Xem bài viết đơn
  #2  
Old 01-05-2008, 03:07 PM
than_long_vn's Avatar
than_long_vn than_long_vn is offline
Tiếp Nhập Ma Đạo
 
Tham gia: Apr 2008
Bài gởi: 429
Thời gian online: 2036624
Xu: 0
Thanks: 2
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hồi 4

Dương châu xuất ác nhân
Nam kinh hồng diện tử

Bọn họ rút lui thì đám giang hồ áo vải hai phủ Hứa Xương, Từ Châu cũng đi theo. Thế là mọi người ùa cả ra, chẳng còn sót lại một mống nào. Đại hội Chiêu Anh tan nát.
Đào Hoa cung chủ giận điên người nhưng đang thọ thương nên chẳng dám sính cường, lão nuốt giận đi vào trong trị thương. Đã có kế hoạch từ trước, Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ đưa hơn trăm cao thủ hai phủ về nơi trú ngụ. Còn Sơn Đông Tử Phòng dẫn bọn Hỏa chân nhân đến một toà sơn trang rất kín đáo cách Đào Hoa cung mười hai dặm.
Sau ba ngày phục dược, Chính Lan hồi tỉnh, mỉm cười:
- Mạng ta rất lớn, chẳng thể chết được đâu, các nàng đừng khóc nữa.
Hỏa chân nhân cằn nhằn:
- Nếu phút chót ngươi không dùng Qui Tức Bảo Tâm Đại Pháp phong bế kinh mạch toàn thân thì giờ đây đã ra ma rồi. Thang Chí Quân đã luyện Huyết Ảnh Ma Công đến mức chót, lại thêm Đào Hoa Mê Hồn chưởng rất độc địa, nếu là bần đạo cũng không đỡ nổi.
Chính Lan gượng cười:
- Tiểu tế đã có một kỳ nhân như thúc phụ ở bên cạnh, lẽ nào lại chết được?
Hỏa chân nhân khoan khoái trong lòng nhưng ngoài mặt giả vờ trách móc:
- Đừng nịnh hót cho uổng công. Bần đạo chẳng phải một lão già nhẹ dạ đâu.
Tử Quỳnh giận dữ nói:
- Cũng vì thúc phụ và Tố Bình biểu muội mà mới ra cớ sự này. Chính Lan mà có mệnh hệ gì, điệt nữ sẽ bắt đền thúc phụ đấy.
Tây Môn Nhỉ chỉ có hai anh em nên rất thương yêu cô cháu gái mồ côi này. Lão cười hề hề đáp:
- Chính Lan đã chết đâu mà tiểu nha đầu đã ăn vạ. Gã còn phải cảm ơn ta đã se duyên cho gã với Kính Hồ Tiên Cơ nữa đấy.
Ba nữ lang nhìn lão với ánh mắt sắc như dao. Chu Thục Nghi dấm dẳng:
- Chân nhân nhắc đến việc ấy chỉ khiến bọn tiện nữ thêm lộn ruột.
Kính Hồ Tiên Cơ run rẩy nói:
- Nếu ba vị không dung nạp, Uyển Như tôi chẳng dám van xin.
Nàng quì xuống bên giường, nắm tay Chính Lan nghẹn ngào:
- Tiện thiếp thân phận bọt bèo, chẳng dám chung thuyền với họ. Xin vĩnh biệt tướng công, trở về Tô Châu với song thân, mong chàng bảo trọng.
Chính Lan mỉm cười thê lương:
- Nếu nàng không xứng đáng làm vợ ta, thì ta cũng chẳng xứng đáng làm chồng của ba mỹnhân ấy.
Dứt lời, uất khí công tâm, chàng hộc ra một vòi máu rồi chết lịm. Các nàng kinh hãi khóc ròng, xúm đến lay gọi. Hỏa chân nhân động nộ quát mắng:
- Đúng là một lũ đàn bà lòng dạ hẹp hòi, ba vợ hay năm vợ thì nào có khác gì nhau? Mau xê ra cho ta cứu tỉnh Chính Lan.
Bốn nàng vội tránh sang bên, đứng sụt sùi. Chỉ riêng Tiểu Linh Thố hiểu ý phụ thân. Chân Nhân đã quyết chí chọn Chính Lan làm rể nên mới nói thế. Ba cộng một bằng bốn, lão nói năm là có ý nhét nàng vào. Tây Môn Tố Bình thoáng đỏ mặt nhưng lòng rất sung sướng. Tây Môn Nhỉ xoa bóp huyệt đạo một lúc thì Chính Lan tỉnh lại. Chàng chua chát hỏi Uyển Như:
- Nàng vẫn chưa đi sao?
Trại Tây Thi vội nói:
- Bọn thiếp đều yêu mến Tiêu đại thư, đâu thể để nàng đi được. Lúc nãy Chu hiền muội chỉ muốn đùa cợt chân nhân, không ngờ Tiêu đại thư lại hiểu lầm.
Chu Thục Nghi cũng tỏ vẻ hối lỗi:
- Biểu ca, tiểu muội thề sẽ không ghen nữa.
Chính Lan hài lòng bảo:
- Nay cửu phụ đã gả nàng cho ta, chẳng lẽ không gọi được một tiếng tướng công.
Thục Nghi sung sướng và hổ thẹn chẳng nói lên lời. Tử Quỳnh ôm Kính Hồ Tiên Cơ thủ thỉ:
- Tiểu thư ở lại đây với bọn tiểu muội, chuyện quá khứ cứ xem như gió thoảng. Tướng công là bậc anh hùng cái thế, lòng dạ công minh tất chẳng để ai phải thiệt thòi đâu.
Cuối tháng năm, trong lúc Chính Lan đang dưỡng thương và vui vầy với võ lâm tứ đại mỹ nhân ở Hoàng Cúc lâu, thì thanh danh chàng đã vang dội võ lâm. Cuộc tử chiến của chàng với Đào Hoa cung chủ đã trở thành đầu đề hấp dẫn nhất trong các toà trà lâu, tửu quán. Ai nấy đều tôn xưng Âu Dương Chính Lan, cho rằng chàng còn trẻ tuổi võ công tiến bộ từng ngày nên chắc chắn năm sau sẽ đả bại được Đào Hoa cung chủ.
Chàng trở thành thần tượng cho lớp hào kiệt trẻ tuổi. Sự say mê của họ dành cho chàng đã đưa đến hiện tượng. Trên giang hồ xuất hiện rất nhiều những chàng thư sinh áo vải thô, mặt mũi hiền lành, mắt nheo nheo bí ẩn. Họ cố gắng bắt chước y hệt tác phong và cử chỉ của Chính Lan, đến nỗi có người còn luôn đem theo bên cạnh bốn thiếu nữ ăn mặc hệt như tứ đại mỹ nhân.
Thực sự thì giới trẻ có căn cứ để ái mộ Hồng Nhất Điểm đến điên cuồng như vậy. Thứ nhất, chàng không quá đẹp trai, cũng trung bình như phần lớn bọn họ. Thứ hai, chàng luôn mặc áo vải, chứng tỏ xuất thân từ giới nghèo khó. Thứ ba, chàng đã phá vỡ thành kiến của giới võ lâm là người già luôn có bản lĩnh cao cường hơn lớp trẻ. Chính Lan mới hai mươi sáu mà bình thủ với Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân, thì họ cũng có thể so tài với các bậc tiền bối khác. Nhưng họ cũng tự hiểu rằng phải khổ công rèn luyện, do đó, giới trẻ đua nhau học hỏi, chẳng hề dám biếng nhác.
Chưởng môn các phái và bô lão võ lâm hoan hỉ trước sự chấn hưng võ học bất ngờ này, họ thầm biết ơn Chính Lan và ra sức dạy dỗ đệ tử.
Nhưng có một người ghét cay ghét đắng những ai mặc trường bào thư sinh bằng vải thô. Bây giờ Dương Châu công tử Phó Duy Khang đã biết mình bị cha con Hỏa chân nhân lường gạt, tặng vợ cho đại sát tinh Âu Dương Chính Lan.
Chuyện này đồn đến Dương Châu khiến họ Phó vô cùng nhục nhã. Phó Duy Khang chẳng dám bước chân đến những chỗ đông người, chỉ sợ biến thành trò cười cho thiên hạ.
Hơn nữa, gã còn bị song thân mắng chửi thậm tệ, bắt phải ở nhà thuốc thang tịnh dưỡng, bồi tinh cố thận để Phó gia có người nối dõi tông đường. Phó Duy Khang có đến cả chục nàng tỳ thiếp hơ hớ xuân xanh, thế mà chẳng ai chịu sanh dùm gã một đứa con.
Trưa nay, Phó Duy Khang ngồi một mình trong thư phòng, nhâm nhi chén rượu Thiệu Hưng. Gã bỗng phát giác ra mình nhớ Kính Hồ Tiên Cơ vô vàn. Khi nàng ở bên cạnh, thì gã chẳng hề yêu quí, nay mất rồi mới biết tiếc thương. Dẫu sao, hình bóng của người đàn bà xinh đẹp tuyệt trần ấy đã in sâu trong tâm hồn gã.
