Nếu không có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc năm 1945 thì chắc hẳn mãi mãi hắn chỉ là đứa con thêm con thừa, đứa con bỏ đi của một dòng họ. Nhờ có cách mạng, rồi lại nhờ có kháng chiến hắn đã trút dần được cái hồn nô lệ để chập chững tập làm người tự do. Nhưng làm người nô lệ, làm người phụ thuộc, người thích dựa dẫm thì quen, còn làm người tự do, người dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì còn lạ còn sợ. Cũng là may hắn lại chọn được cái nghề làm báo, viết văn để dần dần tự cải tạo mình qua những tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của những nhân vật hắn ái mộ. Hắn vốn ngưỡng mộ những người anh hùng, đặc biệt là những anh hùng trong thất bại. Người anh hùng trong thất bại bao giờ cũng tự toả sáng từ bên trong, gương mặt ưu tư của họ trở lên cao quý và thường gây được ấn tượng lâu dài trong tâm thức hắn. Hắn rất sợ những gương mặt mãn nguyện, tự bằng lòng với mình, nó nông và dung tục, kể cả cái bản mặt của chính hắn khi được đưa lên mặt báo sau ngày được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2. Một cái mặt hả hê đến thế còn hy vọng gì có thể viết được những trang văn hay hơn những cái đã viết.
Lại nói về những gương mặt, hắn rất mê những gương mặt của bạn bè lúc đã về già. Gương mặt của Nguyên Ngọc lúc già đẹp hơn lúc trẻ, đẹp hơn nhiều, tóc thưa đi nên vầng trán như rộng ra, gồ hẳn lên khiến cái đầu như lớn hơn với những nếp nhăn khắc khoải, ưu tư nhưng ánh mắt lại bình thản, lấp lánh trong đáy sâu như có một thoáng cười. Nguyên Ngọc kém hắn hai tuổi, vào bộ đội chống Pháp sau hắn vài năm, nhưng học vấn sâu rộng hơn hắn, sự từng trải ở chiến trường cũng nhiều hơn hắn, nhất là thời kỳ chống Mỹ, và tài năng viết lách cũng hơn hắn. Nguyên Ngọc còn là người say mê hành động, có kinh nghiệm trong hành động thực tiễn. Và còn là người rất quyết liệt trong niềm tin của mình. Tuy nhiên theo hắn, con người tư tưởng không cần biết tới sự nhân nhượng, không cần biết đến vùng đệm, những khoảng giữa, không cần cả đồng minh để giữ được sự trong sáng và trọn vẹn trong cách tư duy của mình. Anh ta có thể đúng mà cũng có thể sai nhưng vẫn là một cái mốc trên chặng đường tiến hoá về tư duy của đồng loại. Còn là người hành động thì lại hoàn toàn khác. Người hành động trước hết phải là người biết tổ chức sự cộng tác của nhiều người, có khả năng đoàn kết với nhiều loại người, biết nhân nhượng, biết nhẫn nhục, biết chờ đợi, biết biến hoá để cùng họ hành động cho tới ngày đạt được mục đích. Sự cô độc sẽ làm nhà tư tưởng lớn mạnh lên nhưng lại phá phách những điều kiện của người hành động. Nguyên Ngọc mãi mãi chỉ là người của tư tưởng, là nhà tư tưởng của thế hệ bọn hắn, với hắn thế là quá đủ, đủ để xem bạn như một hình mẫu lý tưởng để tự điều chỉnh cách sống và cách viết của hắn.
Một gương mặt nữa cũng có sức hấp dẫn hắn trong nhiều năm. Ðó là gương mặt của L.H.N. Anh ấy nguyên là bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, sau này còn là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. N. có gương mặt của người luôn luôn trăn trở, lo lắng vì cái trách nhiệm quá lớn của mình. Và anh rất thật thà, anh thuyết phục hắn ngay từ lần gặp đầu tiên vì sự chân thật. Phải là người tự tin, biết rõ giá trị của mình mới dám nói thật với người chỉ mới đọc văn chứ chưa biết người. Khi hắn hỏi về ông Kim Ngọc, cố bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú dám làm khoán chui để dân bớt khổ, N. không tránh né gì cả, còn nói rất nhiều về mối quan hệ thân thiết của mình với người tiền nhiệm. Theo N. ông Kim Ngọc có hai điều đáng tiếc. Thứ nhất, ông ta dám làm một việc động trời mà chả có lý lẽ gì cả, chỉ nói là có lợi và nên làm. Còn các phái viên của trung ương về kiểm tra thì lại có quá nhiều lý lẽ để phản bác, cãi không được nên đành cúi đầu chịu tội, chịu tội nhưng vẫn ấm ức vì việc làm của họ đâu có giống với lý sự của trung ương. Thứ hai, ông Ngọc không biết dùng trí thức, ông dùng người bằng những quen biết trực tiếp nên anh trí thức đứng vòng ngoài. Phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã là một bà nông dân, nhai trầu bỏm bẻm. Phó chủ tịch phụ trách công nghiệp là một ông thợ rèn. Một bà phó ban nông nghiệp cũng ăn trầu và chả biết gì về công việc của mình cả. Thủ lĩnh có chí lớn nhưng không có người cộng tác và trợ lý xứng đáng, không có một đội ngũ những trí thức trẻ làm hậu thuẫn phía sau. Biết là mình bị kết án oan và lý lẽ của cấp trên là giáo điều, tách khỏi sự vận động của đời sống, tách khỏi những mong muốn nóng bỏng của người nông dân, nhưng không có lý lẽđể bảo vệ, không biết cả cách bảo vệ. Khi nhận nhiệm vụ là bí thư tỉnh uỷ, anh N đã làm ba việc để tưởng niệm nhà cách mạng đơn độc. Một là, đưa khoán hộ vào nghị quyết của tỉnh uỷ vì lúc này trung ương đã nới tay rồi. Hai là, tư hữu hoá ngôi nhà của ông Kim Ngọc, định giá là hai trăm ngàn, lấy tiền trợ cấp của tỉnh bù vào. Ba là, xây mộ cho vị tiền nhiệm tại nghĩa trang của tỉnh. "Rồi anh N. hỏi hắn: "Làm thế có được không?" Hắn nói rất chân thành: "Lòng biết ơn đối với những người anh hùng đơn độc cũng là một hành vi đẹp của người cầm quyền". Mấy năm sau khi hắn về Thanh Hoá, cũng là quê gốc của hắn, thì anh N. lại là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. Hắn có hỏi anh: "anh đánh giá vị bí thư tiền nhiệm của tỉnh này như thế nào?"N. nói: "Trong nền kinh tế bao cấp ông H. rất giỏi, làm thâm canh giỏi, làm thuỷ lợi giỏi, huy động lương thực cho tiền tuyến rất quyết liệt, lại có năng lực tổng hợp. Nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì ông ấy không thoát được thân". Nhận xét về một người thất bại như thế là khách quan, vô tư và rất có tư cách. Anh N. cũng là một nhân vật lý tưởng để hắn nuôi dưỡng cái phẩm chất làm người của hắn.
Trần Kim Trắc cũng là một người hắn rất kính trọng về nhân phẩm cũng có một gương mặt tuyệt đẹp, nhàu nát những nếp nhăn, tóc bạc, râu bạc, lông mày, long mi đều bạc, trong cái nhìn cứ như ẩn giấu đâu đó một thoáng cười, không phải là cười giễu mà là cái cười khiêm nhường của người biết ơn, biết ơn cuộc đời đã rất tàn nhẫn với mình, biết ơn bạn bè đã từng gây nhiều khó khăn cho mình, như người đã vượt khỏi Sông Mê, đã tới bến bờ của sự Giác Ngộ. Hắn đã quan sát rất kỹ cuộc gặp mặt giữa nạn nhân với những người đã từng làm án nhân ngày kỷ niệm 40 năm tạp chí Văn nghệ Quân đội ra mắt bạn đọc. Những người "chân chính" như hơi ngượng, cười gượng, nói gượng, còn kẻ đã "phạm tội", đã mất nhiều chục năm sống khốn khổ khốn nạn thì cười nói nhỏ nhẻ, nhún nhường: "Dạ, thưa vẫn khoẻ", "Dạ, năm nay vừa tròn bảy mươi...". "Dạ, vẫn viết, tuổi già chỉ có hai việc, cõng chắt ngoại đi chơi, lúc chắt đi trẻ thì ngồi viết, viết cũng chậm lắm, nhưng vẫn có chút việc riêng để làm". Chả giận ai cả, chả oán ai cả, vẫn biết ơn đời, đời cho sống đến lúc tóc bạc để được gặp lại bạn cũ, một đời người mấy ai tránh được những rủi ro, những rủi ro đâu có sao, chả sao cả, nó vẫn là muối của đời... Gương mặt của Trần Kim Trắc mãi mãi ám ảnh hắn, cổ vũ hắn những lúc hắn vấp phải những chuyện buồn.
12.
Dầu hắn không được bất cứ giải thưởng văn chương nào, không là một tên tuổi gì trong làng văn hắn vẫn cứ là một người may mắn. Nếu không có cách mạng thì mãi mãi hắn sẽ bị ám ảnh là một đứa trẻ bị ruồng bỏ, học hành dang dở, tính cách yếu đuối, chỉ xứng đáng có một thân phận hèn mọn, sống bám vào những ông anh bà chị giầu sang. Như nhiều ông bác, ông chú nghèo hèn sống lẩn khuất trong cái bóng phú quí của dòng họ mà hắn đã được biết. Rồi với cái nghề làm báo trong mấy chục năm hắn đã được tiếp xúc với vô số người, là người cùng thời đã tham gia hai cuộc chiến tranh, một thời hoà bình gian nan vất vả, lại một thời thay đổi cách quản lý kinh tế với bao nhiêu chìm nổi trong mỗi số phận. Non nửa thế kỷ sóng to gió lớn, đất nước nghiêng ngả bởi những rung chuyển từ chân móng nên đã sinh ra mấy lớp người dám ôm mộng cải tạo xã hội, cải tạo thế giới, dám có những ý tưởng táo bạo, những hành động và cách sống vượt khỏi mọi giới hạn của con người. Chính họ là "dưỡng chất trần gian" đã nuôi sống và thay đổi dần dần cái thế giới tinh thần của hắn, xúi giục hắn biết mộng mơ, biết lãng mạn, biết quên cái thân phận tẻ nhạt của mình để hoà nhập vào những thay đổi lớn lao trong số phận cộng đồng. Hắn trở thành người có chí hướng từ đó, dám nghĩ dám viết một cách độc lập từ đó. Nếu kể hết những người đã có ảnh hưởng hoặc thấp thoáng hoặc sâu đậm với hắn trong suốt mấy chục năm thì nhiều lắm, hắn cũng chả thể nhớ, hắn ghi chép đời của nhiều người nhưng chưa bao giờ ghi chép những thay đổi hoặc những sự kiện quan trọng đã xảy ra với mình. Hắn không có thói quen viết nhật ký, nhiều lắm là hắn ghi vội ở rìa trang bản thảo: "Bữa nay Huỳnh sốt cao, rất lo!", "Bữa nay lại cãi nhau với vợ, cô ấy doạ ly hôn, chuyện vớ vẩn mà rất buồn...". Ngay cả chuyện làm sụp đổ một nửa niềm vui và hy vọng của hắn, hắn cũng chỉ ghi vội, vẫn là ở phần rìa trang viết nháp của một truyện ngắn chỉ vừa mới bắt đầu và sẽ không bao giờ hoàn thành: "Thứ Năm, chiều 17 tháng 5 năm 1973, lúc 5 giờ 30 chiều, Huỳnh, đứa con trai yêu dấu của bố đã bị chết đuối ở sông Hồng, năm con vừa tròn 15 tuổi. Con ơi! Bố chết được chăng? Nếu mà bố chết được thay con!!!..." Nhưng những chuyện mới xảy ra trong khoảng ba chục năm trở lại thì hắn còn nhớ. Vì những con người khiến hắn phải xúc động, phải bàng hoàng, có cơ hội để hiểu thêm một khía cạnh u uẩn trong tâm hồn con người, hắn đều viết thành truyện cả, những truyện ngắn, những tạp văn. Những trang viết dành cho bạn đọc cũng là những trang viết dành cho riêng hắn, là những khoảnh khắc hắn đã sống và đã nghĩ, là một phần sống của chính hắn, mỗi dòng chữ là một nhịp đập lúc nhanh lúc chậm của trái tim nghệ sĩ trong hắn trước vẻ đẹp muôn mầu của cuộc đời, là quà tặng không cạn kiệt của đời luôn luôn tỏ ra hào phóng với hắn.
