Thọt hết nhịn được:
- Nếu Tao không bị thọi cái tay thì tao chấp. Chẳng qua không bám vào cây được, không leo trèo được, tao đành phải...
Khỉ vợ bất nhẫn, dịu giọng an ủi:
- Thì tôi đâu có trách chi ông. Thôi cũng mong ông gặp được con cháu.
- Con cháu tôi thì cũng là con cháu bà. Tôi sướng thì bà sướng. Có điều tôi đang băn khoăn là cứ chun ra chun vô cái hộp...
- Ai nói với ông vậy? Mà... cái hộp nào vậy?
- Mụ Két nói. Mụ nói lũ cháu sang lắm, chúng ở trong những cái hộp chớ không ở hang ở ổ như lũ mình.
Khỉ vợ giơ hai tay lên trời:
- Trời ơi! Ngồi mà nghe con mẹ đó! Nói láo một cây. Nói dốc một cây. Nói láo quá, mách lẻo quá, bị chúng vả miệng, cong queo cái mỏ lại, không thấy à?
Thỉnh thoảng có cụ Gấu tạt ghé chơi. Khỉ Thọt cũng thường lái câu chuyện hướng về loài Người. Chẳng hạn:
- Trưa hôm kia có con chim gì bay lên trời, bay ngang qua rừng mình, tiếng la rầm rầm, rung rinh cả núi.
Giọng Gấu đủng đỉnh:
- Tôi tưởng sấm nheo mắt nhìn hoài, chẳng thấy gì. Mắt tôi bị hột cườm.
- Nào ai có biết là gì. Có đứa tưởng sập trời. Hồi sáng gặp chị Ngỗng trời cho biết: đó là máy bay của loài Người.
- Máy?... Bay?...
- Ngỗng trời đi đó đi đây nhiều nên chị ta biết rõ. Nhất là chị ta nói: tháng trước bầy Ngỗng trời của chị đang bay, gặp cái máy bay gì gì đó, nó hút cả vài chục con vô trong máy, chết luôn.
- Nghe nói có cái máy hút... bụi thôi mà?
Khỉ Thọt cười, đập nắm tay vào lưng Gấu, tỏ dấu hiệu thân mật.
- Ngỗng trời nó nói loài Người có nhiều máy lắm. Nó đi, nó chạy toàn bằng máy.
Gấu ngồi xích lại gần, nói nhỏ:
- Chạy bằng máy thì chắc mau bằng Ngài sư tử.
- Hơn nhiều chớ. Sư tử sức mấy mà chạy mau bằng.
Cứ như vậy đó, những chuyện về loài Người tha hồ kéo dài, nối dài, không hẹn bao giờ sẽ dứt. Khả năng và phạm vi của tưởng tượng và nói láo thì vô biên.
Một ngày nọ chợt có tiếng nỗ rầm rầm ở khu rừng. Thú vật hoảng hốt chạy loạn xạ. Sau đó một ngày, chị Sóc thoăn thoắt chuyền cành tới báo tin:
- Có một lũ gì lạ lắm. Tới đốt lửa ở gần hồ nước.
Thú rừng lao xao. Có ý kiến nên chạy trốn. Có ý kiến nên ở lại. Một khi đã ở lại thì tự nhiên có sự thập thò tới gần, gần thêm, gần nữa. Trong số tò mò có Khỉ Thọt.
Núp trong lùm cây, Khỉ Thọt nhìn. Nhìn kỹ. Rồi về vỗ đùi một cái mạnh. Ðúng rồi! Loài Người! Nó đứng trên hai chân như trong hình này. Nó bước đi, hai cái chân rộng mà dài như hai tàu lá chuối đây nè! (ống quần của người ta mà nó nói vậy đó!). Miệng nó ngậm một lóng sậy, lặp lòe cháy một đầu, có khói bay. Kìa, rõ ràng hai bàn chân của nó bó trong hai cái bắp chuối hột. Rõ quá rồi! Ðầu đứa nào cũng để trần, cũng được chụp kín bằng một cái gì gì... Thôi, rõ ràng là lũ Người, lũ cháu đi lên đón mình về thành phố y như lời chúng nó đã hẹn với Két. Muốn kiếm Két để hỏi lại cho kỹ, nhưng không biết Két hiện ở đâu. Mà sao... lũ nó không đi thẳng tới ổ mình để mời?... Ô, chắc tụi nó không biết đường. Chắc tụi nó đang đợi.