Lại thêm tự ái của một nam nhân khi nghĩ đến cảnh vợ mình ái ân với kẻ khác, lòng gã sôi sục căm thù Chính Lan và cha con Hỏa chân nhân. Nhưng họ đều là những tay chọc trời khuấy nước, làm sao gã dám động đến họ?
Duy Khang đang gặm nhấm nỗi đau thì một tỳ nữ vào báo rằng Phó lão gia cho gọi. Gã lật đật lên ngay khách sảnh. Ngoài Phó tuần phủ, còn có một lão nhân lạ mặt nữa, ông ta tuổi tác độ thất tuần, mặc y phục lang trung, nhưng đôi mắt lại uy nghiêm đến khiếp người.
Phó lão gia hớn hở giới thiệu:
- Hà tiên sinh đây là danh y đất Hồ Nam, thân quyến của Hà viên ngoại trong thành này. Tiên sinh đến thăm Hà lão nhị, có nghe được bệnh tình của Khang nhi nên đến đây để ra tay diệu thủ. Tiên sinh bảo đảm rằng chỉ sau hai tháng, ngươi sẽ tráng kiện như xưa và có con dễ dàng.
Phó Duy Khang cười mát:
- Hài nhi đã chạy chữa biết bao nhiêu thần y mà có khỏi đâu? Chỉ sợ Hà tiên sinh đây cũng uổng công thôi.
Gã vừa nói vừa nhìn lão lang trung kia với vẻ diễu cợt. Bất chợt, đôi mắt của họ Hà sáng rực lên như điện, Duy Khang chấn động tâm thần, chân tay bủn rủn. Gã biết ngay lão này nội công rất thâm hậu và đầy tà khí. Hà đại phu quay sang nói với Phó lão gia:
- Xin đại nhân để lão phu thuyết phục lệnh lang.
Phó Vi Quân hiểu ý, bỏ vào trong. Chờ lão đi khuất xa, Hà đại phu nghiêm giọng:
- Lão phu là Hà Đăng Long đến đây không phải chỉ vì chuyện chữa bệnh cho ngươi, mà còn muốn biến ngươi thành cao thủ số một võ lâm, đủ sức tiêu diệt Hồng Nhất Điểm. Nếu ngươi đủ hùng tâm tráng trí, lão phu cũng có thể đưa ngươi lên làm minh chủ võ lâm.
Dứt lời, lão chứng minh khả năng của mình bằng cách đâm ngón tay trỏ xuống mặt bàn làm bằng danh mộc dày nửa gang tay. Ngón tay lão đỏ rực như chiếc dùi sắt nung, xuyên qua mặt gỗ rất nhẹ nhàng. Duy Khang vừa sợ vừa mừng, gã hoan hỉ nói:
- Nếu tiên sinh thực dạ tài bồi, vãn bối xin khổ công rèn luyện.
Gã bỗng ấp úng:
- Nhưng chỉ sợ thời gian học võ quá lâu, Âu Dương Chính Lan bị Đào Hoa cung chủ giết mất còn đâu?
Hà lão cười nhạt:
- Theo lão phu phán đoán, Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân không đủ sức để giết chết Chính Lan. Hơn nữa, lão phu sẽ đem mười viên thiên niên Tuyết Liên thần đan ra giúp ngươi tăng gấp đôi công lực trong vòng tám tháng. Còn kiếm pháp thì chỉ cần luyện ba chiêu cũng đủ lấy mạng Âu Dương tiểu tử.
Dương Châu công tử chẳng phải kẻ dốt nát, gã mỉm cười hỏi lại:
- Vì sao tiên sinh thù ghét Hồng Nhất Điểm mà không tự tay giết gã, lại cần đến vãn bối?
Hà Đăng Long cười nhạt:
- Năm xưa lão phu bị Hoàng Hạc Tú Sĩ đả bại, bắt lập trọng thệ là suốt đời không được giết người. Chính vì vậy lão phu mới phải mượn tay ngươi. Hãy suy nghĩ, chẳng lẽ ngươi lại muốn suốt đời là một kẻ bị nữ nhân chê bỏ, và là một kiếm thủ bậc trung? Hà Đăng Long này thề có hoàng thiên chứng giám, không hề có ý hại ngươi vì lợi ích của mình.
Phó Duy Khang nghe lão thề thốt, yên tâm bái sư:
- Đồ nhi ra mắt ân sư.
Gã dập đầu lạy chín lạy cho đủ lễ.
Từ đó, Hà đại phu ở lại Phó gia trang, ngày đêm dạy dỗ Duy Khang, cho gã uống những viên linh đan quí giá và vô cùng thần diệu. Chỉ sau nửa tháng, Phó công tử đã lấy lại phong độ của một nam nhân kiên dũng trong phòng the. Đám tỳ thiếp hết lời khen ngợi khiến Duy Khang càng tin phục Hà sư phụ.
Trước đây, Dương Châu công tử học nghệ của Thanh Nhàn đạo trưởng ở đạo quán cạnh Kính hồ. Cách đây năm năm, đạo trưởng đã qui tiên. Thanh Nhàn là cao thủ phái Võ Đang nên kiếm pháp của Duy Khang khá linh diệu. Hà Đăng Long bổ quyết những thiếu sót trong sở học của họ Phó, và dạy thêm cho gã ba chiêu sát thủ cùng một bộ pháp vô cùng quỉ dị.
Duy Khang có căn cơ khá tốt, nay gặp minh sư nên tiến bộ rất nhanh. Gã tin tưởng Hà Đăng Long nên uống hết mười viên linh đan màu trắng kia trong vòng có ba tháng. Kỳ diệu hơn nữa là có đến bốn ả tỳ thiếp cấn thai.
Tin mừng nay khiến Phó gia trang vui như mở hội. Phó tuần phủ liền bái họ Hà làm nghĩa huynh.
Đầu tháng chín, Hà đại phu bảo Duy Khang:
- Giờ đây Khang nhi đã có trong người bốn mươi năm công lực, với sở học bản thân cũng đủ ngạo thị giang hồ. Cộng thêm Quỉ Ảnh Thần Bộ và ba chiêu Diêm La Tam Thức, ngươi thừa sức giết Chính Lan. Tuy nhiên, ngươi hãy khoan đụng đến gã mà cứ tung hoành ngang dọc vài tháng, dương danh thiên hạ và thu thập kinh nghiệm chiến đấu. Sau đó hãy khiêu chiến với Hồng Nhất Điểm.
Phó Duy Khang mang bản chất tiểu nhân nên nghe nói đến thanh danh là khoái chí. Hơn nữa, rời khỏi Dương Châu, gã tha hồ nếm mùi khoái lạc, với bản lãnh hiện nay muốn ai mà chả được?
Hôm sau, Hà Đăng Long xin phép Phó tuần phủ để đưa Phó Duy Khang đi Thiểm Tây thăm mộ tổ sư. Phó Vi Quân đã có bốn bào thai đầy hứa hẹn nên mặc kệ Duy Khang muốn đi đâu cũng được. Phó lão gia đưa lệ phí rất hậu.
Nhưng thực ra, Duy Khang còn lén vét thêm hơn vạn lượng để tiêu xài cho thỏa chí. Vừa rời khỏi Dương Châu, Hà đại phu đã chia tay với đồ đệ. Lão hẹn Duy Khang rằng sẽ hội ngộ đúng trưa ngày rằm tháng mười một ở chân núi Võ Đang.
* * *
Dương Châu công tử cũng chẳng cần biết sư phụ mình đi đâu, gã hăm hở phi ngựa về hướng Nam Kinh. Ở chốn ấy, gã vừa có thể dương danh thần kiếm vừa có thể vui say với đám kỹ nữ xinh đẹp tuyệt trần. Nghe nói gần đây mới xuất hiện một vị cô nương tên gọi Hồng Ỷ Vân, nhan sắc phi phàm, cầm kỳ thi họa làu thông và thủ thuật phòng the vô cùng tinh xảo.
Phụ nữ Trung Hoa thời cổ bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe, hạn chế từ nụ cười, lời nói, dáng đi. Ngay cả trong chuyện gối chăn cũng chẳng dám biểu lộ hết nhiệt tình, vì sợ trượng phu cho là dâm đãng. Còn các đấng nam nhi lại được dạy rằng “vạn ác dâm vi thủ” nên đạo mạo, nghiêm trang ngay lúc gần gũi thê thiếp. Xem ra chỉ có đám người nghèo khổ, bình dân và giới hào khách võ lâm là sảng khoái, tận tình hưởng lạc trời cho.