Cách đây đã ba chục năm, ở góc đường Phan Ðình Phùng - Phùng Hưng có một bà lão nhặt hoa đại trồng ở các công sở, tãi phơi ở một đoạn hè, vừa chải đầu bắt chấy vừa trông các cánh hoa héo dần, người bà cao, mỏng, tuổi khoảng bảy mươi nhưng tóc chưa bạc nhiều, hai hàm răng nhuộm đen còn nguyên vẹn, đi lại cứng cáp, nhanh nhẹn. Bà lão chỉ vắng mặt có buổi sáng, còn trưa, chiều, tối đều ngồi dưới cái vòm mái rộng của một cơ quan luôn luôn đóng cửa. Từ tạp chí qua đó chỉ vài bước chân, lại có nhiều quán hàng bán trà chén, buổi sáng thì đủ thứ quà gánh cho người đi làm ăn điểm tâm, nên hắn qua lại một ngày rất nhiều lần, nhìn bà lão mãi hoá quen rồi hoá thân vì gương mặt của bà phảng phất giống với gương mặt của mẹ hắn năm bà còn khoẻ ngồi bán trầu vỏ cũng ở một góc đường. Một gương mặt buồn thiu nhưng bình thản, đã coi mọi chuyện sống chết đói no như chả còn liên can tới mình. Lần đầu hắn bắt chuyện với bà cụ là một buổi chiều bà lão đi giao hàng cho một cửa hàng bán thuốc Nam vừa trở về ngồi ăn bún ở một quán hàng bán trà chén hắn vẫn hay ngồi uống. Bà lão ăn bún với muối, ăn bốc mà ăn ngon lành lắm, thoả thuê lắm. Chị hàng nước nhìn bà lão ăn chằm chằm rồi buông một câu: "Nhìn bà ăn cháu ghê cả người". Bà lão nói nhấm nhẳn: "Thế hả?" Chị kia lại nói: "Ăn bún với mắm với riêu chứ ai lại ăn với muối bao giờ!" Một người khác hỏi: "Bà sống một mình à?" Chị hàng nước nói: "Một mình thế nào, bà có những hai anh một chị kia, đều là người đi làm cho nhà nước cả". Bà lão ngừng ăn nói: "Ði làm có lương chỉ có hai anh thôi, còn cô út thì bán rau, chồng nó đạp xe xích lô, con lại đông, nhà nó là túng nhất đấy". Một người nữa hỏi: "Bà không ở với con nào à?" Bà lão đã ăn xong một ký bún, còn nhặt những sợi bún dính vào những mảnh lá dong ăn nốt, xin một chén nước rồi mới trả lời: "Người già trái tính chả ở với ai được cả. Tôi thích ở một mình". Chị hàng nước hỏi: "Nhưng bà vẫn đến thăm các anh chị ấy chứ?" - "Dăm bữa nửa tháng lại đến thăm một nhà, ăn mặc tử tế, nói là vừa ở quê ra, quê tôi ở Bần, ra Hà Nội cũng gần". Hắn hỏi: "Tại sao bà phải làm thế, không ở hẳn với một ai thì ở luân phiên, mỗi nhà ở một tháng chẳng hạn". Bà lão nhìn hắn rồi bảo: "Tôi ăn uống xấu thói lắm anh ạ, sợ con cháu nó cười, sợ nhất là bạn con đến chơi cùng ngồi ăn sẽ cười". Hắn lại nói: "Bà cứ hay lo xa chứ ai dám cười mẹ của bạn?" Bà lão cười nhỏ: "Bạn con không cười nhưng con trai con dâu thì khó chịu lắm. Cứ thấy mặt mẹ là chúng nó lườm, chúng nó gắt, mà mình có làm gì nên tội, chỉ có mỗi cái tội luộm thuộm, bẩn thỉu thôi". Nuôi con lúc trẻ để nhờ con lúc già lúc chết, nhưng lúc già lại bị con đuổi thì sống với ai. Ðã có lần bà lão bán cây lá thuốc Nam nói với hắn: "Ai lo ốm lo chết chứ tôi chả lo một tý nào. Cái tạng tôi đã phải nằm chỉ một hai bữa là chết ngay thôi, người chết vô thừa nhận đã có nhà nước lo, không lo chả lẽ để thối cả hàng phố à, mà con cái lại đỡ phải tiêu một món tiền lớn! Thế chả hơn ư?" Ðã nghĩ cái chuyện thương tâm về một người mẹ có những ba con mà phải sống một mình, chết một mình ở một góc phố rồi mình sẽ quên mau mà lại không quên nổi, lại nghĩ lan man tới mẹ, nếu như không có cuộc đổi đời sợ rằng bà cũng sẽ phải sống như thế, phải chết như thế, đời mẹ đã khổ đời các con chắc cũng khổ, cái ý nghĩ buồn thảm ấy thường len đến khi hắn vừa được in một cuốn sách mới, vừa được đọc một bài báo có lời khen ngợi, hoặc lúc hắn đưa vợ con đi xem một vở kịch chính hắn là tác giả đêm khai diễn, đại để cứ mỗi lần hắn được nhận thêm một vinh dự, bộ mặt buồn thảm của bà mẹ hắn với hai đứa con chưa tới tuổi trưởng thành lại chợt loé sáng trong một khoảnh khắc khiến hắn có gương mặt tư lự như người có lỗi, lại như người có nợ mà chưa thể trả, chưa kịp trả, chính là ở những giây phút ấy bạn bè muốn gần hắn hơn, muốn thương hắn hơn. Gần hai chục năm sau hắn mới viết truyện ngắn Mẹ và các con, viết xong trong lòng hắn cũng vơi nhẹ phần nào.
Hắn là người được thời nên hay gặp may nhưng hắn lại thích được trò chuyện với những người thiếu may mắn vì sự đối đầu của họ với những khắc nghiệt của số phận luôn luôn làm hắn mê mẩn. Vả lại cái sức mạnh ẩn giấu trong mỗi con người là vô cùng, cái sức mạnh ấy có thể sánh ngang với thượng đế, nhưng chỉ bộc lộ hoàn toàn khi lâm vào những cảnh ngộ mười phần bế tắc, hoặc là chết hoặc trở thành người mãi mãi không thể bị đánh bại... Hắn là người có tính cách mềm yếu nên thường né tránh những cảnh ngộ phải đối đầu với số phận. Hắn vẫn biết ở đời này những người gặp quá nhiều may mắn thường là những kẻ tầm thường trên mọi lãnh vực: chính trị, kinh tế, văn nghệ, khoa học. Họ đi bằng chân của người khác, nghĩ bằng đầu của người khác, và đã có nhiều người dọn quang mọi chông gai trên đường thăng tiến của họ. Ðừng nghĩ là hay nhá, là dở lắm đấy, khi gặp sự đối nghịch ngoài sự chuẩn bị những kẻ ấy chỉ còn biết khóc thôi. Và con cái họ thừa hưởng một dòng máu loãng, sức chảy lờ đờ chỉ là những kẻ bất túc, chả có mấy ai nên người sau khi đã ăn hết lộc của cha ông. Khi ngồi nói chuyện với một thương binh mù, một vợ ba con làm nhà ở chân động Từ Thức của huyện Nga Sơn, hắn vừa nghe vừa tự vấn mình, hắn sẽ hành động ra sao khi gặp trường hợp ấy. Anh thương binh năm ấy đã ngoài bốn mươi tuổi, là một người đàn ông đẹp trai, vóc dáng cũng đẹp, nói rằng cái năm 1970 anh mới có 20 tuổi, đã có giấy gọi nhập học trường đại học y khoa vì anh đã trúng tuyển với số điểm cao. Cũng dịp ấy xã tuyển thêm quân bổ sung vào số thiếu đã lên đường hồi đầu năm. Trong ban chấp hành xã đoàn thanh niên có ba uỷ viên có tên trong danh sách đi nghĩa vụ quân sự lần ấy thì hai đã xin hoãn với đủ thứ lý do và được chính quyền xã xác nhận nên người đi học đại học phải tình nguyện ra mặt trận để giữ lấy danh dự của một tập thể trước các đoàn viên. Vậy mà những kẻ đã trốn chạy vẫn nhìn thẳng vào mặt bạn bè ở chiến trường trở về như thường, lại còn là ông chủ thuê nhân công, kẻ cho vay lãi. người làm công và kẻ vay nợ đều là lính ở chiến trường trở về với cái ba lô rỗng tuếch, với rất nhiều thương tật trên người. Chả ngượng một tí nào, chả nới tay một tí nào. Giữ được trọn vẹn danh dự một chàng trai thời chiến mới đắt giá làm sao! Trung thành với cách sôngs của mình mới gian nan làm sao! Còn hắn? Ví thử lại là hắn? Hắn sẽ nghiễm nhiên cầm tờ giấy gọi vào đại học ra Hà Nội, chả ai dám ngăn, chả ai dám trách. Dăm bảy năm sau hắn ra trường sẽ là một ông bác sĩ, nhớ lại chuyện cũ, hắn có thể nói: "Cái số tôi cũng gặp may, năm ấy tôi đã thi đỗ nên..." Cái may mắn ấy là vinh hay nhục, là nên khoe hay nên giấu tự hắn phải biết!
Truyện ngắn Cặp vợ chồng dưới chân động Từ Thức đã được viết trong sự ăn năm ấy, trong sự ngượng ngùng ấy.
Nhưng những mẫu người có sức sống tinh thần mạnh mẽ, phong phú mới thật là những nhân vật gan ruột của hắn. Ðầu những năm 80, lần đầu tiên hắn được về vùng đất huyền thoại Ðồng Tháp Mười mà hắn đã khao khát có ngày được đặt chân đến từ thời kháng chiến chống Pháp. Rồi hắn lại được gặp và trò chuyện dài ngày với một nhân vật đã sống trong cái huyền thoại ấy suoót ba chục năm, không một ngày rời xa, lúc buồn lúc vui, lúc thắng lúc bại, và bây giờ ngồi trước mặt hắn là một ông già chưa tới sáu chục tuổi, gày nhỏ, mỏng mảnh, trong suốt, chỉ còn sức sống ở đôi mắt và giọng nói. Một người trong suốt ba chục năm chỉ hoạt động ở cấp xã, là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ của một rẻo đất bám dọc con kinh Bùi, có tháng nằm trong bưng trong đìa, có tháng phải sống trong hầm, mùa nước nổi vẫn phải sống trong hầm, từ ngực trở xuống ngâm trong nước, từ ngực trở nên tạm gọi là phần khô, thực ra vẫn ướt, vì phải tựa đầu vào bùn mà thở. Ban ngày đứng trong nước, đêm đến vẫn lội trong nước mà hoạt động. Cả mấy tháng không lúc nào khô người, khô tóc, mọi thứ lóong trong người rụng bằng hết, đến da thịt cũng muốn bở tung, chẳng qua chỉ còn một chút máu chảy bên trong nên chưa bị rữa nát mà thôi. Chính ông Mười là người đã chôn súng xuống theo Hiệp định Giơ-neo, lại cũng chính ông moi súng lên để tái vũ trang, có khi phải làm lính của Bình Xuyên, của Cao Ðài để được tự do nổ súng vào quân của Diệm, có lúc lại bới tóc để râu như ông già để sống hợp pháp trong các cuộc đấu tranh chính trị, đêm đến lặn lội đến từng ấp vào từng nhà kêu gọi cán bộ, đảng viên kháng chiến cũ trở lại hoạt động, có người nhận, có người bảo còn phải chờ, có người đóng chặt cửa không tiếp, đang là người thắng bỗng chốc thành người thua, đang làm chủ lại phải đổi chỗ làm tớ, đang kiêu hãnh nhìn lên lại phải ngậm ngùi nhìn xuống, là người thắng đã khó, làm người bại, vì thời thế mà phải chịu bại, còn khó hơn nhiều, lúc hơ người trên lửa, lúc nhúng người trong băng, vớt lên nhồi xuống không biết bao nhiêu bận trong vòng hai chục năm đánh Mỹ. Rồi cơ sở phản, bạn chí cốt đầu hàng, vừa gây dựng được một ấp chưa kịp vui lại bị phá phách cả mấy ấp, buồn chỉ muốn chết. Không thể vui nhưng cũng không được buồn, không nằm im nhưng cũng không được phép manh động khi chưa có lệnh, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng những tính toán, việc làm đêm nay, những việc làm bữa mai, những ngày tới, không được sai sót một ly, sai là có đầu rơi máu chảy. Không dám nghĩ tới ngày đất nước hoà bình thống nhất mà ông vẫn còn sống để được thở một hơi rõ dài, được nằm duỗi ra trên bộ ván gỗ, nhắm mắt lại cho từng thớ thịt, từng đường gân giãn ra, mềm lại để lắng nghe đến tận cùng cái im lặng mênh mông của một ngày không có bom đạn, ngày đầu tiên có hoà bình, ngày đầu tiên không phải lo gì cả, không phải nghĩ gì cả.