Khỉ Thọt bàn với vợ sắp đặt hôm sau xuống gặp lũ cháu để chúng đón về thành phố. Mụ vợ quen với nếp sống thường nhật, không muốn đi. Mụ đưa ra bao nhiêu lý lẽ, bị lão bác hết. Thằng khỉ cháu nội thì mừng không để đâu cho hết. Bởi cả mấy tháng nay ông Nội nó cứ vẽ ra những cảnh sung sướng khi nó theo ông nội về thành phố. Thấy nó ôm một củ nâu héo, món đồ chơi, đứng đợi. Khỉ Thọt gắt:
- Ném đi! Quí gì! Xuống thành phố mày chơi... bằng máy thiếu gì?
Chẳng có chi để mà sắp đặt. Hôm sau cả gia đình Khỉ Thọt đi về hướng hồ nước. Ðáng lễ có cả thằng con trai và con dâu, - cha mẹ của thằng Khỉ nhỏ nhưng thằng con trai chết vị bệnh ỉa chảy, con dâu xin tái giá, ẳm con giao trả về cho ông bà nội. Nghĩ thương hai đứa, chỉ hưởng được cái khổ, nay bắt đầu sướng thì...
Ði ngang qua hang Gấu, Khỉ thọt kêu:
- Bác Gấu ơi! Xin tạm biệt. Bác ở lại mạnh giỏi. Tôi xuống thành phố với lũ cháu. Chúng nó đã lên đón.
Giọng Gấu chậm chạp:
- Ò... Ò... chúc thượng lộ bình an. Lâu lâu nhớ về thăm chơi.
- Khỏi lo, cứ rằng là mỗi tháng sẽ về thăm một lần. Ði bằng... máy mà.
Ði ngang hang chị Chồn Mướp, Khỉ Thọt bảo cháu:
- Mày vô chào từ giã thằng Mướp Tí đi. Nó là bạn chơi của mày.
Nhưng thằng cháu lắc đầu:
- Ðể hôm nào cháu về thăm nó bằng... máy. Cho nó lé mắt.
Bà Nội giục:
- Thôi! Cứ dằng dai. Thăm hỏi chào mời! Rộn người ta!
Khỉ Thọt:
- Cái bà này. Ðộng một tí là gắt. Xuống dưới thành phố, ai chịu bà nổi? Kém văn minh.
- Xuống đó mà văn minh. Xuống đó kiếm một con khỉ cái gì văn minh mà ở với nó.
Qua hang Nhím. Nhím thò cái mỏ nhọn ra hỏi:
- Về thành phố đó hả? Cho mình theo với.
Khỉ Thọt đứng lại phân trần:
- Lũ cháu nó đón bằng... máy. Không dư chỗ. Bác cảm phiền.
- Không đi được thì mình ra đó tiễn ông.
Vậy là Nhím đi theo. Lát sau gặp Thỏ, và Thỏ cũng xin theo tiễn. Lần lượt trên đường đi, những con vật khác gặp được, nghe nói, cũng rủ nhau đi theo tiễn: chuột đồng, chồn, hươu, rùa... kể cả chim: chèo bẻo, bìm bịp, cuốc, chìa vôi, cu cườm, quành quạch, sáo sậu... Vì tò mò nhiều hơn vì tình nghĩa. Chỉ có Két là không hiểu vì sao mà trốn biệt.