Nhưng tất nhiên vợ nhà chẳng thể sánh với những nàng kỹ nữ lão luyện phấn son. Họ là hạng người bị xem là ti tiện trong xã hội, chẳng hề được giáo hoá. Họ lại sống bằng cách buôn bán xác thân nên phải luôn trau chuốt tay nghề để món hàng thêm hấp dẫn. Những lạc thú mà họ đem lại cho khách làng chơi vượt hẳn những gì mà các bà vợ ban cho chồng. Ở chốn yên hoa, ái ân, hành lạc được nâng lên thành một nghệ thuật hẳn hoi. Bảo sao các đấng trượng phu đã có vợ đẹp ở nhà mà vẫn lén lút mò đến kỹ viện? Và bảo sao các tay chơi lắm tiền lại chuộc vài nàng ra khỏi thanh lâu, đem về làm thiếp.
Từ thời Xuân Thu ở nước Tề, Quản Trọng đã xem thanh lâu như một ngành kinh tế đầy lợi nhuận cho triều đình. Ông ra qui chế tổ chức ngành mại dâm thành hệ thống, hàng năm thu được số thuế rất lớn. Chữ “thanh lâu” xuất phát từ thời ấy, các kỹ viện đều phải sơn hoặc quét vôi màu xanh.
Thực ra, do hệ thống kỹ viện được công khai và rộng khắp nên thời xưa nạn cưỡng dâm rất ít xảy ra. Thứ hai, chính các nàng kỹ nữ đã là những người đi tiên phong trong ngành y phục, thời trang của Trung Hoa cổ. Có những nàng danh kỹ một đêm kiếm được cả ngàn lượng bạc. Vì vậy họ có thể phóng tay tiêu xài, sắm sửa. Hầu như những kiểu trang phục mới nhất đều xuất phát từ bọn kỹ nữ ở Kinh Đô, sau đó lan đi khắp nước. Oái oăm thay, các hoàng hoa khuê nữ hay khuê trung tiết phụ lại hân hoan đón nhận những kiểu xiêm y của đám gái lầu xanh. Có thể là do họ chưa từng đến kỹ viện nên không phát giác ra sự thực đắng cay ấy.
Mặt tích cực khác của giới kỹ nữ là họ đã có công phát triển và làm phong phú nghề ca hát, ngâm vịnh trong văn hóa Trung Hoa. Song song với âm nhạc cung đình, âm nhạc dân gian tồn tại và lớn mạnh thông qua các kỹ nữ, ca nhi. Thường thường, các kỹ nữ đều biết đàn hát. Lời của những bài hát lại sử dụng nguyên liệu là những bài từ của các thi hào như Tô Đông Pha, Tần Quán, Trương Phòng, Lạc Du, Liễu Vịnh…
Đặc biệt nhất là Liễu Vịnh thời Tống. Ông rất giỏi về từ lại sành âm luật nên bọn nhạc công ở giáo phường mỗi khi có từ khúc mới tất phải tìm đến nhờ ông phổ nhạc, rồi mới đàn ca được. Tác phẩm của Liễu Trường Khanh phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có giếng nước là dân nơi đó biết hát những bài từ của Liễu Vịnh.
Cuối đời, không được Tống Nhân Tông trọng dụng, Liễu Vịnh sa đà vào cảnh giang hồ, ngày tháng lê la nơi ca lâu, tửu quán. Cuối đời về già rất khốn khổ, tiêu điều, đến nỗi khi ông chết chính đám kỹ nữ phải bỏ tiền và đứng ra mai táng. Thanh minh hàng năm cũng chỉ đám kỹ nữ đi viếng mộ.
Tóm lại, khách phong lưu đến lầu xanh vừa được hưởng thú vui xác thịt, vừa được thư thái tâm hồn bởi lời ca tiếng nhạc.Vì vậy, chúng ta cũng chẳng nên trách Dương Châu công tử là người quá say mê thú yên hoa.
Chỉ bốn ngày sau Phó Duy Khang đã có mặt ở Nam Kinh, trước gọi là Kim Lăng, hay Ứng Thiên phủ. Tất nhiên gã trọ trong khách điếm sang trọng nhất thành, và chiều hôm ấy đã mò ngay đến Lưu Hương viện.
Chỉ trong mười ngày, Phó Duy Khang đã nổi danh khắp Nam Kinh, trở thành nhân vật đệ nhất phong lưu. Không những gã anh tuấn, hào phóng mà còn là đại cao thủ trong chuyện phòng the. Danh kỹ khắp thành ái mộ gã như điếu đổ, đua nhau mời mọc. Hậu quả là họ Phó tiêu sạch hơn hai vạn lượng bạch ngân. Gã bèn đem công lão dạy dỗ tài bồi của Hà đại phu sử dụng vào việc trộm cướp. Chỉ trong một đêm, Dương Châu công tử viếng thăm ba nhà đại phú vùng phụ cận Nam Kinh, gom được hơn ngàn lượng vàng.
Đương nhiên gã đã phải giết tám mạng người, trong đó có một lão già mặt đỏ, võ nghệ cao cường. Duy Khang phải dùng đến chiêu Diêm Vương Nhất Thức mới hạ được lão ta.
Lúc đầu, Dương Châu công tử cũng có ý định gieo vạ cho Hồng Nhất Điểm Âu Dương Chính Lan. Nhưng giờ đây gã đang hạnh phúc trong vòng tay bọn danh kỹ nên chẳng còn nhớ đến Kính Hồ Tiên Cơ nữa, do đó mối hận Chính Lan cũng vơi đi. Thứ hai, gã thầm ngán sợ oai danh lừng lẫy của đại sát tinh Hồng Nhất Điểm, nên không muốn chàng đến truy tầm. Phó Duy Khang đủ thông minh để hiểu rằng việc học võ đâu chỉ vài tháng là đủ biến thành vô địch. Nói chung, Phó Duy Khang chỉ muốn được yên thân lăn lóc phấn son.
Nhưng gã không biết rằng mình đã phạm sai lầm khi giết lão già mặt đỏ kia. Dương Châu công tử chẳng phải là cường đạo chuyên nghiệp nên không hề điều tra lai lịch khổ chủ. Gã thấy nơi nào nhà cửa nguy nga, lộng lẫy là vào thôi. Vì vậy, gã không biết lão già mặt đỏ hôm trước là Hồng Diện Tài Thần, bằng hữu thâm giao của chưởng môn các phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Cái bang...
Hồng Diện Tài Thần Quí Thừa Khải còn là ân nhân của vô số hảo hán giang hồ. Võ công của ông rất cao siêu nhưng tính tình rộng rãi, trượng nghĩa, luôn hào phóng với đồng đạo. Đặc biệt, họ Quí còn là kết bái huynh đệ với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Vì vậy, cái chết của tài thần khiến cả võ lâm phẫn nộ. Hàng ngàn cao thủ đổ xô đến Nam Kinh để dự đám tang và điều tra tung tích hung thủ.
* * *
Trước đó, Hoàng Cúc lâu tràn đầy hoan lạc. Chính Lan đã hoàn toàn bình phục và luyện thử chiêu thứ nhất trong ba chiêu kiếm do Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng để lại trong kho tàng Nam Tống.
Chiêu này có tên Thiên Lý Trùng Hồng(2)cực kỳ bác tạp và uyên áo. Dẫu thông minh tuyệt thế, Chính Lan cũng phải mất đến ba tháng vẫn chưa đạt đến mức tùy tâm nhi phát. Đồng thời, chàng cũng đem pho khinh công Hoàng Hạc Khinh Vân và Thái Chân kiếm pháp ra dạy cho các nữ nhân. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình thản nhiên tham gia, cùng rèn luyện với các đại thư. Họ đều yêu thương, tôn kính Chính Lan nên hết lòng rèn luyện chẳng dám xao nhãng một ngày. Nhờ vậy, bản lãnh tăng tiến rõ rệt. Hỏa chân nhân càng gẫn gũi Chính Lan, càng mến yêu chàng hơn. Lão định mở miệng gả ái nữ cho chàng, nhưng Tố Bình không cho. Nàng có tự ái và tin rằng ngày nào đó Chính Lan sẽ yêu mình.
Tháng chín đến mang theo hơi thu và cúc trong vườn nở rộ. Cả nhà bày tiệc trên lầu để thưởng hoa nhân ngày tiết trùng dương chín tháng chín. Ngẫu nhiên, trong hàng ngàn đóa hoa cúc vàng rực kia có một đóa bạch cúc lẻ loi.
Hoàn cảnh năm nay chẳng khác gì mấy trăm năm trước, Hỏa chân nhân chẳng bỏ qua cơ hội, vuốt râu ngâm nga bài “Trùng Dương tịch thượng phú bạch cúc”(3)của đại thi hào Bạch Cư Dị đời Đường.
“Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
Trang hữu cô tùng sắc tự sương.