Nhưng đi chơi, nói chơi, nghĩ chơi chưa được mấy ngày ông đã phải khoác khăn gói lên đường sang huyện bạn bên kia con kinh Bùi đối mặt với một cuộc chiến mới, mà kẻ thù vốn là bạn chí thiết đã trở thành một ác bá nắm quyền sinh sát hàng chục ngàn dân đang chết khiếp vì lo sợ bởi những mối quan hệ về thân tộc, về bè bạn, về làm ăn với nhiều người của chính quyền nguỵ. Họ đã phải dâng hiến cho người cầm quyền mới một phần hoặc một nửa gia sản của họ, cả con gái của họ để mong được người chiến thắng quên đi những oán thù cũ. Những việc phức tạp ấy đã có cấp huyện lo, cấp tỉnh lo, việc gì anh phải lo thay? Hắn nói với ông Mười thế. Ông cười buồn: "Họ cũng đang lo những việc của họ, cả việc chung lẫn việc riêng, đã nói nhiều lắm, nói đến mấy năm nhưng chả ai thèm quan tâm, người này đẩy sang người kia, cái sợ của dân vẫn nguyên như cũ, càng ngày càng sợ, ngay cả những người đã trót thổ lộ việc này việc kia với mình cũng mất tăm mất tích sau đó ít ngày. Chính tôi còn phải hãi kia mà!" Cấp trên của họ không lo thì ông sẽ lo, ông là đảng viên mà, đảng viên cộng sản quan tâm đến cả việc thế giới huống là việc của huyện mình, tỉnh mình. Người phá án đi một mình, không có súng, không có cả đồng đội, lại đứng ngoài sáng, kẻ có tội bè đông cánh rộng, giấu mặt trong các chức vụ của kẻ đương quyền mà vẫn hãi ông vì ông có sức mạnh của niềm tin, của lẽ phải và cả cái bản lãnh của hai chục năm hoạt động trong vòng vây của kẻ thù. Ông đã bị bọn giấu mặt ám sát hụt hai lần ngay tại nhà, một lần vào đêm bằng súng, một lần vào buổi chiều bằng lựu đạn, nhưng ông vẫn giấu nhẹm, đến vợ mãi sau mới được biết, cái chuyện đồng chí ám hại nhau có gì là hay mà làm ầm lên. Cuộc chiến ấy đã kéo dài gần mười năm mà chưa kết thúc, cũng chưa biết đến ngày nào mới kết thúc. Nhưng xem chừng ông Mười thua, cái thằng giặc trong nhà ấy mỗi ngày như một đông hơn lên, quyền mỗi ngày lớn mãi ra, nếu để lâu nữa không chừng trung ương cũng phải thua. Ông Mười nói ngậm ngùi: "Cuộc chiến lần này tôi thua là cái chắc, chú Hai à! Tôi thì không thể đánh tiếp được nữa rồi, tôi không mệt, cũng chưa nản nhưng đã lớn tuổi lại bệnh tật rề rề, sống nay chết mai chỉ lo mình chết rồi sẽ giao việc này cho ai? Nếu chú Hai có lòng chú nên thay tôi làm tiếp bằng cái nghề làm báo của chú, được không?".
Một năm sau tiểu thuyết Vòng sóng đến vô cùng ra mắt bạn đọc, số lượng in rất lớn: mười ngàn cuốn, nhưng bán chậm, chả có dư luận gì trong giới viết văn, trong bạn đọc và nhất là bạn đọc tỉnh Ðồng Tháp. Hắn cứ buồn mãi, không phải buồn vì cuốn sách không được nổi tiếng mà buồn vì một lần nữa ông Mười lại chìm sâu vào quên lãng chỉ vì cái bất tài của một cây bút. Nhiều năm sau, báo Văn nghệ Ðồng Tháp đăng lại cuốn sách bị quên đó theo kiểu từng kỳ báo, tức là những người đồng hương của ông Mười đã nhận ra nhân vật huyền thoại của quê hương, nhận ra bóng dáng của cha ông và của chính mình qua những trang viết cái tài có ít nhưng cái tình có nhiều, lòng ngưỡng mộ lại nhiều...
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 5)
13.
Ðề tài vùng nông thôn theo đạo Thiên Chúa cũng là một lãnh vực hắn gắn bó từ nhiều chục năm nay. Chính là với đề tài ấy mà hắn bước hẳn vào nghề văn từ truyện ngắn Nằm vạ, sau đó là tiểu thuyết Xung đột. Từ nhỏ hắn có thiên hướng về cái thiêng liêng, cái thế giới bên kia để tìm một chỗ ẩn náu cho cái thân phận bấp bênh của mẹ con hắn, và cũng là nơi giải toả cho nhiểu ẩn ức của một tuổi thơ có quá nhiều nỗi buồn. Khi trò chuyện với nhiều chúng sinh từ chủng viện Bái trở về quê trong các dịp nghỉ, hắn thông cảm nhanh chóng với những ước nguyện của họ: muốn dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa và giáo hội vì tự xem đã có ơn thiên triệu. "Số phận của em đã được định đoạt từ trên làm sao em dám thay đổi, mà em cũng không muốn thay đổi." Nhưng địa phận Bái lại có quá nhiều tội lỗi trong những năm Pháp chiếm đóng, giáo sĩ thành sĩ quan, toà giám thành văn phòng của một tỉnh tự trị, các nhà thờ thành đồn bốt, kẻ xâm lược và giáo hội trộn lẫn với nhau, cùng nhau làm những việc mà một dân tộc đang kháng chiến không thể tha thứ. Những tu sĩ trẻ họ cũng biết thế, họ lấy làm đau đớn vì những chuyện tệ hại ấy nhưng không thể tìm ra lối thoát. Là tu sĩ của một giáo hội có chỗ đứng xứng đáng trong lòng dân tộc là nguyện vọng tha thiết của họ. Nhưng bằng cách nào thì họ không thể biết, và nhà văn cũng chưa có cách lý giải có sức thuyết phục cả hai phía: nhà nước và giáo hội. Trong một lần về thăm một xứ đạo của tỉnh Thái Bình, hắn chợt nhìn thấy một chàng thanh niên mặc quần xanh và cái áo cánh cộc cũng mầu xanh đang lúi húi cho lợn ăn ở phần sân sau của nhà xứ. Hắn hỏi: "Anh có thấy cha xứ ngài ở đâu không?" Người kia trả lời nhỏ nhẹ: "Thưa, tôi đây, ông có việc gì cần hỏi ạ". Cha xứ chỉ khoảng ngoài ba chục tuổi, có gương mặt rất thanh tú, cặp lông mày đen như nét vẽ, hai con mắt tròn to và cái miệng rất tươi khi nói khi cười. Một người đàn ông còn trẻ và đẹp như thế mà chịu dâng hiến một đời cho xứ đạo buồn tẻ thôi sao? Hắn ngồi nói chuyện với ông ta khoảng một giờ, càng nói càng có cảm tình và càng thông cảm cho cái chỗ đứng éo le của một tu sĩ thánh thiện. Lại một lần khác ở Nam Trực thuộc Nam Ðịnh hắn được nghe nói một linh mục trẻ có sức hấp dẫn khiến các tổ chức thanh niên của địa phương gần như tê liệt mọi hoạt động. Và một cán bộ huyện kết luận: "Ðám linh mục trẻ bây giờ rất lợi hại, họ tranh thủ quần chúng rất có nghệ thuật, còn anh em mình thì..." Hắn lại nhớ tới cha quản hạt của một xứ đạo đã làm lễ rửa tội từ người ông cho đến đứa cháu, ba thế hệ, trong vòng năm chục năm. Cũng chính ông già ấy đã mắng một bà mẹ ẵm con đến xin cha rửa tội vào một sáng mùa đông giá lạnh, mắng như cha mắng con, như ông mắng cháu: "Nhà chị ngu, sinh mấy đứa con mà còn ngu, bữa nắng ấm không đến lại nhè đúng ngày mưa gió ẵm con đến, không sợ đứa trẻ bị nhiễm lạnh sưng phổi à? Ngày mai thì sao, ngày mốt thì sao, tôi còn đi được đâu nữa mà sợ tôi không có nhà". Một lời mắng ấy một đời người mẹ không thể quên, nay đứa trẻ đã là cán bộ xã mà bà vẫn kể lại cho hắn nghe như chuyện mới vừa xảy ra ngày hôm qua. Ðó là lòng thương yêu con chiên chân thật của một đấng chăn chiên đã ở quá lâu một xứ đạo hay chỉ là thủ đoạn, là phép thuật lấy lòng người? Trong nhiều đợt đi viết tại nhiều xứ đạo, hắn đã trò chuyện với nhiều linh mục, già có trẻ có, dân chủ tiến bộ có, phong kiến bảo thủ có, và nhiều chức sắc trong đạo Thiên Chúa, gần như hắn đã hoà nhập được vào cách cảm, cách nghĩ với người đối thoại, đón trước được những gì họ tin, họ hy vọng và cả những gì họ còn giận còn ngờ. Hắn đã trình bày những cảm nhận mới của hắn về tôn giáo nói chung và đạo Thiên Chúa nói riêng qua tâm sự một linh mục đã nhận được nhiều ảnh hưởng tốt của giới giáo sĩ trẻ tại châu Âu, của phong trào công nhân Pháp và nhiều nước lân cận, và nhất là xu hướng trở về cội của Tin Mừng mà tiêu biểu là các ông linh mục thợ: Tôi vẫn suy ngẫm rằng con người là một sinh vật không bao giờ tự hạn chế trong những cơ cấu sinh lý. Luôn luôn nó muốn vươn tới cái tuyệt đối, cái vô biên, cái vĩnh cửu là những mục tiêu mãi mãi con người không thể đạt tới. Vì không thể đạt tới nên nó mới gầm thét và than thở qua thi ca, qua nghệ thuật và qua cả tôn giáo. Bảo rằng tôn giáo sinh ra do bạc nhược và ngu dốt, chỉ đúng có một phần, tôn giáo cũng sẽ sinh ra khi con người đã tự ý thức như một chúa tể. Tôn giáo sẽ biểu hiện như một thăng hoa chứ không còn là một công cụ của đe doạ và áp bức. Nó sẽ thuộc phạm trù văn hoá chứ không thuộc phạm trù quyền lực như hiện tại... Linh mục sẽ chăm sóc linh hồn con người như một nghệ sĩ chứ không phải như một anh lính cảnh sát... Tôi không bao giờ rời khỏi xứ đạo, tôi là trước hết phải thuộc về một tập thể nào đó, hàng ngày được nghe họ nói cười, tham gia vào đời sống của họ như một khuyến khích, một an ủi, một cảm thông, nâng đỡ họ để chính mình cũng tìm thấy sức mạnh tự nâng mình lên... Nhân vật cha Thư trong tiểu thuyết Cha và Con và... đã được hình thành dần từ những suy ngẫm ấy, từ nhiều cuộc trò chuyện với các linh mục trẻ của cả hai miền, những hy vọng của họ và những lo lắng của họ khi phải làm việc tôn giáo dưới một chính thể vô thần. Chàng trai mới được truyền chức phải về một xứ đạo mà cha già quản hạt vốn là một đối thủ về tinh thần với toà giám, phải làm việc với các ông chánh trưởng, trùm trưởng rất lọc lõi, rất khôn ngoan, phải tiếp xúc với những đoàn thể của xứ đạo nửa chính nửa tà, phải làm bạn với một ông linh mục đã mất hết niềm tin vào cái chức phận thiêng liêng của mình, sống rất trần tục và trơ tráo, rồi lại những ảnh hưởng xa gần của một địa phận luôn luôn đối đầu với nhà nước, và một quan hệ có thể là thù địch giữa gia đình ông ta với những người cộng sản trong thời gian Pháp chiếm đóng. Mà ông ấy lại là một người rất thánh thiện, muốn làm một giáo sĩ dân chủ tiến bộ, lấy việc phụng sự nước Chúa và bầy chiên của Chúa làm lẽ sống một đời của mình. Có làm được không? Có được xứ đạo ủng hộ không? Có được toà giám khuyến khích không? Có được chính quyền địa phương tin tưởng không? Và trước hết ông ta phải thoát ra khỏi những thành kiến xấu về người cộng sản đã ám ảnh ông ta từ những năm còn là tu sĩ ở trường đạo. Một linh mục thơ ngây, và phạm nhiều sai lầm trong năm đầu, rồi một linh mục có nhiều hoang tưởng muốn phá bỏ lề luật và thói quen để được sống thanh thản như một giáo dân, như một công dân. Rồi ông linh mục lẩn thẩn, sống đau đớn trong sự đối đầu giữa các chức phận. Và cuối cùng là một linh mục thánh thiện đã tìm ra cách hoà giải giữa các trách nhiệm, cái gốc của sự điều hoà ấy là lấy giáo dân làm Chúa của mình, làm người Chỉ Bảo của mình. Và ông ta đã xin với những người đại diện cho giáo dân và chính quyền địa phương hãy rửa tội cho ông ta lần thứ hai với lời mô truyền do ông tự đặt ra: "Nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất... Amen".