Cả đoàn đi tới chỗ loài Người dựng lều. Khách tiễn đưa vốn nhút nhát. Xin dừng lại nơi xa xa để bắt tay, ôm hôn, chúc, hứa, gạt nước mắt. Chỉ gia đình Khỉ Thọt tiến tới.
Ðoàn thám hiểm gồm bốn người đang loay hoay dùng đục, búa để tách những mẫu nham thạch. Nghe tiếng động, họ chợt ngừng nhìn lên. Khỉ Thọt cất tiếng:
- Khẹt khẹt khọt khọt khịt khịt (= Chào mấy cháu... ông nghe Két nó nói mấy cháu lên đón ông...)
Thấy ba vị khách cứ xăm xăm bước thẳng tới, vừa “khọt khẹt khịt”, bốn nhà thám hiểm đều nhất loạt đứng dậy đề phòng. Khỉ Thọt tiếp tục:
- Khịt khẹc khẹc khọt khò khè... (= bữa nay ông, bà và anh Út mới tới được).
Vị trưởng đoàn có hàm râu quai nón khoát tay đuổi đi. Nhưng cả gia đình “tổ tiên” cứ bình tĩnh bước tới, bài huấn từ cứ thao thao tiếp tục:
- Khọt khọt khịt khẹc... (= Phàm cây có tổ, nước có tông...)
Bây giờ thì cả bốn “đứa cháu” đều khoát tay, vừa dậm chân, trợn mắt, vừa la hét: “Ði đi! Ði chỗ khác”. Nhưng tổ tiên không hiểu. Tổ tiên cứ tưởng đó là cách chào mừng văn minh. Nên tổ tiên cứ đi tới, sợ trễ giờ, cái máy nó... mất công đợi.
Một người lượm đá ném. Tổ tiên hơn ngạc nhiên, khựng lai, nhưng rồi cũng đi tới nữa. Cả bốn người cùng lượm đá ném tới tấp. Tổ tiên đứng lại. Có cách nào để hiểu rằng đó cũng là dấu hiệu chào mừng nồng nhiệt? Khó quá. Trí óc Khỉ Thọt đen mò, chịu không nghĩ được.
Như theo một phản xạ. Khỉ Thọt lại cứ bước tới. Vợ và cháu nội cũng bước tới. Có điều lúc này thì miệng không còn nói huấn từ.
Một người trẻ nhất trong đoàn quay nhanh vào lều, xách ra cái súng săn lên cò. Ðưa lên mắt nhắm. Tổ tiên không hiểu đứa cháu đang làm gì. Nhưng bỗng Khỉ Thọt nghĩ: “Có thể đó là một thứ... máy đón tiếp”. Nên càng vững mạnh bước tới. Chợt:
“Ðoàng!” Giật mình. Cái gì? Có tiếng đập cánh bay tan tác của lũ chim chóc đi tiễn đưa ở đằng sau. Khỉ Thọt quay lại. Uở, có cái cảm giác đau nhói ở cánh tay phải. Cúi xuống nhìn. Có máu từ đâu chảy dính trên đám lá cỏ dưới chân. Máu còn ướt.
Khỉ Thọt quay lên nhìn mấy đứa cháu, ngơ ngác không hiểu. Chợt một tiếng “Ðoàng” nữa. Lũ chồn, thỏ, cáo, hươu đi tiễn cất tiếng la hoảng hốt và chân chạy rầm rập. Mụ khỉ vợ nhảy thót lên cành cây, tay chân siết cỗ, lão gần nghẹt thở.
Cái chân bên mặt sao bỗng nhức buốt như xé. Khỉ Thọt nhăn mặt. Ðau rát đến nổi không khóc mà sao nước mắt cứ chảy tuôn thành dòng.
Khỉ Thọt thẫn thờ nhìn bốn loài Người. Nhìn chăm chăm. Rồi chầm chậm quay lưng, bước lảo đảo trên những lối cũ. Những giọt máu rơi lộp độp trên tầng lá, màu đỏ tươi, như đánh dấu con đường trở về.
--o0o--