Hoàn tự kim tiên ca tửu tịnh,
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.”(4)
Năm mỹ nhân vỗ tay hoan hô nhiệt liệt dù giọng Tây Môn Nhỉ khàn khàn, khê đặc, chẳng hay ho chút nào cả. Lão đang đắc ý bỗng thấy tam ngốc Hồ Phùng Tường phá lên cười ngặt nghẽo.
Chân Nhân cả giận mắng:
- Bần đạo chọn được bài thơ hợp tình hợp cảnh như vậy sao ngươi lại cười?
Tam ngốc vẫn cười hô hố, chỉ lên đầu Tây Môn Nhỉ:
- Tóc của chân nhân đỏ quạch như râu bắp chứ đâu có bạc mà đem so với cúc trắng.
Cả nhà ôm bụng cười theo. Hỏa chân nhân ngượng nghịu nói:
- Đúng rồi, bần đạo quên mất điều ấy.
Tiểu Linh Thố chữa thẹn cho phụ thân, nói sang chuyện khác:
- Tỷ phu là người văn võ song toàn, xin hãy ngâm cho tiểu muội nghe một bài.
Bốn nàng kia cũng vui vẻ hối thúc Chính Lan. Chàng mỉm cười ngâm bài từ Túy Hoa Âm của Dị An nữ sĩ Lý Thanh Chiếu, thời Nam Tống:
“Bạc vụ hồng vân sầu vĩnh thú
Thụy não phần kim thú
Giai tiết hựu Trùng Dương
Ngọc chẩn sa thú
Tạc dạ lương sơn tụ
Đồng ly bá tửu hoàng hôn hậu
Hữu ám hương doanh tụ
Mạc đạo bất tiêu hồn
Liêm quyện tây phong
Nhân tỷ hoàng hoa sấn.”(5)
Giọng chàng trầm ấm, có đôi chút thê thiết của gió thu nên diễn tả được hết tình ý của người đàn bà cô quạnh. Tất nhiên ai nấy khen hay. Lần này đến phiên nhị ngốc Hồ Giả trổ tài bình thơ. Gã đặng hắng rồi nói với vẻ sành sỏi:
- Tiểu đệ biết đại ca có ý tặng bài từ này cho Tố Bình cô nương vì chỉ mình nàng là cô đơn lạnh lẽo. Nhưng theo thiển ý của tiểu đệ thì ta nên sửa lại vài chỗ trong câu cuối.
Mọi người hiếu kỳ lắng nghe. Nhị ngốc chẳng chịu nói ngay, nhấp hớp rượu ngon khề khà. Đại ngốc bực bội nhắc:
- Sao ngươi không nói quách ra đi.
Hồ Giả nghiêm trang phân tích:
- Một nhánh hoa cúc thì gầy nhưng cả bụi thì lại khác. Để khỏi gây hiểu lầm, tiểu đệ đề nghị sửa câu cuối thành “Người gầy như con mắm.”
Gã vừa nói xong thì cả bọn ôm bụng cười ngất, không sao nín được. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình vừa dứt trận cười đã hất nguyên đĩa xào vào mặt nhị ngốc. Nàng hầm hầm quát:
- Bổn cô nương xinh đẹp thế này mà ngươi dám gọi là con mắm sao?
Hồ Giả sợ quá, tung mình nhảy xuống lầu, bỏ chạy mất. Tiệc rượu cũng đến lúc tàn. Chính Lan cho gọi ba gã ngốc ra vườn kiểm tra thành tựu khinh công. Chúng luyện đao pháp nên chẳng thể học kiếm thuật của chàng. Chính Lan chỉ dạy chúng khinh công, nếu thân pháp linh diệu nhanh nhẹn thì đao pháp cũng nhờ đó mà thêm lợi hại.
Ngay sáng hôm sau, Chính Lan cử Hán Trung Tam Ngốc Hiệp đi Tô Châu. Chúng có nhiệm vụ mang thư của Kính Hồ Tiên Cơ về cho song thân. Biết gia đình họ Tiêu sa sút, chàng gởi tặng ngân phiếu năm trăm lượng vàng. Ba gã ngốc hí hứng lên đường định bụng sẽ không bỏ qua cơ hội ghé thăm các thanh lâu lừng danh của đất Giang Nam. Chúng đi được bảy ngày thì Hoàng Cúc lâu nhận được tin Hồng Diện Tài Thần bị cường đạo hạ sát. Tây Môn Nhỉ đau lòng, lồng lộn như hổ dữ:
- Trời cao không có mắt nên mới để cho một đại thiện nhân như Quí lão đệ phải chết thảm như vậy. Bần đạo sẽ tìm cho ra tên hung thủ khốn kiếp ấy, nhét vào miệng hắn một trái Đảo Thiên thần đạn.
Chính Lan đọc kỹ phong thư của Quí Thành Lâm, nam tử tài thần, rồi ôn tồn nói:
- Thúc phụ, bản lãnh của Quí lão gia thế nào?
Tây Môn Nhỉ thẫn thờ đáp:
- Võ công y chỉ kém ta chừng một bậc.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Trong thư có nói rõ rằng chưa đến trăm chiêu hung thủ đã bất ngờ đâm chết Hồng Diện Tài Thần. Chiêu kiếm ấy cực kỳ quỉ dị và ác độc. Còn về tuổi tác, Quí công tử nhận định rằng hắn ta còn trẻ. Thúc phụ thử nghĩ xem trong võ lâm đương đại, có cao thủ tuổi tam thập nào đủ sức giết tài thần không?
Hỏa chân nhân cau mày suy nghĩ:
- Bần đạo nắm rõ tình hình võ lâm như lòng bàn tay, nên dám chắc rằng trừ ngươi, chẳng có ai làm nổi việc ấy.
Tiểu Linh Thố góp ý:
- Như vậy, một là Quí công tử đã đoán sai tuổi tác của hung thủ. Hai là có tay cao thủ thiếu niên nào đó gặp kỳ duyên nên võ công cao hơn tuổi tác?
Trại Tây Thi cũng thỏ thẻ:
- Theo ý thiếp, chúng ta phải đến Nam Kinh điều tra mới rõ chân tướng.
Chính Lan gật đầu tán thành.
Sáng mười tám, bảy con tuấn mã phi hết tốc lực về phía nam. Trên đường đi, các mỹ nhân mới nhận ra cách ăn mặc và phong thái của Âu Dương Chính Lan đã được giới trẻ ưa chuộng đến mức nào. Hoàng Hoa Ma Nữ vui vẻ nói:
- Tướng công! Chàng đã trở thành thần tượng của đám hậu bối trong võ lâm rồi đấy.
Chàng cười đáp:
- Chỉ mong họ đừng bắt chước ta lấy đến bốn vợ là được rồi. Lúc ấy nam đa nữ thiểu tất sẽ xảy ra cảnh chém giết để tranh giành.

Hồi 5

Hồ nam thu dạ tầm bằng hữu
Kiểm nghiệm tà dương tróc cuồng đồ

Trưa hôm sau, bọn Chính Lan vừa sang đến bờ nam sông Hoài, đã bị chặn lại. Đó là một hán tử trung niên mặc áo đen. Người gã đẫm ướt mồ hôi và lem luốc cát bụi, chứng tỏ đã kiêm trình không nghỉ. Hán tử cố nén hơi thở dồn dập, kính cẩn hỏi:
- Phải chăng công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp?
Chính Lan gật đầu. Gã mừng rỡ nói tiếp:
- Tiểu nhân là Dạ Trung Báo Cát Tráng, thủ hạ của Hách đại ca, xin bái kiến đại hiệp.
Gã dừng lại lấy hơi:
- Bẩm đại hiệp, cách nay hơn mười ngày, Hách đại ca đột nhập vào Chữ gia trang ở Ngũ Linh Nguyên và đã bị bắt. Tiểu nhân theo lời dặn dò từ trước, định về Hoàng Cúc lâu bẩm báo, không ngờ lại gặp ở đây.
Chính Lan chấn động, lo lắng cho bằng hữu, hỏi lại gã:
- Hách đại hiệp có bị thương tích gì không?
Hán tử buồn rầu đáp:
- Đêm ấy Hách đại ca cùng tiểu nhân và một người nữa tiến vào Chữ gia trang. Không ngờ chúng có trạm canh ngầm dưới đất nên đã phát hiện ngay. Hách đại ca liều mạng đoạn hậu cho tiểu nhân đào thoát để báo tin cho công tử rõ.
Chính Lan cau mày:
- Phải chăng Hách huynh đã phát hiện quái sự nên mới tìm cách điều tra?
- Thưa phải! Sau mấy tháng kiên nhẫn mai phục, bọn tiểu nhân phát hiện một lão già có dung mạo rất giống bức họa đi vào Chữ gia trang. Hách đại ca đã đoán rằng nốt ruồi son kia chỉ là thủ thuật đánh lạc hướng của giới hắc đạo, nên đã quyết định đột nhập.