Hắn viết rất nhanh, rất sảng khoải như có dịp được giãi bày trên trang bản thảo một nỗi niềm vẫn được giấu kín của mình. Vì khoảng cách giữa nhân vật văn học với tác giả không xa. Hắn cũng là người ngây ngô trong hành động, cả tin, dễ bị lừa, cũng có nhiều mộng tưởng, cũng muốn được sống, được hành động như những nhân vật anh hùng của hắn, và nhất là cũng muốn điều hoà mọi trách nhiệm mà hắn đang gánh vác. Vì hắn trước hết là một đảng viên cộng sản, vào Ðảng từ năm 18 tuổi, hắn cũng là một quân nhân, nhập ngũ từ năm 16 tuổi. Hắn là đảng viên trước, là anh bộ đội trước rồi mới làm nhà văn. Là người lính hắn mới được sống nhiều, tiếp xúc nhiều, chống lại tính nhút nhát và cô độc bẩm sinh, lại cũng vì hắn là đảng viên nên mới xoá được tận gốc mọi mặc cảm hèn kém để có một cách nhìn, một cách nghĩ tiến bộ, tích cực đối với mọi biến động của xã hội. Không có những điều kiện đó làm sao hắn thành nhà văn được. Ðời hắn vốn dĩ chả có gì đáng viết, cũng chẳng thể nghĩ được gì hay ho để trò chuyện với mọi người. Nên hắn chịu ơn sâu với Ðảng, với quân đội, với cả cái nghề nghiệp mà cuộc đời ưu ái đã lựa chọn cho hắn. Nhưng các trách nhiệm ấy không phải luôn luôn hoà hợp được với nhau, có khi được là một đảng viên tốt, một quân nhân tốt thì lại là một nhà văn tồi. Người cầm quyền quan tâm trước hết tới sự vun đắp sức mạnh của cộng đồng, tới sự đoàn kết nhất trí của một quốc gia, một dân tộc để hoàn thành một cách thuận lợi nhất những mục tiêu kinh tế, xã hội từng thời kỳ. Còn người cầm bút thì lại quan tâm tới sự nuôi dưỡng sức mạnh của cá nhân, tính độc lập của cá nhân, cả tính phản kháng của cá nhân và sự sáng tạo muôn màu muôn vẻ của cá nhân chống lại mọi sự độc đoán, mọi sự giản lược, tuỳ tiện, thu hẹp tầm vóc của cá nhân khiến nó bị ngạt dưới sức nặng của guồng máy. Thật ra hai việc ấy chỉ là một, cá nhân là nền tảng của cộng đồng, sức mạnh độc lập của cá nhân sẽ làm sức mạnh của cộng đồng thêm vững chắc có khả năng chống chọi bền bỉ mọi tai hoạ bất kể nó từ đâu tới.
Còn hắn, nếu xảy ra sự va chạm giữa chức năng của một nhà văn và trách nhiệm của một đảng viên thì hắn tính toán cách sao? Thông thường là hắn nhân nhượng và né tránh vì một cái lý rất đơn giản: hắn vẫn còn là đảng viên thì phải chấp hành những nghị quyết của Ðảng. Thành thử các nhân vật của hắn không đi đến tận cùng tính cách của họ, họ thường dừng lại ở khoảng giữa, rồi làm lành, rồi nhân nhượng, trở nên giống nhau ở những số phận mờ nhạt, thiếu tính quyết liệt, tính bi kịch để trở thành những gương mặt lớn có sức ám ảnh lâu dài trong lòng bạn đọc. Hắn chỉ có thể là nhà văn bình thường, một nhà văn loại 2, loại 3 gì đó, biết vậy nhưng hắn vẫn chấp nhận, không có cách mạng thì đến làm người tầm thường cũng khó nói gì làm một nhà văn.
14.
Có lẽ trong các tiểu thuyết của hắn chỉ có một nhân vật dám đi đến tận cùng số phận của mình, dám kết thúc cuộc hành trình gian nan về niềm tin bằng cái chết chứ nhất quyết không chịu rời bỏ niềm tin ban đầu, cũng không muốn vì cứu cái thân mình mà phản lại những người cùng một đạo. Nhân vật văn học đó có tên là Tư Tốn, một chức sắc của đạo Cao Ðài, một người có niềm tin trong sáng, quyết liệt dám ôm cái mộng lớn: cải tạo lại hệ thống giáo lý và quản lý của các cơ quan quyền lực cao nhất của đạo. Mộng thì lớn nhưng không tìm được người cộng tác. Ông Năm Sạng một đời chuẩn bị cho một cuốn sách sẽ viết đầy đủ và chính xác mọi bước thăng trầm của đại đạo từ ngày lập đạo cho tới ngày cuộc chiến tranh ba mươi năm kết thúc, nhưng ông đã quá già lại đau ốm, biết đến bao giờ ông mới hoàn thành cái tác phẩm để đời ấy. Ông Bẩy Tiêu cũng là một người trong cuộc, có quan hệ thân thiết với những người sáng lập đạo, nhưng ông không muốn thay đổi, mọi thay đổi đều là tai hoạ, ông tình nguyện sống trong ngu tín, trong thói quen cho được an phận lúc tuổi già. Tư Tốn đã từng nói với ông trong một lúc phẫn nộ về sự thờ ơ của những người đi trước. Ðoạn đối thoại vắt kiệt tư tưởng của cuốn sách đã được hắn viết như sau:
- Nếu bọn con chết không được yên lành các chú phải chịu hết trách nhiệm!
Ông Bảy cười gượng gạo:
- Bọn mày đã lớn cả rồi, còn nhỏ dại gì nữa mà đòi phải luôn luôn được dạy bảo.
Giọng của Tư Tốn càng gay gắt:
- Nhưng một nửa cái đầu của bọn con đâu có được tự do, các chú đâu có giúp gì để con cháu được suy nghĩ một cách tự do. Rồi chú coi, cha sẽ chôn con, ông sẽ chôn cháu, người già sẽ phải cầm mai chôn hết đám trẻ vì chúng đã là cái tội cái nợ của hội thánh.
Nói rồi y quay người đi thẳng.
Ông Hai Gáo cũng là một nhân vật đi đến cùng tấn bi kịch của mình. Ông là thủ túc tin cẩn của các bậc khai đạo lập giáo. Ông thất học từ nhỏ nhưng là người có chí, chỉ bằng tự học và nhờ bạn bè chỉ dẫn trong mười lăm năm ông đọc được báo Pháp và tinh thông cả Hán Nôm. Ông trở thành người giúp việc không thể thiếu của hộ pháp Phạm Công Tắc, vì ông vừa có cái khôn ngoan, tháo vát của người lao động lại có cả cái trầm mặc, tinh tế của người có học thức. Ông không chỉ biết một chuyện mà là biết hầu hết mọi chuyện, từ ngoài vào trong vì ông lãnh nhiều nhiệm vụ cùng một lúc, đặc phái viên của giáo chủ, kiêm thư ký, kiêm quản gia, kiêm hầu phòng, là người thân tín, người tâm sự, là chân, là tay, là ghế ngồi, là gối dựa, là đồ vật quen thuộc nhất của giáo chủ, với tay là tới, gọi đến là có. Sau khi ông hộ pháp mất tại Kim Biên, ông Hai Gáo đã năm chục tuổi, đưa vợ con về định cư ở một vùng biển, sống như người không có đạo để quên đi hoàn toàn nhiều chục năm đã qua. Khi miền Nam được giải phóng, đất nước đã thống nhất, ông Hai đã gần bảy chục tuổi. Nào ngờ những năm cuối đời ông lại phải đối mặt với một cảnh ngộ đau đớn, đứa con trai út của ông, đứa con trai ông gắn bó nhất, thương yêu nhất đã bị bắt vì nhận làm tài công cho một đám chức sắc của đạo muốn vượt biển ra nước ngoài vận động dư luận quốc tế công nhận Tây Ninh là thánh địa của đạo Cao Ðài, là vùng đất trung lập, là một xứ tự trị, là Nước Trời. Ông già biết con ông đã phạm tội với chính quyền cách mạng vì nó đã nghĩ nó làm việc đó là vì cha nó, vì nguyện vọng sâu xa của cha nó, chắc là cha nó sẽ bằng lòng và hãnh diện. Vì ông không bao giờ nói thật về người thầy của mình, ông ta đã chết coi như là hết, nói không tốt về ông thời mình là cái gì lại dành một đời hầu hạ một người chả có gì là tốt. Nó xấu hổ lắm, tủi nhục lắm, con cái nó khinh cho. Chúng nó đã khinh người cha sống sao nổi. Chẳng những ông không nói thật mà cũng chẳng cải chính những điều chúng hiểu sai, vì ông còn là người có đạo. Cái đạo ấy chẳng đem lại lợi lộc gì cho ông nhưng nhờ nó ông đã dạy bảo được con cái. Giáo tổ đã lẫm liệt thế ắt cha mình không đến nỗi hèn. Làm con ông già là một kiêu hãnh, ông đã nói là nên nghe, vì lời nói ấy có thời đã được cả hội thánh trọng nể. Nó nghe ông, nó kính ông vì cái vầng hào quang giả, dẫu là giả nhưng vẫn hơn là không có. Người đời họ sống bằng cái thật từ nhỏ tới già nhưng con cái họ đâu có tệ. Còn ông lại dạy con bằng những kích thước giả, nó tiện hơn, đỡ mất công hơn, bỗng chốc lại bảo rằng không có gì hết thì sự tan rã chỉ trong chớp mắt. Ðứa trẻ nhận ra đã bị lừa chỉ có thể làm giặc chứ khó có thể làm người lương thiện. Nó đã được nuôi trong cái háo hức của mộng ảo làm sao có thể sống được trong cái tẻ nhạt của đời thường.
Sự kết thúc rất buồn của hai người tu đạo mỗi người mỗi cách. Người già thì không nỡ nói hết tâm sự của mình với con cái vì cuộc đời vốn đã buồn vì sự kiếm sống nay lại không còn cả đức tin và danh dự một gia đình đã có công lớn với hội thánh thì chúng sẽ lấy gì nuôi sống phần hồn nên sự dối trá vẫn được che đậy cho đến ngày tấn bi kịch không thể tránh khỏi xảy ra. Còn người trẻ tuổi thì dám đối mặt với sự thật bằng một chương trình cải tổ giáo hội, chấm dứt thời mạt pháp để bước hẳn sang một kỳ đạo mới, cùng với những người cộng sản xây dựng đất nước Việt Nam thành một vương quốc của An Lạc. Nhưng ngay trong buổi thuyết pháp thử giữa vị tân giáo chủ Tư Tốn với ông cựu tín đồ Hai Gáo, ông Hai đã hỏi thẳng:
- Anh có đủ bản lĩnh để lập nên một hội thánh mới như anh vừa nói không?
- Cháu chỉ có thiện chí thôi, chỉ có một tấm lòng sốt sắng vĩ đại thôi.
Ông Hai chép miệng:
- Không đủ, trên đời này có một việc nên làm mà không nên làm đó là cái thiện chí. Có một việc không nên làm mà lại nên làm, đó là cái tàn bạo. Ông hộ pháp vẫn thường nói thế.
Ông Hai lại hỏi:
- Anh có hám quyền không?
- Không bao giờ, cháu chỉ muốn làm một giáo chủ tinh thần, một giáo chủ bè bạn và anh em, không cần một quyền lực nào hết.
Ông Hai cười:
- Nói vậy là sai. Có làm hại được người mới làm lợi được người. Có giết chết được thời mới cứu sống được. Phải có quyền anh ạ. Mất quyền thì có ra cái quái gì. Yêu và ghét đều không được. Tha và giết đều không được. Những thứ ấy mà không làm được thì lập giáo làm sao?"
Ðó là một trong nhiều đoạn đối thoại rất lý thú trong tiểu thuyết Ðiều tra về một cái chết. Khi Tư Tốn nói trong thất vọng: Tôi chỉ muốn làm một việc có ích để cứu đạo cứu đời, để đạo với đời hoà hợp là một. Ông Hai đã nói thẳng: Vô ích, không được đâu, đừng có vọng tưởng, làm việc khác đi! Ông khuyên chàng tuổi trẻ có tham vọng cải giáo nên làm việc khác đi là ông nói rất thật. Một trí thức có thiện chí, có tầm nhìn tầm nghĩ xa rộng nhưng lại thiếu cái bản lĩnh làm thủ lĩnh, làm người đứng đầu một phe, một phái, ai không cùng chí hướng lập tức phải gạt bỏ, phải đánh đuổi, nếu cần thì giết đi, không có sự dứt khoát, sự tàn bạo ấy thì làm người đứng đầu thế nào dược, làm thủ lĩnh một giáo phái thế nào được. Rút cuộc cũng chỉ là một anh trí thức nhút nhát, yếu đuối, vô tích sự, thất bại ngay từ trong ý nghĩ. Cái anh trí thức nghĩ thì hay nói thì giỏi nhưng lại không dám làm, hoặc dám làm nhưng lúc thì cực hữu lúc thì cực tả, là một chủ đề hắn rất thích nhắc lại, đã từng viết một lần trong Thời gian của người. Ðoạn kết của cuốn sách, khi viết về cái chết của Tư Tốn, hắn viết vào buổi tối. Một gian nhà quá rộng, trống huơ trống hoác, kê mấy cái đồ gỗ cũ kỹ xin được của người này cái phản, người kia bộ ghế, còn hắn viết trên một cái bàn rất rộng nhưng tấm ván ép của mặt bàn đã gần trở lại mặt mộc, lùng nhùng, ọp ẹp, cũng tự thương cảm cho chính cái thân mình, đã ngoài năm chục tuổi đầu mà dám chuyển dịch chỗ ở từ Bắc vào Nam, từ căn nhà tồi tàn này đến căn nhà tồi tàn khác, vợ thì dại, con thì nhỏ, có nuôi nổi nhau vào những năm cả nước đang gặp khó khăn thời hậu chiến? Chí lớn tài hèn chỉ được cái miệng với cái bút, với cái vốn liếng vớ vẩn ấy thì làm được trò trống gì! Nói cho cùng, nhân vật Tư Tốn dám vứt bỏ tất cả để được sống trọn vẹn cho một niềm tin, còn hắn, hắn có dám buông bỏ tất cả để được sống trung thực với ngòi bút của mình không, để khỏi phải tủi hổ với nó, ân hận với nó lúc cuối đời? Nhân vật của hắn đang bước tiếp những dòng cuối cùng trong cái chập choạng nửa mê nửa tỉnh của cơn hấp hối, còn hắn, hắn phải sống những hai chục năm nữa nếu như sống được tới tuổi ngoài bảy mươi, liệu hắn có bị chết dần mỗi ngày một chút trong lòng bạn đọc đã theo dõi hắn từ buổi hắn mới chập chững bước vào nghề văn?
15.
Hắn vốn nhát lại chịu ơn sâu với cách mạng nên hắn không dám mà cũng không muốn sinh sự với các tổ chức của cách mạng đã cứu sống hắn cả phần xác lẫn phần hồn. Hắn là một đảng viên không bao giờ gây khó khăn cho chi bộ, là một nhân viên rất biết điều ở bất cứ cơ quan nào. Và hắn cũng chưa bao giờ là người lãnh đạo, người chỉ huy ở cấp cơ sở. Có hai lần hắn được cấp trên đề cử vào cơ quan lãnh đạo của Hội Nhà văn thì cả hai lần hắn đều bối rối, lúng túng, làm đâu hỏng đó, gây khó chịu cho cả cấp trên lẫn người cộng tác. Hắn chỉ là người viết thôi. Và hắn cũng chỉ gắn bó hết lòng với cái suối nguồn của mọi sáng tạo, đó là đời sống với những vận động biện chứng của nó. Chưa bao giờ hắn bị lầm lẫn hoặc phải ân hận vì sự lựa chọn đó. Châm ngôn được hắn tôn thờ là một câu nói của Goethe (hắn cũng không rõ ông Goethe đã nói câu ấy ở đâu, trong cuốn sách nào): Mọi lý thuyết đều mầu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi. Ngay từ năm hắn mới vào nghề viết, năm 1957, khi hắn về huyện Nghĩa Hưng để tìm hiểu một vụ xung đột tuy chưa lan rộng nhưng đã rất phức tạp giữa một đơn vị bộ đội với các thanh niên công giáo của địa phương, hắn không gặp bất cứ một cấp uỷ nào, một nhân vật lãnh đạo nào ở cấp huyện hay cấp tỉnh. Hắn về xã với cái nhìn hồn nhiên và tiếp nhận cũng hồn nhiên những sự việc đang xảy ra, những bàn luận của giáo dân và của anh em cán bộ xã đã có kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh từ thời Pháp tạm chiếm với thế lực phản động của nhà thờ, không một chút thiên kiến nào, không bị phân vân bởi một nhận định, một kết luận có trước nào. Các vấn đề tự nó phơi bày ra, các nhân vật cũng từ trong đám đông mà xuất hiện và sự phát triển của nó cũng tuân theo cái logic nội tại chứ không do ý muốn của tác giả. Sự thay đổi về bản chất của nhân vật Thuỵ có làm hắn bối rồi một thời gian vì hắn chưa từng biết sức mạnh của đồng tiền có thể làm một cán bộ trung kiên bị tha hoá. Hắn chưa từng phải kiếm tiền nuôi ai, tám năm đi kháng chiến càng không biết giá trị của đồng tiền, cả năm không phải tiêu đến tiền làm sao nhận ra sức quyến rũ của nó. Lại những năm đầu hoà bình, một xã hội đang muốn xoá bỏ giá trị của đồng tiền để con người khỏi luỵ nó, làm nô lệ cho nó, có thể sống bình đẳng hơn, tự do hơn nếu không có nó tham gia. Nên sự thay đổi của Thuỵ khiến hắn choáng váng như là một chuyện phi lý, nhưng sự phi lý này không cho phép người ta ngờ vực, bàn cãi, nó là đời sống mà, là một con người cụ thể đang giãy giụa trong sự xiết chặt mềm mại của đồng tiền. Quyển 2 của bộ tiểu thuyết Xung đột không được hoan nghênh là vì thế. Ðó là lần đầu tiên hắn đã khiến những người lãnh đạo giới văn nghệ đâm bối rối trong sự đánh giá về hắn.
Lần thứ hai, to chuyện hơn vì hắn đã dám động chạm tới sự trung thực của một hợp tác xã nông nghiệp toàn xã được xem là kiểu mẫu về năng suất lúa, về thu nhập trong ngành nghề phụ, về cơ chế quản lý. Ðã thành một thói quen hắn về xã, chả có giấy giới thiệu gì, vì bạn hắn đang làm chủ nhiệm hợp tác xã, là một nhân vật được cấp tỉnh và huyện tin cậy. Và cũng là một con người rất lương thiện, rất thuần phác, hết lòng hết sức vì cái sự nghiệp mới mẻ này. Qua nhiều ngày tìm hiểu hắn mới nhận ra giữa tiếng đồn với người và việc đúng như nó có trong thực tế còn có một khoảng cách. Người nông dân chỉ vui cái vẻ ngoài, vui tạm, còn trong ruột thì có nhiều cái lo, những người lãnh đạo cũng không hoàn toàn an tâm về những việc họ đã làm và được các cấp trên khen ngợi. Cơ sở vật chất của hợp tác xã hết sức qui mô như hắn đã từng miêu tả trong các truyện Tầm nhìn xa và Người trở về: đường sá, cầu cống, mương máng, trạm xá, trường học, trụ sở uỷ ban và trụ sở hợp tác xã, nhà thông tin với hệ thống loa đến từng xóm... Nhưng từng nhà thì nghèo dần đi, tiền và thóc dự trữ không có, xây nhà, xây sân, xây chuồng lợn bằng những nguồn tiền thu được từ mảnh đất phần trăm, từ các nghề nề mộc lúc nông nhàn và cả những buôn bán lặt vặt phi pháp xung quanh đống phế liệu của nhà máy phân lân. Ruộng thì ít, người nhàn rỗi rất nhiều, mà việc gì cũng muốn dùng máy cho ra vẻ tiên tiến, hiện đại như Liên Xô, như các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu, thì máy sẽ ăn hết lúa, người không có việc sẽ ăn bằng gì? Làm ăn cả xã nhưng thu nhập thực tế lại không bằng làm từng nhà, lại họp hành, lại sổ sách, lại phải để mắt tới nhiều sự gian lận trong mọi khâu công việc thì lao động trở thành nặng nhọc, bắt buộc chứ không còn là niềm vui nữa. Ðang làm chủ trở thành người làm công ăn lương, không thể tính toán cho riêng mình bất cứ việc gì, họ không còn đất đai, không còn nông cụ, không còn cả lao động và thời gian, tất cả đều đã thuộc về hợp tác xã thì còn gì để tính nữa. Vì không tính được nên cái lo của người già và những người chủ gia đình là cái lo kéo dài suốt mấy chục năm, từ đời này qua đời nọ, lo quá thì không cần lo nữa là xong, đã lụt thì lút cả làng, no no cả đói đói cả, cả làng đói thì đã có nhà nước lo, sự bình đẳng gần như hoàn toàn, không còn giầu và nghèo thì cũng không còn lười và chăm, ngu và sang, may và không may, các số phận riêng mất dần đi, số phận giống nhau, mặt người giống nhau,vui buồn giống nhau đến ngôn ngữ và cảm nghĩ cũng rất giống nhau, nghĩ khác đi, nói khác đi chỉ ở làng thôi cũng đã được xem là chuyện lạ rồi. Khi viết truyện vừa Tầm nhìn xa thật tình hắn không muốn viết những cảm nghĩ tiêu cực của hắn về hợp tác xã nổi tiếng toàn tỉnh vì bạn hắn đang là chủ nhiệm, vì những người lãnh đạo của xã đã tỏ ra hết sức tin cậy hắn gần như không còn gì phải giấu hắn, kể cả những cuộc họp giữa các uỷ viên thường vụ của đảng uỷ xã. Nhưng hắn đã trót nhận ra ông phó chủ nhiệm phụ trách ngành nghề Tuy Kiền là mẫu người hắn đặc biệt yêu thích, và hắn không thể buông bỏ ông ấy được. Thế là Tuy Kiền ngay tức khắc trở thành một nhân vật văn học với những phát triển tự nhiên phù hợp với tính cách của ông ấy, nửa công nửa tư, vẫn thu vén cá nhân lại vẫn to tiếng về lợi ích tập thể, lại vẫn vùng vằng, hờn giận, ông ta muốn được cả miếng ăn lại được cả vinh dự, ăn của người nhưng vẫn muốn người bị thua thiệt phải hàm ơn mình, phải yêu mến mình. Vì đã dựng Tuy Kiền như ông ấy vốn là thế thì lại không thể bỏ qua sự dính líu của cả đảng uỷ thông đồng với cán bộ nhà máy để ăn cắp dầu, không thể không nói những chuyện mua giấu giếm gỗ của nhà máy về bán cho những người lãnh đạo của xã, bỏ qua những thất vọng và cả sự giận dữ của những xã viên tích cực. Vì trong những chuyện phi pháp ấy người đầu trò luôn luôn là Tuy Kiền, vì ông ấy là đảng uỷ viên nên trách nhiệm của cả tập thể đảng uỷ là không thể trốn tránh.
Thế là những người vốn tin cậy hắn ở xã liền phát đơn kiện tới tận trung ương với đủ thứ tội danh, và gọi vụ việc đã "gây phẫn nộ trong cả đảng bộ" là "hậu nhân văn giai phẩm". Vì những người lãnh đạo ở xã đều là cựu sĩ quan trong quân đội cũng đã từng nam chinh bắc chiến khắp dải đất Ðông Dương, đọc cũng nhiều biết cũng lắm, chứ không phải chỉ là ông nông dân hiền lành có thể bị bọm cầm bút bắt nạt. Rồi mọi chuyện cũng qua đi, hắn được cấp trên bênh vực, vì chống lại sự dối trá và tư tưởng tư hữu của người nông dân là chính đáng. Cũng là cái số hắn may! Chỉ có một người chịu thiệt là ông Tuy Kiền, ông trở thành một nhân vật nổi tiếng trong tỉnh, nhưng không ai ghét ông cả, chỉ buồn cười thôi. Cái tội tư hữu là tội bẩm sinh, đẻ ra đã biết giành vú mẹ, một hai tuổi đã biết tranh cướp những thứ không phải của mình, bé tranh vật nhỏ, lớn tranh vật to, rồi tranh lợi, tranh công, tranh quyền, cho đến lúc sắp chết vẫn còn muốn tranh nữa, vẫn còn chưa thấy đủ. Nó là thói tật cố hữu của con người thuộc mọi giai cấp, mọi thành phần, chứ không chỉ là cái tội riêng của ông nông dân, nhất là ông Tuy Kiền. Nó buồn cười là ở chỗ ấy.
Hắn thì được tiếng, người đọc thì được cười, chỉ có ông Tuy Kiền là hơi thiệt nên ông giận hắn lắm. Ba mươi năm sau hắn lại trở về xã Nam Tiến, bạn bè cũ đã chết nhiều, những người còn lại cũng quên chuyện đã qua, chả ai giận hắn cả, chỉ có ông Tuy Kiền và vợ con ông vẫn còn nhớ và vẫn còn rất giận. Ông không cho hắn gặp dầu hắn đã gặp ông rất tình cờ và muốn được nói chuyện lâu với ông để giải hoà, để xin lỗi. Ông không chấp nhận, tôi muốn quên anh, quên cả cái tên của anh, cái nhìn của ông lộ hẳn ra cái ý hằn học ấy. Khi hắn đến chào bí thư đảng uỷ xã là con rể ông Tuy Kiền, ông bí thư có nói lại lời của bố vợ với hắn: "Ông bủ tôi không giận anh đâu, chuyện ấy có gì mà phải giận, ông cũng muốn mời anh lại chơi nhà nhưng sợ trẻ con chúng nó cạn nghĩ dễ nói hỗn". Nói thế tức là chửi khéo đấy, các ông già đã nói là thâm thuý lắm, cái trò giễu vặt của thằng nhà văn đã thấm vào đâu.
Nguyễn Khải
Thuợng đế thì cười (kỳ 6)
16.