Chính Lan đã hiểu, chàng nghiêm nghị nói:
- Các hạ cứ tìm quán trọ nghỉ cho lại sức. Tại hạ sẽ đi ngay Hồ Nam để giải cứu Hách huynh. Nếu cần phải san bằng nơi ấy, tại hạ cũng chẳng từ nan.
Dạ Trung Báo mỉm cười:
- Tiểu nhân đã quen bôn ba ngàn dặm, chẳng hề thấy mệt mỏi gì cả. Xin được theo công tử trở về Ngũ Linh Nguyên. Không tận mắt nhìn thấy Hách đại ca được an toàn, Tráng này chẳng yên tâm.
Chính Lan thầm khen ngợi lòng trung nghĩa của Cát Tráng. Chàng quay sang nói với Hỏa chân nhân:
- Thúc phụ! Xin người đưa các nàng đi Nam Kinh trước. Xong việc ở Hồ Nam, tiểu tế sẽ đến ngay.
Năm nàng ấp úng đòi theo, Chính Lan bác ngay:
- Thủ hạ của Thiết Xuyên ở đấy còn rất nhiều, không cần các nàng trợ giúp. Hơn nữa, bọn ta sẽ đi cả ngày lẫn đêm, các nàng chẳng kham nổi đâu.
Tây Môn Nhỉ tán thành:
- Chính Lan nói đúng, bọn ngươi đi theo cũng chỉ vướng chân tay.
Lão trao cho Chính Lan một trái Đảo Thiên thần đạn đen bóng:
- Ngươi hãy cầm lấy bảo bối này mà đối phó với Chữ gia trang. Nếu chúng giết Thiết Xuyên thì cho chúng nếm mùi thần đạn.
Chính Lan mừng rỡ cảm tạ chân nhân rồi cùng Dạ Trung Báo đi ngay. Chàng nóng ruột, lo lắng cho Vô Nhân Kiếm Khách nên đi không ngơi nghỉ, vài trăm dặm lại thay một lần ngựa. Vì vậy, chiều ngày thứ năm đã qua ranh giới Hồ Nam.
Dạ Trung Báo lộ vẻ mệt mỏi nhưng Chính Lan vẫn thản nhiên, dù đã thức trắng bốn đêm.
Công phu Qui Tức Bảo Nguyên Đại Pháp là tuyệt học vô thượng của Thiên Trúc, đến Hoàng Hạc Tú Sĩ còn phải khâm phục. Vì vậy, ông bắt Chính Lan phải khổ luyện môn tâm pháp gia truyền này của dòng họ Âu Dương. Nhờ vậy, tuy suốt ngày ngồi trên mình ngựa thực ra cơ thể Chính Lan luôn có một nửa được nghỉ ngơi. Khi phong bế huyệt đạo và cảm giác toàn thân, chàng có thể nằm bất động hàng tháng mà vẫn khoẻ mạnh.
Dọc đường vẫn có những lúc dừng chân để người ngựa ăn uống. Chẳng bao giờ Chính Lan nhắm mắt trước Cát Tráng. Gã ngủ rồi chàng mới nghỉ ngơi, gã mở mắt thì chàng đã thức tự bao giờ.
Kể cả lúc nghỉ, đôi mắt Chính Lan cũng chỉ khép hờ. Người ngoài nhìn vào cũng sẽ nghĩ rằng chàng còn chưa nghỉ.
Sư phụ chàng, Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp, tự biết đã gây nhiều thù oán với bọn tà ma. Sau này Chính Lan xuất đạo sẽ bị chúng trút giận lên đầu. Do đó, ông ra sức đào luyện chàng trở thành một người luôn cảnh giác, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Thêm bốn ngày đêm nữa trôi qua, Chính Lan và Dạ Trung Báo chỉ còn cách vùng nói Ngũ Linh Nguyên hơn trăm dặm. Cát Tráng bảo chàng:
- Âu Dương công tử, chúng ta phải đi đường tắt mới mong bảo toàn được tung tích. Con đường mé hữu này cũng rộng rãi, dễ đi, nhưng vì xuyên qua những cánh rừng đầy hổ, báo nên ít người qua lại.
Chính Lan mỉm cười:
- Hổ báo thì không sao.
Hai người rẽ vào con đường ấy. Đi được mười dặm đã đến khu rừng già rậm rạp, xanh tươi nhờ mưa hạ.
Bỗng trước mặt vang lên những tiếng quát như sấm:
- Hồng Nhất Điểm đứng lại.
Chính câu nói kia đã cứu chàng thoát chết. Trừ phi được báo trước, chẳng ai có thể biết chàng sẽ đi đường này. Vừa lúc ấy, Dạ Trung Báo nhoài người vung hữu thủ cắm mũi tiểu đao xanh biếc vào lưng chàng. Chính Lan đã cảnh giác nên kịp rạp mình xuống lưng ngựa tránh đòn ám toán. Dẫu sao cũng hơi muộn, lưỡi đao tẩm độc rạch một đường nơi bả vai lưng trái. Chàng chéo tay giáng một chưởng vào ngực tên đê tiện. Gã rú lên thảm thiết, văng khỏi mình ngựa. Đám phục binh đã ùa ra chặn kín phía trước, cách đầu ngựa vài trượng. Tất nhiên phía sau cũng có.
Chính Lan nhận ra trước mặt đông đến ba, bốn chục tên cung thủ, và được thống lĩnh bởi bốn gã trong Tây Vực Bát Hung của Đào Hoa cung.
Chàng lại nghe vết thương ngứa ngáy, cảm giác tê dại lan dần, biết là có độc. Không một phút chần chừ, Chính Lan rút trái Đảo Thiên thần đạn, bấm mạnh vào nốt lồi trên đỉnh rồi ném liền. Thần đạn rơi vào giữa đội hình đối phương và phát ra tiếng nổ long trời lở đất. Máu thịt, cát đá văng tung toé, khói bụi mịt mù và vang dậy tiếng rên la thảm khốc.
Chính Lan thúc ngựa lao đến như bay, trường kiếm lăm lăm, sẵn sàng chém giết để mở đường. Nhưng không còn ai đủ sức và dũng khí để cản chân chàng. Đám phục binh phía sau cũng khiếp đảm, chẳng dám đuổi theo.
Chạy được vài dặm, Chính Lan rẽ vào đường mòn bên trái. Chàng xuống ngựa đuổi cho nó chạy tiếp vào rừng, còn mình thì trở ra, đi sang cánh rừng phía đối diện. Chính Lan vào sâu hơn dặm, thấy một cây thiết mộc rậm rạp, cao lớn chạng ba rộng rãi kín đáo liền tung mình lên trên ấy. Chàng uống vội ba viên linh đan vội rồi vận khí trục độc.
Hoàng Hạc Tú Sĩ không muốn đem một thân công lực hùng hậu vào lòng đất, nên đã kiên nhẫn dùng phép Án Ma Hóa Nguyên đại pháp, ngày ngày xoa bóp huyệt đạo, truyền chân khí cho Chính Lan. Trong suốt hơn mười một năm trời. Ông đã dồn được ba mươi năm tu vi cho vào cơ thể Chính Lan. Nhờ vậy, hiện nay, chàng có đến hơn bốn mươi năm công lực. Bản lãnh còn cao siêu hơn tú sĩ thời trai trẻ. Cũng vì thế mà Chính Lan đã luyện xong lớp thứ bảy của pho nội công Thái Chân Cương Khí. Trong võ lâm, ít ai biết Hoàng Hạc Tú Sĩ xuất thân tứ Đạo giáo. Ngũ Di Nghiệp học võ công của đạo gia, nhưng lại sống và hành hiệp theo tôn chỉ của Khổng giáo nên không hề mặc đạo bào.
Nhờ công ơn tài bồi của ân sư, Chính Lan mới có một tu vi vượt xa tuổi tác như hiện nay. Do đó, chàng đủ sức trục hết kỳ độc ra khỏi cơ thể.
Sau gần canh giờ, Chính Lan mở mắt xả công. Chàng nhíu mày suy nghĩ khá lâu và quyết định lên đường đi Chữ gia trang chứ không quay lại.
Chắc chắn Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên đã bị bắt nên đối phương mới biết họ Hách có một thủ hạ tên Dạ Trung Báo Cát Tráng, và cho người giả dạng.
Chính Lan xem Thiết Xuyên là bằng hữu của mình nên không thể không cứu. Còn như gã đã bị giết thì chàng sẽ báo thù. Hơn nữa, việc cao thủ Đào Hoa cung có mặt ở Hồ Nam chứng tỏ Chữ gia trang đã trở thành kẻ địch của chàng.
Chính Lan mở tay nải, lấy lương khô ăn cho thật no, tìm suối nước tắm rửa rồi thay y phục. Chàng thầm cám ơn Chu Thục Nghi đã bắt mình phải đem theo bộ trường bào xanh thẳm bằng gấm Hồ Châu.
Trường An đại mỹ nhân ỷ mình là biểu muội nên nhõng nhẽo hơn ba nàng kia. Nàng quen cảnh giàu sang nên muốn trượng phu mình được hưởng thụ như bao người khác. Thục Nghi bảo:
- Tướng công nói rằng giá trị của con người là ở cái tâm thiện lương, nhân phẩm chứ không phải do y phục. Vậy thì chàng có mặc áo gấm cũng chẳng hề gì. Trong khi bọn thiếp châu ngọc phủ thân, lụa là che gót, chàng khiêm tốn quá chỉ e không hợp cảnh, hợp tình.
Chính Lan sở đắc đạo Trung Dung nên mỉm cười không tranh cãi, vui vẻ mang theo những gì nàng muốn. Bậc đại trí chẳng bao giờ nên tranh cãi với mỹ nhân.
Ngay chiều hôm ấy Chính Lan đã có mặt ở trấn Vọng Sơn, cách Chữ gia trang ba dặm. Trấn này nằm ở mé đông vùng núi Ngũ Linh Nguyên. Chính Lan ghé vào một tửu quán ở đầu tây của trấn Vọng Sơn. Từ nơi này, chàng có thể ngắm cảnh hoàng hôn trên quần thể núi non hùng vĩ kia.
Trước lúc đến đây, chàng đã vào một tiệm trong trấn, nhờ lão thợ cạo sửa sang bộ râu lởm chởm của chín ngày dong ruổi. Chàng không cạo sạch mà chỉ tỉa tót cho gọn gàng lại. Nhờ vậy, bộ râu mép, râu quai nón xanh rậm kia đã biến chàng thành người xa lạ. Hơn nữa, cách trang phục của Chính Lan đã trở thành truyền thuyết nên chẳng ai ngờ rằng hán tử áo gấm này lại là Hồng Nhất Điểm thư sinh.
Chính Lan vào quán, chọn một bàn dưới mái tây hiên. Chàng quan sát thực khách, thầm tức cười khi thấy ngay cả nơi hoang vu này cũng có người ái mộ mình. Quả thực là có đến ba chàng kiếm sĩ trẻ tuổi đang ngồi một mình một bàn, phong thái ung dung, nhàn nhã, áo vải, mũ học trò đen, có cả tráp gỗ nhỏ. Cả ba đều trang nghiêm, trầm mặc, nhìn về phía cuối trời tây, thỉnh thoảng lại mỉm cười bí ẩn.
Chính Lan bất giác sinh lòng thương hại cho họ. Lịch sử Trung Hoa có biết bao nhiêu anh tài, nghĩa sĩ. Võ lâm cũng chẳng thiếu những bậc hào kiệt lẫy lừng, suốt đời bôn ba vì chính khí. Sao họ không bắt chước nhân cách mà lại bám víu lấy hình thức bên ngoài của một ngôi sao mới tỏa sáng. Chàng tự nhủ từ nay sẽ ăn mặc tùy tiện, vải hay lụa cũng được, có như vậy mới thức tỉnh được lòng say mê mù quáng của lớp đàn em.
Chính Lan ăn xong, nâng chén nhâm nhi, ngắm nhìn ráng chiều rơi trên đỉnh ba ngàn ngọn núi trước mặt.
Ngũ Linh Nguyên là thắng cảnh hùng vĩ nhất Hồ Nam và cả Trung Hoa. Nó có những vẻ đẹp riêng biệt mà Hoàng sơn hay Võ Di sơn không có. Vùng núi này rộng đến hơn ngàn dặm vuông, gần ba ngàn ngọn núi nhọn, hình thù đa dạng, mọc thẳng đứng. Giữa các ngọn núi là những suối nước chảy vòng quanh, trong mát hữu tình. Ngũ Linh Nguyên còn có nhiều thác và khoảng bốn mươi hai động. Đặc biệt nhất là hai cây cầu đá do tạo hóa làm nên, hình dáng cong đều rất đẹp.
Rừng rậm bao phủ gần hết diện tích vùng danh sơn này. Kỳ hoa dị thảo, thú quí sinh sôi nảy nở rất nhiều nhờ khí hậu ôn hòa, mùa hạ thì mát và đông thì ấm áp.
Chính Lan cũng từng được nghe Hoàng Hạc Tú Sĩ kể rằng Sơn Tây là chốn ẩn cư lý tưởng của rất nhiều kỳ nhân, dị sĩ. Đa số bọn họ là người theo đạo Lão Trang nên tìm đến nơi non xanh nước biếc, tĩnh lặng trong lành này mà tu tiên.
Khi hoàng hôn lịm tắt, Chính Lan rời tửu quán, tìm khách điếm nghỉ ngơi.
Cơn mưa thu lúc đầu canh hai càng khiến chàng yên tâm lên đường đến Chữ gia trang. Trời tối đen như mực và ướt át, lạnh lùng. Chính Lan nhờ nhãn lực tinh tường nên vẫn lướt đi như gió thoảng.
Chữ gia trang le lói ánh đèn và thỉnh thoảng vọng ra tiếng chó sủa. Chàng biết họ canh phòng cẩn mật và đang chuẩn bị đón tiếp.
Mục đích của Chính Lan là trước tiên phải cứu cho được Hách Thiết Xuyên, nếu gã còn sống. Vì vậy, chàng không thể bại lộ hành tung quá sớm. Chàng lăn mình dưới bùn nhão để đánh lừa khứu giác bọn chó săn, rồi tiến vào.
Chung quanh Chữ gia trang là một cánh rừng dày độ hai mươi trượng.
Trời mưa lớn, gió to khua động cành lá nên che giấu cho sự di chuyển của Chính Lan. Chàng nhanh nhẹn và linh họat như loài chim đêm, lao từ cànhnày sang cành khác, băng qua dải rừng cây. Chàng đã phát hiện tiếng động của bọn mai phục phía dưới, nhưng chúng lại chẳng thể ngờ rằng đối phương đang đi trên đầu mình. Cơn mưa lạnh giá đã khiến chúng co mình trong lớp áo tơi, run lên bần bật nên chẳng còn tinh tường nữa.
Vào đến chân tường xây, Chính Lan nghỉ ngơi một lát cho lại sức rồi dùng Bích Hổ Công bò lên bức tường cao hai trượng. Chàng nhô đầu nhìn vào trong, thấy bên kia tường là một vườn hoa nhỏ. Xa xa chừng hơn hai chục trượng là toà đại sảnh chính của Chữ gia trang.
Giờ đây, dưới mái hiên trước treo sáu chiếc đèn lồng, rọi sáng khoảng sân rộng. Cách thềm sảnh tám trượng là một chiếc lồng gỗ lớn, loại lồng thường dùng để nhốt thú dữ. Chính Lan căng mắt quan sát, kinh hãi nhận ra trong lồng có một người đang ngồi dựa góc. Thân hình gầy gò kia rất giống Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên.
Chính Lan nhìn lại chung quanh, phát giác trong những dãy nhà gần đấy đều có người mai phục. Chàng thở dài, hiểu rằng Chữ Công Sinh đã đem Thiết Xuyên ra làm mồi, nhử chàng vào bẫy.
Chính Lan nhảy vào trong, len lỏi qua những bụi hoa, ra đến tận bìa vườn. Chàng phục sau một lùm cây, căng óc suy nghĩ, cố tìm ra cách cứu Thiết Xuyên.
Đầu canh ba, cơn mưa tạnh hẳn. Một gã áo đen mở cửa sảnh, xua bầy chó ra ngoài. Sáu con hổ ngao to lớn và dữ tợn này còn lợi hại hơn hai chục võ sĩ.
Thính giác và khứu giác của chúng rất tinh tường, phát hiện được ngay những ai muốn đến gần lồng gỗ.
Dường như đã được huấn luyện chu đáo nên chúng lẩn quẩn quanh chỗ nhốt tù nhân. Chính Lan đành bó tay nằm im một chỗ, bất động như một xác chết. Mười hai năm khổ luyện trên núi Đại Tuyết sơn đã đem lại cho chàng một định lực rất thâm hậu. Nếu không có bầy chó, chàng sẵn sàng chờ đợi cho bọn mai phục mệt mỏi, thiếp đi rồi sẽ ra tay. Nhưng chó thì rất tỉnh ngủ.
Bỗng hai con hổ ngao lớn nhất rời bầy đi về phía vườn hoa. Một ý niệm lóe lên như sét giữa trời đêm. Chính Lan nắm chặt chuôi kiếm rồi giả tiếng chuột rúc rích. Hai con vật hoan hỉ tiến đến gần Chính Lan. Mùi bùn đã không cho phép chúng nhận ra đống lù lù kia là một con người, tò mò đi vào sâu hơn. Không bỏ lỡ cơ hội, khi mục tiêu đã vừa tầm tay, Chính Lan vung kiếm chém bay đầu hai con vật tội nghiệp. Nhờ vậy, chúng chết rất êm ái, chẳng hề sủa lên một lời trách móc.