Cách đây đã hơn hai chục năm, hắn có được quen biết một linh mục trẻ sinh năm 1940, trông coi một xứ đạo của huyện Hải Hậu, trong một lần trò chuyện ông ta có nói với hắn: "Tôi là người làm một nghề có tính tiêu cực như sự đánh giá của các ông, nhưng vì tôi là giáo sĩ của một nước đã độc lập, là người của thời này nên cũng nhiễm được ít nhiều cái gan góc, cái kiên cường của những người cùng thời, bởi vậy cả các ông lẫn toà giám đều có sự hiểu nhầm..." Câu nói ấy khiến hắn phải nhớ mãi, người đi tu còn muốn thay đổi cảnh ngộ, còn không chịu sống phụ thuộc như các đấng bậc đã đi trước dầu những thử thách họ phải vượt qua là hết sức lớn, ở cả hai phía, từ phía chính quyền cách mạng và cả từ phía toà giám. Nhưng ông linh mục trẻ đâu có chịu đầu hàng, không làm được một tu sĩ như mình mong muốn thì ông ta sẽ trả lại áo chức cho nhà thờ, về quê làm anh nông dân tu tại gia để được trung thành với niềm tin từ năm bước chân vào chủng viện. Ðó là một trong mấy nguyên mẫu của nhân vật cha Thư trong tiểu thuyết Cha và Con và...
Năm hắn còn trẻ có lên nông trường Ðiện Biên nhiều lần, sau này viết được tập truyện ngắn Mùa lạc, có một người bạn hắn rất mến mộ tên là Dương, thượng sĩ, tổ trưởng tổ mộc của đội sản xuất số 2. Năm hắn tới đội sản xuất thì Dương mới đưa vợ từ dưới xuôi lên. Chồng ba mươi tuổi, một thượng sĩ đã hơi già, người vợ cũng vào khoảng hăm bảy, hăm tám. Họ lấy nhau từ năm 1950, một năm sau, vùng quê đó bị Pháp chiếm đóng, Dương đi bộ đội, vợ ở nhà nuôi mẹ. Hoà bình lập lại Dương cũng chưa được về quê, anh còn phải trở lại Ðiện Biên để làm lính nông trường theo yêu cầu của quân đội. Vợ chồng họ lấy nhau đã chín năm vẫn chưa có con nên Dương buộc lòng phải đưa vợ lên Ðiện Biên, bao giờ có con thì ẵm con về, mẹ ở nhà phải nhờ các em gái chăm sóc thay. Người vợ vừa gày vừa đen nên anh em trong đội sản xuất thường nói đùa: "Mày phải tưới tắm vợ mày kỹ vào cho cô ấy có da có thịt đã, chứ người như củi mục cành khô chỉ đẻ ra giun chứ đẻ thế nào được ra người". Cuối năm 1960 khi hắn rời nông trường thì vợ Dương đã có chửa được mấy tháng, mập hẳn ra, trắng hẳn ra, là một người đàn bà hoàn toàn khác. Vợ chồng họ mừng mà cả đội sản xuất đều mừng. Rồi hắn bặt tin vợ chồng họ khoảng mười năm. Năm 1970, nhân gặp một người bạn vốn làm công đoàn ở nông trường nay về sống ở Hà Nội, mới hỏi thăm các bạn cũ. Về trường hợp của Dương thì buồn lắm, anh bạn nói thế, năm 1966, khi anh ấy trả phép đi xe của nông trường từ Hà Nội, xe đến đỉnh dốc Pha Ðin thì chết máy, trời mùa thu đã ngả sang chiều, đã có sương, đang ngồi đợi sửa máy thì bất chợt gặp thượng sĩ Dương, phó mộc Dương, đang gò lưng ôm càng xe trâu cùng con trâu lên dốc. Cái xe trâu chở đủ thứ đồ đạc của một cuộc di chuyển, có mui xe, sàn xe trải chiếu, một thằng bé khoảng năm tuổi giương cặp mắt to nhìn mọi người, cạnh nó là cái tiểu sành đựng hài cốt của mẹ nó đã mất năm nó lên hai tuổi. Mẹ nó chết vì bệnh sưng phổi cấp tính để lại đứa con lên hai cho chồng nuôi. Anh lầm lũi nuôi con đến năm con lên bốn thì mua một con nghé và bắt đầu đóng xe những lúc rảnh rỗi. Ðược một năm thì con nghé đã vực được, lại được chăm sóc kỹ nên nó mau lớn và rất khoẻ đủ sức cho một cuộc trường chinh. Lúc ấy anh mới xin với ban giám đốc nông trường được thôi việc về nhà để chăm lo mẹ, nuôi con lớn và lấy vợ kế. Anh đã ba mươi lăm tuổi, không tính toán nhanh, nay mai con thì lớn, bố thì già, họ mạc hai bề đều nghèo, với hai bàn tay trắng bố con còn dắt nhau tới đâu nữa để kiếm sống? Khi được trên đồng ý anh mới thay áo cho vợ, bốc xương sang tiểu, cùng vợ và con về xuôi, mãi tận Hưng Yên, bằng cái xe trâu kéo, cứ đi thủng thẳng, tới đâu làm nghề được thì tạm dừng ít ngày, kiếm chút tiền vừa để dành vừa ăn đường, rồi vài năm cũng về được đến nhà. Hơn mười năm về trước Dương mới ở tuổi đôi mươi, hành quân lên Tây Bắc rồi trở thành chiến sĩ Ðiện Biên, là người anh hùng trong vùng sáng chói loà của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hơn mười năm sau Dương đã bước vào tuổi trung niên, chở xương vợ và đứa con còn nhỏ trên cái xe trâu làm một cuộc hành quân dài ngày không có đồng đội trong cái vùng sáng u ám, buồn tẻ của một kiếp người. Hắn cứ nghĩ mãi về một bức tranh sơn dầu khổ lớn, trong cái ráng chiều đỏ rực của trời chiều Tây Bắc, một người đàn ông gương mặt đã khô đen vì sương gió đang gò lưng ôm một bên càng xe cùng với con trâu lên một cái dốc của đèo Pha Ðin. Ðó là hình ảnh trọn vẹn nhất của một người cùng thời với hắn, tuổi trẻ cõng súng đạn, về già cõng vợ con, đều là đi tìm cái sống cả. Còn hắn thì sao?
Năm 63 tuổi hắn được chứng kiến một hiện tượng kỳ vĩ gần như là của tự nhiên biểu trưng cho cái khả năng tái tạo, hồi sinh của một con người. Ðó là dịp hắn được tới thăm một gia đình thương binh, chồng là thương binh, vợ cũng là thương binh với bốn đứa con đẹp đẽ khoẻ mạnh như thuộc một gia đình khác, một dòng giống khác. Anh ấy khoảng bốn chục tuổi, vợ cũng xấp xỉ tuổi đó. Nhập ngũ được hai năm thì anh bị bom napal cháy toàn thân trong trận đánh vào Tân Cảnh năm 1970. Năm ấy anh mới có hai mươi tuổi, trai nông thôn mà vóc dáng, gương mặt đẹp như diễn viên điện ảnh, anh nói thế, tới đâu cũng được nhiều cô gái yêu thương và hò hẹn. Trong nửa năm anh bị cuốn chặt trong một khối bông băng từ chân tới đầu, sống như một sinh vật hạ đẳng, ăn uống, bài tiết và phát ra những tiếng kêu nho nhỏ. Lại một nửa năm không nhìn thấy gì, vẫn chưa nói được và nằm bất động. Rồi anh nhìn lại được dần dần, nói lại được dần dần. Rồi anh ngồi dậy được và bắt đầu tập đi, tập các động tác đơn giản khác để tự phục vụ những nhu cầu của riêng mình. Anh sống trong một trại điều dưỡng ba năm, sinh hoạt gần như bình thương nhưng chưa bao giờ anh dám nhìn vào kính, vào gương soi. Anh biết mặt anh đã hoàn toàn biến dạng, chỉ còn là những mảng da đủ mầu vá víu, là mặt quỉ chứ không thể là mặt người. Với bộ mặt ghê sợ ấy anh lấy vợ làm sao, gặp mẹ làm sao. Anh có thể không lấy vợ nhưng không thể không gặp mẹ. Anh rất nhớ mẹ nhưng nếu mẹ nhìn thấy anh thì bà sẽ đau đớn cho tới lúc chết. Nên anh cứ dùng dằng mãi cái ngày trở về quê để anh chị và các cháu chăm sóc. Và đã có một cô gái ở trại điều dưỡng bị cụt một cánh tay nhưng còn trẻ và rất xinh đem lòng yêu thương anh, muốn được cùng sống với anh mãi mãi. Nhưng anh đã trốn chạy tình yêu vì anh không còn khả năng để một người đàn bà tàn tật có thể nương tựa, cũng không còn cả một gương mặt bình thường để biểu lộ những yêu thương. Anh buộc phải trốn về quê sống với mẹ và các anh chị. Mẹ anh đón anh rất mừng chứ không sợ, có là một đống thịt bị rữa nát bà cũng không sợ, huống hồ đã được khâu vá, sang sửa đẹp đẽ hẳn hoi, bà an ủi con trai thế. Một tháng sau cô gái thương binh khoác ba lô về thẳng quê anh, xin được làm con gái mẹ anh vì gia đình cô không còn ai thân thiết. Một tháng sau đám cưới của hai người được đoàn thanh niên xã đứng ra tổ chức. Một năm sau cô sinh cho chồng một bé trai bụ bẫm, có đủ hai tay và một gương mặt rất kháu khỉnh. Khi hắn tới thăm gia đình anh thương binh đã có những bốn đứa con, đứa con đầu đã 14, đẹp như tranh vẽ, anh nói với hắn rất tự hào: "Nó là chính em thời còn ở nhà, hai bố con giống nhau như anh em sinh đôi, nhưng nó cao to hơn em một chút". Bà vợ ngồi cạnh nói đùa: "May mà ông xấu xí nên tôi mới lấy được ông, chứ lại đẹp như con ông làm sao tôi dám với". Các ngón tay của anh như ngắn lại và quặp vào lòng bàn tay, hoàn toàn không sử dụng được, nhưng anh đã tập những thao tác lao động riêng, đã sáng chế ra các nông cụ phù hợp với các thao tác của mình nên vẫn làm vườn được, chăn nuôi được, làm mọi việc trong nhà được. Anh lại biết tính toán trong sản xuất và kinh doanh, nuôi ba ba, thả lươn, nuôi ếch, khu vườn rộng đến hai sào của gia đình thành một khu vực chăn nuôi và trồng trọt nổi tiếng khắp huyện. Khi hắn nói; "Hai người chỉ có một bàn tay, lại phải lo rất lắm việc chắc anh chị cũng vất vả", thì người chồng đính chính ngay: "Thưa bác, bây giờ chúng em có những chín bàn tay kia, bọn trẻ nhà em làm ruộng làm vườn chả thua gì người lớn đâu. Vợ chồng em đã lên chức chỉ huy rồi". Bữa đó hắn đã nghĩ như một triết nhân: "Sức mạnh tái sinh của con người ta có thể sánh ngang với trời đất thật. Từ một đóng thịt rữa nát chỉ để nuôi giòi, nuôi giun, bón đất mà thành một cơ nghiệp, một dòng họ và một tình yêu để lại mãi mãi cho hậu thế". Vài năm sau hắn viết truyện ngắn Một bàn tay và chín bàn tay được giải thưởng của Bộ Quốc phòng và cũng là một truyện ngắn được bạn đọc ưa thích.
Năm 65 tuổi hắn được làm quen với một người bạn mới, là đồng nghiệp, là một nhà báo tỉnh, kém hắn dăm tuổi. Ông ta làm báo từ năm các nhà lãnh đạo của tỉnh còn là học sinh cấp tiểu học, họ đã nhìn thấy ông nhà báo mặc bộ quần áo bộ đội nhàu nát, đi dép lốp, như một ông cựu chiến binh. Rồi ông mặc một bộ kaki mới hơn, văn minh hơn, đi dép nhựa nhưng vẫn cứ luộm thuộm thế nào. Và bây giờ ông đã may được một bộ quần áo của nhà báo, đi dép da, tóc để dài nhưng vẫn cứ là một ông nông dân mặc quần áo mượn. Hắn vừa nghe ông ta nói chuyện vừa ngắm nhìn ông với những cảm nghĩ rất riêng, vui một chút mà cũng buồn một chút. Rất ít có nhà báo tận tuỵ với nghề như ông, vì dân mà viết báo như ông, mà cũng ít ai trong nghề lại bị coi thường, bị bạc đãi như ông. Ông đã phục vụ bốn đời bí thư, chủ tịch của tỉnh, ai cũng cần ông mà không một ai trọng ông. Họ coi ông như chân như tay, như trợ lý chứ chưa bao giờ xem ông như một cố vấn, một chuyên gia rất am hiểu lòng dân, cái giận và cái lo của dân và những việc phải làm ngay cho dân đỡ khổ đỡ oán. Ngay cả mấy đời giám đốc cơ quan phát thanh của tỉnh cũng đều muốn tống ông về hưu mà không thể làm, không dám làm. Chưa một ai biết cách lấy tin vừa nhanh vừa chính xác như ông, lại có cách viết thân tình như những người trong nhà trò chuyện với nhau như ông. Có người đã nói nửa đùa nửa thật với hắn: "Ông ấy viết hay như biên tập viên của đài B.B.C ấy". Chỉ phải mỗi tội ông hay can thiệp vào nhiều việc của người cầm quyền quá, vì việc của người cầm quyền lớn và nhỏ trong tỉnh lại thường hay động chạm tới quyền lợi của dân, nói giùm cho dân thì bị ngăn ngay từ ông tổng biên tập của đài vì những mối quan hệ rất phức tạp của ông ta với các quan chức trong tỉnh và khắp các huyện. Ông nhà báo tỉnh nói với hắn: "Một tỉnh có ba, bốn thứ quỹ, quỹ tiền, quỹ lao động, quỹ lương thực, quỹ đất, dân nhìn thì khó thấy chứ tôi đã nhìn vào là ra vô ối chuyện. Có bao giờ họ dám cho đưa tin về con số tuyệt đối huy động lương thực một vụ trong năm đâu. Vì sẽ lòi ra quỹ lậu, anh hiểu chưa? Ðấy, đấy, họ ghét tôi vì tôi hay thò mũi vào những chỗ họ thích giấu kín!"