Chính Lan kéo xác hai con hổ ngao vào sâu hơn nữa và rút tiểu kiếm ra. Chàng chặt phăng tám chiếc đùi, mổ bụng và cố lột bộ da ra khỏi khung xương.
Ngày còn học nghệ ở Tứ Xuyên, chàng thường đi săn thú để lấy thịt ăn và lột da bán, nên thủ pháp thiện nghệ không thua gì bọn đồ tể chuyên nghiệp.
Sau một canh giờ, Chính Lan đã có được hai bộ da chó, đương nhiên còn dính đầy máu và mỡ bên trong. Dẫu sao chàng cũng hài lòng khi khoác bộ da ấy vào người. Dưới ánh sáng nhá nhem yếu ớt này, bọn cung thủ chắc chắn sẽ không phân biệt được, và có lẽ lũ chó kia cũng vậy.
Tuy không chắc chắn lắm nhưng Chính Lan vẫn phải liều. Vì bằng hữu, chàng có thể làm tất cả.
Chính Lan bỏ trường kiếm lại trong vườn hoa, chậm chạp bò ra ngoài, chàng thầm van vái bốn con hổ ngao kia sẽ không sủa quá sớm.
Cuối cùng thì Chính Lan cũng bò được đến gần lồng gỗ. Mùi máu nồng nặc khiến bọn hổ ngao kia thắc mắc, đến gần đánh hơi và bắt đầu liếm láp những vết máu. Chính Lan vội nằm phục sát đất, bế khí bất động, mặc cho lũ chó làm gì thì làm.
Lát sau, bốn con vật chê mùi bùn nên trở về chỗ nằm. Chính Lan mừng như sống lại, thò tay qua khe lồng thăm mạch Thiết Xuyên. Mạch đập rất yếu nhưng họ Hách vẫn còn sống. Chính Lan điểm liền ba huyệt đạo, đề phòng Thiết Xuyên gây ra tiếng động không cần thiết, rồi rút tiểu kiếm cắt song gỗ.
Với bảy thành Thái Chân khí công và thanh kiếm nhỏ sắc bén tuyệt luân. Từng thanh gỗ đứt ngọt như đậu hũ. Chính Lan cắt ngay chỗ Thiết Xuyên đang dựa nên gã ngã ngửa ra ngoài lồng. Tất nhiên chàng đã chờ sẵn.
Trong giây lát, chàng đã chụp bộ da chó thứ hai vào người Thiết Xuyên. Xong xuôi, Chính Lan đặt gã nằm sấp xuống, rồi dùng tả thủ nâng ngực gã lên, mặc cho tay chân buông thỏng như tư thế đang bò.
Với hai chân và một tay còn lại, Chính Lan di chuyển về phía vườn hoa. Bọn hổ ngao kia dường như đã phát hiện quái sự nên bám theo ngửi mãi. Nhưng may thay chúng không sủa mà chỉ lo liếm máu của bộ da trên người Thiết Xuyên.
Chính bốn con chó tò mò kia đã che chắn cho bọn Chính Lan. Đám mai phục nhìn ra cũng chỉ tưởng là cả bầy chó đang kéo nhau đi. Còn may hơn nữa là khi đến gần vườn hoa thì lũ chó chán không theo nữa. Chính Lan thở phào, lột nhanh hai bộ da hôi hám ra khỏi cơ thể mình và Thiết Xuyên rồi lấy dây cột chặt gã vào lưng mình.
Với sức nặng của một người nữa chẳng thể nào ra bằng cách chuyền trên cây. Chàng đánh liều sử dụng đọan đường rải sỏi trắng rộng rãi kia.
Giờ đã gần cuối canh tư, chàng tin rằng bọn mai phục đều ngủ say. Hơn nữa, khinh công của chàng đã đạt đến mức đạp tuyết vô ngấn, chúng khó mà phát hiện được. Dẫu chúng có biết thì trong màn đêm tối tăm này cũng khó mà tập kích trúng mục tiêu. Khoảng cách hai mươi trượng đối với Chính Lan chỉ là vài bước nhảy.
Xuân rồi, gặp nhau ở Chu gia trang, Thiết Xuyên đã nói rõ là con đường này không hề có cạm bẫy. Tuy nhiên, Chính Lan vẫn thận trọng, vận hết nhãn lực quan sát. Chàng lướt đi êm ái còn hơn cánh dơi đêm, vài trượng lại phục xuống nghe ngóng.
Có lẽ do cơn mưa thu lạnh lẽo lúc tối đã ru chúng vào giấc ngủ, hoặc do chúng quá ỷ y vào đàn hổ ngao, nên Chính Lan thoát ra an toàn.
Cuối đường có chạm canh, chính là tòa tiểu đình bằng gỗ ở bên tả. Gã võ sĩ áo đen vẫn còn thức, ngồi trên ghế dựa, quay mặt ra ngoài. Gã chỉ chú ý đến kẻ ở bên ngoài vào nên không ngờ tử thần lại từ trong ra.
Chính Lan âm thầm lướt đến, xạ một đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào huyệt Não Hộ sau đầu gã. Tên hắc y rùng mình chết không kịp ngáp. Chính Lan đã kịp ập vào, đỡ lấy thân hình mềm nhũn kia, không cho rơi xuống đất.
Chàng ghé vào bìa rừng lấy tay nải rồi nhắm hướng đông lướt nhanh. Đến sáng thì chàng rời xa Chữ gia trang được năm chục dặm.
Lúc trưa, Chính Lan đã để ý đến một căn nông xá nằm lẻ loi giữa ruộng kê bên đường. Giờ đây, chàng chạy thẳng đến đây để xem tình trạng của Thiết Xuyên.
Chủ nhân của căn nhà tranh này là một lão già tuổi lục tuần chất phác. Lão đang nấu nước sau bếp, thấy có người đẩy cổng, vội chạy ra xem.
Mặt mũi, y phục của Chính Lan và Thiết Xuyên dính đầy máu chó và bùn đất nên trông rất kinh khiếp. Lão nông phu hồn phi phách tán, run lên cầm cập. Chính Lan chỉ mũi kiếm vào ngựa lão rồi nghiêm giọng:
- Ta có người bạn bị thương, cần nghỉ ngơi và chăm sóc. Lão mà mở miệng là hét thì đừng trách bổn sơn vương độc ác.
Lão ta nghe chàng tự xưng là cường đạo, vội gật đầu lia lịa, chắt tay vái dài:
- Đại vương yên tâm, tiểu nhân chẳng dám trái lệnh.
Thói đời thường như vậy, chẳng có gì là lạ cả. Nếu chàng nói năng mềm mỏng, không chừng lão còn chất vấn này kia và tỏ vẻ không vui. Nhưng bản năng cầu sinh sẽ khiến lão rất ngoan ngoãn phục vụ.
Quả thực vậy, Chính Lan vừa đặt Thiết Xuyên xuống chóng tre thì lão ta đã bưng nước nóng và khăn sạch lên.
Chính Lan cởi hết y phục nạn nhân, dùng khăn nhúng nước lau thật kỹ. Phải đến ba thau mới gọi là sạch sẽ.
Chàng thăm mạch và quan sát trước sau, nhận ra Thiết Xuyên bị cao thủ nào đó dùng chưởng lực âm nhu đả thương. Dấu ấn chưởng ấn chỉ hơi mờ mờ, chứng tỏ công lực của hung thủ rất cao cường. May thay, chàng cũng luyện âm công. Lão Trang chủ trương “nhu thắng cương, nhược thắng cường” nên tâm pháp nội công Thái Âm chân khí chính là bậc thượng thừa của mọi loại âm công.
Chính Lan nghiêm giọng bảo lão già:
- Giờ ta sẽ trị thương cho bằng hữu, lão hãy xuống bếp nấu cháo và không được quấy rầy. Xong việc, bổn sơn vương sẽ thưởng cho ít bạc. Còn như lão bỏ trốn hoặc tri hô thì ta sẽ đốt sạch chiếc chòi này, và kéo lâu là đến hỏi tội.
Lão nông phu bị tia mắt sáng quắc, đầy sát khí của chàng uy hiếp, vội vái dài rồi bước ra.
Chính Lan cho Thiết Xuyên uống năm viên linh đan, dồn chân khí vào người gã để đả thông kinh mạch. Ba khắc sau, mạch vượng lên, chân khí bắt đầu tích tụ lại ở đan điền Thiết Xuyên.
Gã đã thoát chết nhưng phải tịnh dưỡng ít nhất là một tháng. Chính Lan xoa bóp thêm một hồi thì họ Hách tỉnh lại. Gã mở mắt, chăm chú nhìn gương mặt lem luốc của Chính Lan, mỉm cười:
- Ta biết thế nào công tử cũng đến cứu ta.
Câu nói tuy đơn giản nhưng ngập tràn tình bằng hữu. Gã nói thế vì Chính Lan lâm nạn thì giá nào gã cũng liều mình cứu cho được.