Ông nhà báo tỉnh lại còn dậy ông nhà báo nổi tiếng của trung ương cái thuật nghe dân nói. Họ nói lắt léo lắm, phải thấu hiểu tâm sự của họ mới nghe nổi, hiểu nổi. Ví như cơ quan nông nghiệp của tỉnh yêu cầu bà con nông dân nên dùng giống lúa Hồng Ðức thì dân nói lái ngay là lúa Ðừng Hốc - Nhà em mỗi sào được tạ hai (hại ta), nhưng ông anh lại được tạ tư (tự ta) - Họ bảo chúng em dùng phương thức "bỏ thẳng" (gieo thẳng, không cần cấy), chúng em làm theo ngay, một vụ "bỏ thắng" ba chục mẫu (tức là bỏ hoang, không cấy) - "Ruộng chúng em xa lắm, nhưng lúa rứt tốt (không phải là rất tốt), đi gặt không phải mang liềm, chỉ mang mẹt, mang rá thôi". Hoặc họ mời ông nhà báo tỉnh ở lại ăn cơm rồi nói: "Bác ngồi chơi, mẹ nó thả vó thì gỡ bằng mệt". Ngồi chơi cả giờ chả thấy gì, dọn cơm lên vẫn chỉ có tép rang với rau luộc. Hoá ra trong ao không có cá chỉ toàn là trà rào thôi. Nhưng cái bữa hắn và mấy ông bạn văn thơ của Hà Nội tới huyện T. và bữa cơm trưa ở huyện, có cả ông nhà báo tỉnh, hắn mới thật sự bàng hoàng về cách phân biệt đối xử giữa ông khách của tỉnh, cũng là người nhà của huyện với đám khách của trung ương. Họ không mời ông nhà báo tỉnh, chỉ có cán bộ của các ban ngành trong huyện ngồi tiếp khách của Hà Nội thôi. Mà bí thư, chủ tịch huyện và chánh văn phòng uỷ ban đều biết rõ đám báo chí ấy có quen biết nhau từ trước. Ông nhà báo tỉnh theo chân các bạn ở Hà Nội về cùng vào phòng tiệc nhưng không có chỗ cho ông ngồi, cũng không ai mời ông ngồi, ông cứ đứng mà nói chuyện với các bạn ông đã ngồi vào bàn, bàn tám người ăn vừa đủ chỗ. Ắt hẳn cái cảnh kẻ đứng người ngồi trò chuyện với nhau đã làm ông bí thư huyện hơi ngượng, hơi khó chịu nên ông bảo lấy thêm ghế cho ông khách không mời vẫn cứ đến, vẫn cứ đòi một chỗ ngồi, ngồi đúng cái bàn không ai muốn ông có mặt vì ông không chịu ngồi sang bàn khác. Ông muốn được trò chuyện với các đồng nghiệp ở trung ương về chứ đâu phải vì thèm một bữa ăn ngon. Ông không ăn gì thật, chỉ uống thôi, và ông đã mượn bia để bày tỏ nỗi lòng. Rằng ông là ân nhân của huyện này những năm họ gặp khó khăn trong thời chống Mỹ cũng như thời kinh tế còn bao cấp. Họ đói lắm, rách lắm, thiếu thốn đủ mọi thứ nhưng tình người thì hết sức ấm áp, ăn rau ăn khoai nhưng đêm đến chả ai muốn về nhà, cứ nằm ở văn phòng uỷ ban huyện, gác chân lên nhau mà tâm sự. Còn bây giờ, ông ta quắc cặp mắt đã hơi say quay sang nhìn hắn, nhìn các bạn hắn, rồi lại nhìn những người bạn lâu năm ngồi cùng bàn, trước đây, chỉ mới dăm năm trước đây thôi, còn là bạn bè, là anh em, vì ông hơn họ cả chục tuổi, biết họ từ năm còn ở truồng, nhưng nay đã là những người quan trọng của một huyện giàu có, đãi đằng bạn bè tiệc lớn tiệc nhỏ, ngồi xe hơi có máy lạnh, đi đâu xa có cả một xe chở bia đi theo, còn ông nhà báo đã là một cấp dưới không đáng quan tâm, gọi là nhà báo nhưng chỉ là người viết bản tin hàng ngày ấy mà, ăn mặc lôi thôi, nói năng xàm xỡ, thiếu lịch thiệp, thiếu tinh tế, một anh nông dân chay chưa được khai hoá bởi nền văn minh thị trường. Trong một bàn tiệc đãi khách là những nhà văn nổi tiếng của trung ương về thăm một huyện cũng đang rất nổi tiếng mà lại nói những chuyện từ đời tám hoánh nào, ngăn lại không được, đuổi đi cũng không được, đành phải nín nhịn mà nghe, mà cười xoà và nói lảng. Người lãnh đạo nói một câu thì cái lão thích phá đám ấy nói lại đến mười câu, giọng nói như lệnh vỡ, chả nể ai cả, chả dè chừng một lời nói nào cả, cứ như ngồi ở đám giỗ dưới xã. Hắn nhìn những gương mặt lạnh ngắt của những người đương quyền, mắt nhìn xuống, miệng mím lại, thỉnh thoảng lại cười nhạt, tức là họ đang giận lắm, hận lắm nhưng biết làm sao được. Nên hắn vội vàng nói chen vào những chuyện làm ăn thất bại của nơi này nơi kia mà hắn được biết để có dịp phỉnh nịnh một cách khéo léo cái nhìn nhạy bén và cách quản lý tài giỏi của những người lãnh đạo huyện nhà. Mặt mọi người lập tức giãn ra, tiếng cười dài hơn và những lời đối đáp đã trở lại cái tự nhiên, cái vui vẻ của lúc ban đầu. Ông nhà báo tỉnh cũng lắng nghe chăm chú những câu chuyện vui hắn nói, mắt miệng như hơi cười nhưng là cái cười mỉa, cái cười khinh. Ông ta đâu cần hắn đứng ra dàn hoà, cái ông muốn trong bữa cơm trưa này là những người lãnh đạo của huyện phải tự bộc lộ cái mặt thật của họ, cách ăn ở bạc bẽo của họ và cả những khoe khoang rất ấu trĩ của những kẻ mới bắt đầu có của. Cấp lãnh đạo sống và nghĩ nông cạn đến thế thì dân chúng còn là vất vả, cái đời làm báo của ông còn gặp nhiều khó khăn, chắc rằng họ cũng sắp tống ông về hưu thôi, chẳng năm này thì thì năm tới, họ yêu gì ông mà muốn giữ lại. Chả lẽ ông lại nhẫn nhục xin làm hợp đồng! Trước ngày về Hà Nội, bọn hắn có mời ông ăn một bữa cơm chia tay tại nhà khách của tỉnh, hắn hỏi ông: nếu gặp lại mấy ông ở huyện T. anh có gì khó nói lắm không?" Ông cười hề hề: "Chả sao cả, vẫn thế mà. Cái việc của họ buộc họ phải thế, cái việc của tôi buộc tôi phải thế, có ai vì cái riêng đâu". Rồi ông nói tiếp: "Làm nhà báo là không có nghỉ hưu, lĩnh lương hưu nhưng vẫn cứ là nhà báo đương chức, họ có giỏi cứ việc đưa tôi ra toà. Tôi cũng mong tôi đã viết sai để có lời xin lỗi công khai họ trên báo trên đài, tôi sai họ đúng thì dân được nhờ nhiều, có phải không?" Cũng nhân sự tin cậy, thân tình giữa bọn họ trong ngày được đánh bạn với nhau, ông nhà báo tỉnh đã nhận xét hắn là người có tính thích dàn hoà, văn của hắn cũng nghiêng về sự thông cảm, sự dàn hoà, thiếu tính quyết liệt. Ông thì khác, ông thích sự phân minh, sự rạch ròi, hoặc họ đúng hoặc ông đúng, ông phản đối sự nửa vời, sai đúng chia đều, nạn nhân thủ phạm mỗi bên một nửa. Sau lần gặp gỡ ấy, hắn có viết được một truyện ngắn Lạc thời đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhưng tính cách nhà báo tỉnh trong truyện có khác nhiều với con người thật. Ông nhà báo hắn được tiếp xúc chả buồn một tý nào về những việc ông đã làm, những lời ông đã nói, nó thuộc chủ ý của ông chứ không do sự đẩy tới của cảnh ngộ mà ông đã nói thế, đã làm thế. Ông còn tiếp tục sống và viết một cách khó chịu cho tới ngày ông nghỉ hưu và cả sau khi đã nghỉ hưu nếu ông còn đi được, còn viết được. Ðài báo của tỉnh không dùng thì đài báo của trung ương sẽ dùng, tỉnh của ông còn cấp trên của nó, chứ chưa phải đã là một vương quốc độc lập, không thích là có thể cấm, cấm không được thì bỏ tù. Cũng là một con người đi tới cùng trong niềm tin của mình, trung thành đến cùng với lợi ích của những người thấp cổ bé miệng, muốn đem lại sự công bằng cho họ như ông đã tự hứa khi bước vào cái nghề viết tin viết báo.
17.
Hắn thích sự nhân nhượng, sự dàn hoà để có một kết cuộc vui vẻ, do tính cách bẩm sinh của hắn nhưng lại phù hợp với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, yêu cầu câu chuyện bao giờ cũng được kết thúc có hậu. Hình như cũng là cách viết của ông cha mình thì phải. Nên cô Kiều không chết ở sông Tiền Ðường mà lại được cứu để có cái cảnh tái hồi Kim Trọng. Nguyễn Du muốn thế mà Nguyễn Ðình Chiểu cũng muốn thế. Nhiều tác giả các truyện thơ khuyết danh cũng muốn thế. Nhưng Nguyễn Gia Thiều đã viết khác. Ông viết thật hơn, từ câu đầu đến câu cuối của thiên Cung oán ngâm khúc chỉ có tiếng than thấm đẫm nước mắt thôi. Rồi những tưởng tượng, những mơ mộng, những hy vọng nhưng thực tế thì ông vua đã quên cô ta rồi, còn cô cung nữ thì vẫn phấp phỏng: Ðè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi - Nghiên bình phấn mốc mà dồi má deo. Và hai câu kết thúc của tiếng rên dài vẫn chỉ là hy vọng: Phòng khi động đến Cửu trùng - Giữ sao cho được má hồng như xưa. Ở cuốn tiểu thuyết đầu tay Xung đột, các nhân vật được phát triển theo đúng cái bản chất của người nông dân có đạo, họ trở nên bối rối, lầm lạc khi phải đối mặt với những thử thách của một thời kỳ không thuộc năng lực của họ chứ không tuân theo sự sắp xếp có hậu của tác giả. Tiểu thuyết Ðiều tra về một cái chết cũng thế. Các nhân vật Hai Gáo, Tư Tốn bị những nhân nhượng vặt vãnh suốt một đời tu đạo đẩy họ vào những tình thế bế tắc hoàn toàn, không có cách gì thoát ra được, chỉ có thể kết thúc bằng cái chết mà thôi. Nhưng chết trong văn chương thì sẽ được sống mãi trong lòng bạn đọc. Còn lại sống một cách gắng gượng, vô lý vì mong muốn của tác giả thì phải chết trong văn chương. Vì cuộc sống vốn quyết liệt không chấp nhận sự kết thúc có hậu ở những trường hợp ấy. Nhưng ở Cha và Con và... lại có sự nhân nhượng, sự giải hoà vì cha Thư đã tìm được cách chung sống giữa các bổn phận, lấy giáo dân làm Chúa của mình. Nhưng trong thực tế đã hoặc sẽ có một linh mục nào ở nước ta dám làm một cuộc cách mạng triệt để như thế không? Ở tiểu thuyết Chủ tịch huyện cũng vẫn có sự nhân nhượng. Nhân vật An là một chủ tịch xã rất trẻ lại có tài chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của một xã, nhưng anh ta cũng có tính láu cá và gian giảo của dân hàn vá nồi, lại được tỉnh và huyện nâng niu, chiều chuộng nên đã có những dấu hiệu của một cán bộ xã hãnh tiến, gian dối, bất chấp thủ đoạn để đạt tới cái đích của mình. Hắn đã nhận ra những biểu hiện tiêu cực còn mờ nhạt của một nhân vật đang được xem là thần tượng của huyện, của tỉnh, và đã có lời cảnh báo bằng nhận xét: Một cán bộ xã làm việc giỏi, rất tháo vát nhưng hay khuynh loát tập thể. Lý lẽ sắc bén nhưng nhiều khi nguỵ biện. Rất ưa người khác tâng bốc mình nhưng lại không biết gìn giữ uy tín của người khác. Cái phần hiện thực chỉ tới đó thôi, còn sau đó lại là "lãng mạn" rồi, bằng một kết thúc xem ra cũng có lý: cả nước đã bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ nên nhân vật An đã tự gột rửa mình trở nên sạch sẽ để bước vào cuộc chiến đấu mới. Bạn đọc những năm ấy cũng mong muốn câu chuyện được kết thúc vui vẻ như thế nên đã đồng tình với tác giả. Các nhà phê bình văn học lại càng đồng tình hơn. Cuốn sách đã thành công theo đúng những tiêu chuẩn mỹ học của một thời. Ba mươi sáu năm sau hắn trở lại quê hương của Chủ tịch huyện, nhắc lại chuyện cũ, nhân vật cũ mới té ngửa ra cuộc sống đã có những kết thúc khác hẳn, khắc nghiệt hơn nhiều, bi quan hơn nhiều. Ông chủ tịch xã trẻ tuổi đầy triển vọng năm nào đã trở thành một tên ác bá đầy thủ đoạn, cấp trên không dám loại bỏ vì y đã từng là ghế đệm của họ trong nhiều năm, còn dân chúng chỉ còn biết giương mắt nhìn chứ không dám hé môi nói nửa lời. Lúc hắn ngỏ ý muốn gặp lại nhân vật của mình thì được trả lời y đã trở thành kẻ lừa đảo của cả nước từ hai chục năm nay, hiện đang phải trốn chạy vì đã có lệnh truy nã toàn quốc. Hắn đã viết về câu chuyện buồn và đáng xấu hổ của hắn trong bài bút ký Mất toi một cuốn sách.
Tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm cũng là một cuốn sách được viết theo tinh thần hoà giải mọi sự trái ngược giữa những người có chính kiến khác nhau. Họ đều đã già, đã từng trải nhiều trên chính trường, những mặt trái của một thể chế chính trị dựa vào Mỹ họ đều biết rất tường tận và đã tự tách ra về tư tưởng, về tình cảm từ nhiều năm rồi. Nên giữa họ cũng đã tìm được một tiếng nói chung khi đất nước vừa ra khỏi một cuộc chiến đã kéo dài và đang đứng trước những vận hội mới. Cuốn sách đã được bạn đọc của Sài Gòn, của miền Nam chấp nhận vì nó đã đem lại một hy vọng có nhiều tính thực tế. Nhưng trong cuộc sống thật như nó đang diễn ra hàng ngày lại không hoàn toàn như thế. Vì cái mặc cảm kẻ thua người thắng, dẫu là rất vô lý, cũng chưa thể gột bỏ được ngay trong một gia đình. Như cái đại gia đình của hắn là một ví dụ. Hắn là con vợ lẽ, vợ không chính thức nên hắn cũng là đứa con không chính thức. Vì hắn trở lại với gia đình trong đội quân chiến thắng, trong số những người sẽ làm chủ Sài Gòn nên không thể không tiếp đãi hắn cho đàng hoàng. Vả lại nhận một thằng Việt cộng cũng có dính líu một chút máu mủ ở cái thời buổi có nhiều bất an, nhiều lo sợ thì có gì là thiệt, là không nên. Có một đứa con của gia đình ở phe bên kia, phe chiến thắng gần như là một đảm bảo về chính trị trước nhiều câu hỏi, nhiều bản kê khai do cán bộ của khu phố, của phường, của quận đưa tới. Cho nên bố mẹ hắn mới xin hắn một tấm hình mặc quân phục có đeo lon thiếu tá đặt trên tủ buýp phê kê giữa nhà, có ai vào chơi là giới thiệu liền: "Cháu nó ở ngoài Hà Nội mới vào thăm chúng tôi". Ngày hắn gặp lại bố mẹ, bố hắn ngắm nhìn hắn một lúc lâu rồi bảo: "Nom anh bây giờ chả giống chút nào với ngày xưa, nếu anh không xưng tên thì tôi không thể nhận ra". Hắn nói: "Năm nay con vừa bằng tuổi cậu cái năm gia đình ta ở Nam Ðịnh". Bố hắn nói bâng khuâng: " Ừ nhỉ, 45 tuổi, đời người cũng nhanh thật". Rồi ông cụ lại nói: "Cái năm ấy là do hoàn cảnh..." Hắn cười, nói át đi: "Cậu chả nên nghĩ lại cái chuyện ngày xưa làm gì". Tức là hắn muốn giải hoà vì nghĩ rằng đã có điều kiện để giải hoà. Hắn trở về cũng không phải để giành lấy một cái gì, đòi có một cái gì, không lấy đi của ai bất cứ cái gì, trừ phi hắn có lòng dạ nhỏ nhen muốn nhân sự thắng thế mà trả thù. Nhưng hắn đã nói một cách vô tư nhất, trong tiếng cười hồn nhiên nhất: "Thôi bỏ đi cậu ạ, được gặp lại cậu mợ và các anh chị còn khoẻ là con vui rồi". Hắn nghĩ thế thật nhưng những người ruột thịt của hắn chưa hẳn đã nghĩ thế. Thoạt đầu thì vui, đang có nhiều lo lắng vì bị đột ngột quăng vào một thời thế mới chưa có chuẩn bị gì thì gặp người của gia đình, dẫu rằng đã quên nó từ lâu rồi, đã nghĩ không có nó, lù lù xuất hiện. Nên mới mở tiệc đãi đằng nó và bạn nó. Nhưng trong lòng vẫn không vui. Ðứa con trai út được chiều quí, nâng niu thì lại phải tập trung học tập cả năm vì nó là thiếu uý công binh của đội quân thất trận. Còn cái thằng đã vứt bỏ, đã muốn quên đi lại là nhà văn nhà báo, được nhắc nhở, được mong chờ của cả họ. Thế là bực, vì nó trái lẽ, nó ngược đời. Cuối năm 1976, trong một lần hắn lại chào bố mẹ để hôm sau ra Bắc, ông già cứ đứng trong cánh cửa sắt nói chuyện với con chứ không mở cửa. Rồi ông hỏi: "Anh có cần vào trong nhà không?" Bố nào lại hỏi con ruột cái câu lạ lùng ấy trước ngày nó lại đi xa, có thể năm sau nó lại vào, cũng có thể vài năm nữa nó mới được vào, công việc của nó là ở Hà Nội kia mà. Hắn biết ý liền nói ngay: "Dạ, không ạ, con đến chào cậu mợ thôi. Có chuyện gì cần cậu mợ cứ viết thư cho vợ chồng con". Nói rồi hắn quay người đi thẳng, trong lòng cũng hơi tủi, hơi giận. Một bữa cơm gia đình để chia tay cũng không có. Tức là bố và mẹ già còn ghét hắn lắm. Sự có mặt của hắn vào những ngày này đã làm họ xấu hổ nên họ ghét, có khi chỉ là như thế. Nhưng nó là con mình kia mà, nó làm đẹp mặt mình tại sao lại ghét nó. Vẫn đáng ghét chứ! Vì nó dám ngoi cao hơn các anh chị nó nên phải ghét. Chẳng lẽ dòng dõi lại tìm nơi phát sáng ở cái đứa mà trong một lúc quá thất vọng người bố đã phải kêu lên: "Thằng mán tiền!" Nửa năm sau thì ông già hắn mất ở tuổi 77 nên lần gặp người đứng trong cánh cửa kẻ đứng ngoài cánh cửa là lần gặp cuối. Năm 1982, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm ra mắt bạn đọc cả nước. Hầu hết các nhân vật trong cuốn sách đều có nguyên mẫu cả, nhưng nhân vật văn học cô đọng hơn, sang trọng hơn, trí tuệ hơn. Hắn nâng họ thành các nhân vật đại diện, nhân vật tư tưởng tước bỏ hết những chi tiết dung tục của đời thường. Hắn viết không nhằm bới móc đời tư và những chuyện còn chưa đẹp mà chỉ cốt khẳng định lòng yêu nước đã thắng, cái thiện lương trong mỗi người đã thắng, xu thế của dân tộc có khả năng xích lại gần họ lại để cùng đối mặt với những thử thách mới, mỗi người mỗi cách. Nhưng cuốn sách đã làm mất lòng những người ruột thịt của hắn vì tính khách quan của người cầm bút. Hắn đã so sánh hai người, là hai cậu cháu, đều là quan lại, một người đã dám bỏ tất cả để đi theo kháng chiến, còn một người cứ níu chặt lấy cái thể chế cũ, mỗi năm một tự hạ thấp mình đi. Ðoạn văn đó như sau:
Anh Hảo tốt nghiệp trường Luật ở Paris, về nước được chính phủ bảo hộ bổ nhiệm làm tri huyện, một chức quan cai trị vào loại cà mèng nhất. Ông bố tôi là dân tham biện chuyển sang ngạch quan lại, học vấn và uy danh tất nhiên không thể bằng ông cử nhân luật, nên cụ có vẻ thích thú cái chức vụ mới đó lắm. Thì có cà mèng vẫn cứ là quan lớn và vợ quan lớn tức thị là bà lớn và bà lớn có thể nói với họ hàng: "Ông huyện nhà tôi...", ông huyện nhà tôi thì sang hơn "ông tham, ông phán, ông ký nhà tôi" rồi...
Lại một đoạn khác:
Anh Hảo là người sướng từ trong trứng, bố tôi bì thế nào được. Cái đại gia đình ấy có cả hai vế: tân học thì có một tiến sĩ, một luật sư, cựu học thì có một phó vương, một khâm sai đại thần. Họ sang đến thế mà họ theo cách mạng được, cả ông phó vương lẫn ông khâm sai đại thần. Còn ông tri huyện lại khăng khăng bảo thủ chế độ cũ, muốn sống chết vì nó, từ chối mọi sự thay đổi...
Nghe vợ hắn nói lại, mẹ già hắn đã nổi cơn giận dữ chưa từng có, vì xưa nay bà có tức chết cũng cố giữ cái vẻ ngoài điềm đạm và càng giận lại càng tươi nét mặt và cười. Tất nhiên là cười nhạt, cười gượng, cái cười lạnh lẽo mà ngày còn nhỏ hắn đã muốn dựng hết chân tóc mỗi khi hắn thấy bà nhìn hắn và cười. Vả lại xã hội đã trở lại ổn định dần dần, những lo lắng, sợ sệt vô lý của những ngày đầu đã không còn nữa, nên tấm hình - bùa của hắn đã được hạ xuống để trả lại cho cái đứa con mất nết đã dám dùng văn chương để chửi cả bố. Và cả gia đình đã từ hắn một cách hả hê, vì đã tìm ra cái cớ đích đáng để khỏi phải ngồi thấp hơn hắn, ngồi vòng ngoài mỗi lần có cuộc gặp gỡ trong họ.
Cái số hắn hoá ra cũng vất vả, từ nhỏ tới năm 15 tuổi mới được về nhà bố để nhận mẹ già, nhận các anh chị, được tận mắt thấy bố ăn bố ngủ, lúc gắt lúc cười. Rồi bặt tin nhau vừa tròn ba mươi năm mới được gặp lại, chỉ có một người chết là ông anh rể có cửa hàng lớn ở Hải Phòng, còn vẫn đủ mặt. Ông bố đã là một ông lão tóc bạc phơ, đi đứng lòng khòng với cây gậy trong tay, nói năng ngập ngừng và cái nhìn đầy lo sợ. Ông đã hiện ra trước mắt đứa con vừa trở về như một người thất bại hoàn toàn. Các bà chị đã già đi nhưng vẫn sống túm tụm với nhau trong một ngôi nhà như xưa kia, vì chả có ai xuất giá cả, hay nói như chị Ðại "chả có ma nào chịu rước đi cho". Lần này xa nhau thấm thoát đã tròn hai chục năm, tuy cùng ở một thành phố, mỗi nhà đều có điện thoại, chỉ cần nhấc ống nghe lên và bấm số, mà vẫn không được biết tin tức của nhau. Hắn biết chắc sẽ không có cơ hội gặp lại vì nghe nói mẹ già của hắn đã buộc các con phải lập lời thề, mãi mãi không được nhìn nhận lại cái chi thứ đã bị tách ra. Việc gì phải thề, các anh chị hắn và cả hắn đều đã ở tuổi trong ngoài bảy mươi cả, còn sống được bao lâu mà sợ phải gặp lại. Trong số họ chỉ có hai người là có con, một dòng ở Pháp, một dòng ở Mỹ, đã thành công dân của các nước sở tại, đến đất nước của ông bà chưa hẳn chúng đã nhớ còn nhớ làm sao những người chúng chưa từng nghe nói, chưa từng gặp mặt. Cuộc chia ly vĩnh viễn này đã khiến hắn buồn lắm, càng có tuổi nghĩ càng buồn, cái cạn nghĩ của một người đàn bà đã làm đứt rời hai khúc ruột, khúc trên khúc dưới, thì cái dòng họ ấy còn có ra gì.