Chính Lan mỉm cười xiết chặt tay gã:
- Hách huynh cứ nghỉ ngơi, tại hạ sẽ bưng cháo lên.
Nhưng lão già sợ chết kia đã mau mắn xuất hiện, trên tay là một tô cháo nóng bốc hơi nghi ngút và thơm phức. Lão cười nịnh:
- Bẩm đại vương, tiểu lão đã làm thịt con gà mái tơ để nấu cháo, ăn vào sẽ khoẻ ngay.
Chính Lan gật gù:
- Tối lắm! Lão hãy đút cho bệnh nhân ăn, còn ta phải đi tắm rửa cái đã.
Tất nhiên lão rất vui vẻ, phụng ý thi hành. Chính Lan nháy mắt với Thiết Xuyên rồi ra sau giếng tắm gội, thay y phục.
Lúc chàng trở vào thì Thiết Xuyên đã ăn xong. Lão nông phu ngơ ngác nhìn gương mặt hiền lành, nhân hậu của Chính Lan, không hiểu có phải là gã cường đạo lúc nãy hay không?
Chính Lan vận công cho mắt sáng quắc lên rồi cười nhạt:
- Lão già rồi mà không biết câu “tri nhân tri diện bất tri tâm” hay sao? Bổn sơn vương chính là phật diện xà tâm, giết người không gớm máu đây.
Thế là lão lại ngoan ngoãn và sợ hãi như trước. Chính Lan mỉm cười:
- Danh tính của lão là gì?
- Bẩm đại vương! Tiểu lão là Trần Cửu, con cái chẳng có, vợ thì mới chết được hai năm.
Chính Lan mở tay nải, trao cho lão năm nén bạc:
- Lão hãy cầm lấy năm chục lượng bạc này mà làm vốn dưỡng già. Tối nay bọn ta sẽ rời khỏi đây.
Số bạc này đối với người nghèo rất lớn, dẫu dành dụm cả đời cũng không được. Trần Cửu sụp xuống lạy như tế sao, mếu máo nói:
- Ơn đức của đại vương, tiểu lão xin tạc dạ.
Chính Lan phất tay áo, một luồng kình lực mềm mãi nâng Trần Cửu lên. Lão càng sợ hãi và càng tin chàng là đạo tặc.
Trời vừa tối, Chính Lan đã cõng Thiết Xuyên rời nhà Trần Cửu, bước như bay về hướng đông. Họ Hách còn rất yếu, không thể cưỡi ngựa được nên Chính Lan ngày nghỉ đêm đi, cõng gã đến tận Trường Sa. Chàng biết rằng chỉ có cách này mới thoát được sự truy lùng của Chữ gia trang và Đào Hoa cung.
Ở ngoài cửa tây thành Trường Sa có một tòa trang viện rộng lớn nhưng lặng lẽ, im lìm. Trước cổng không treo bảng nên chẳng ai biết đây là cơ ngơi của một tay đạo tặc đã có thời lừng lẫy suốt bảy trăm dặm Trường giang.
Nê Long Hàn Đình Tân năm nay đã sáu mươi ba, bỏ nghề thủy tặc, cáo lão qui điền được hai năm. Lão từng được Chính Lan cứu mạng nên rất vui mửng đón tiếp ân nhân.
Chính Lan ở lại hai ngày, giao Thiết Xuyên cho Nê Long chăm sóc rồi đi ngay Nam Kinh.
Chính Lan đến nơi đúng trước hôm cúng thất tuần của Hồng Diện Tài Thần.
Quí gia trang giờ đây tràn ngập bằng hữu võ lâm. Có người mới đến, có người mới quay lại và cũng có người ở đây từ ngày đưa ma Quí Thừa Khải.
Những người nhiệt huyết đã họp lại thành một lực lượng, truy lùng khắp thành Nam Kinh và vùng phụ cận để truy tìm hung thủ. Bọn trộm cướp địa phương đều bị tra hỏi gắt gao, nhưng chẳng hề có manh mối gì.
Cơ ngơi của họ Quí rộng đến hàng chục mẫu, phòng ốc nhiều vô số. Vì vậy, khách khứa được bố trí trong những căn tiểu viện biệt lập và tiện nghi. Gã gia đinh đưa Chính Lan vào thẳng nơi ở của bọn Tây Môn Nhỉ.
Hỏa chân nhân cùng đám nữ lang đang nóng ruột lo lắng cho Chính Lan nên rất vui mừng khi thấy chàng xuất hiện. Kính Hồ Tiên Cơ dương đôi mắt u sầu nhìn phu tướng, giọt lệ hân hoan lén trào ra. Nhưng nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Chính Lan như ba nữ nhân kia. Thứ nhất, do bản tánh nàng đằm thắm và kín đáo, thứ hai, nàng mặc cảm vì quá khứ. Uyển Như yêu thương Chính Lan bằng cả trái tim thiếu phụ từng trải, ngượng ngùng dâng hiến mảnh đời đầy những vết hằn.
Chính Lan hiểu được điều ấy. Chàng hôn lên trán ba người kia rồi bước đến ôm Kính Hồ Tiên Cơ, thì thầm:
- Như muội!
Hai tiếng ấy tuy ngắn ngủi, giản đơn nhưng chứa đầy tình ý. Uyển Như sung sướng, ngước mặt lên nhìn chàng, gởi gấm lòng yêu thương qua ánh mắt.
Nàng cựa mình rời vòng tay chàng và nói:
- Để thiếp vào chuẩn bị bồn tắm cho tướng công.
Chu Thục Nghi bật cười khúc khích:
- Tiêu đại thư nói đúng, tướng công còn hôi hám hơn cả gã ăn mày.
Trại Tây Thi nheo mắt chọc ghẹo:
- Té ra Nghi muội đã từng ôm bọn khất cái nên mới biết điều ấy?
Cả bọn phá lên cười, Thục Nghi đỏ mặt, phát nhẹ vào lưng Du Mỹ Kỳ:
- Kỳ thư có cái miệng thật là ác độc.
Bốn mỹ nhân vui vẻ kéo Chính Lan vào phòng tắm.
Hơn khắc sau Chính Lan mới rời được đám thê thiếp, đi lên khách sảnh.
Hỏa chân nhân liền giới thiệu chàng với các chưởng môn. Chính Lan kính cẩn ra mắt và lặng lẽ quan sát từng người.
Phương trượng Thiếu Lâm Tự, Quảng Tâm thiền sư pháp tướng trang nghiêm, râu bạc năm chùm. Chưởng môn phái Võ Đang, Thuần Thanh chân nhân mình hạc xương mai, dung mạo hiền lành. Chưởng môn phái Hoa Sơn, Khánh Hư chân nhân mặt tròn, râu đen, nhãn thần linh lợi. Chưởng môn Nga Mi phái, Đạo Huệ sư thái mặt lạnh như tiền, tuy đã bảy mươi mà da dẻ mịn màng, còn phảng phất nét đẹp thuở thanh xuân. Bang chủ Cái bang, Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn là nhân vật khá bí hiểm, đầu họ Lô lớn gấp rưỡi người thường, đôi mắt không nhỏ nhưng lại thường khép hờ như buồn ngủ, vì vậy lão có nhìn ai thì người ấy cũng chẳng thể biết được.
Hy Văn Cư Sĩ Lăng Thiên Cát tướng mạo phương phi, tuấn tú, trán cao, mắt sáng. Chính Lan đã nghe nhắc đến con người thông minh xuất chúng, kiến văn rộng rãi này. Họ Lăng có tài thu phục nhân tâm, quen biết hầu hết các nhân sĩ võ lâm.Sáu người này đều ở tuổi thất tuần, thân phận rất cao cả.
Nhưng xét về vai vế, Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp ngang hàng với sư phụ của họ. Vì vậy, Chính Lan cũng bằng vai với họ.
Thuần Thanh chân nhân vui vẻ hỏi Chính Lan:
- Chẳng hay lệnh sư đã ẩn cư nơi đâu trong suốt ba chục năm qua?
Chính Lan kính cẩn đáp:
- Bẩm chân nhân, tiên sư đã chọn Tứ Xuyên làm nơi ẩn dật, mới mất được bốn năm.
Chàng không thể nói rõ vì sợ có kẻ sẽ vì thù hận mà mạo phạm đến di thể của Tú Sĩ. Khánh Hư chân nhân ngậm ngùi xen vào:
- Ngũ tiền bối thọ đến hơn trăm tuổi quả là hi hữu. Nay người đã mất, hy vọng công tử sẽ nối chí tú sĩ, tiêu diệt bọn ác ma, chống đỡ võ lâm.
Chính Lan ngượng ngùng cúi đầu nhận mệnh. Hy Văn Cư Sĩ nghiêm giọng:
- Nghe nói công tử còn là con của Nhu Diện Phán Quan Âu Dương Tùng. Dám hỏi lệnh tôn đã ngộ hại thế nào mà công tử lại nghi cho Đào Hoa cung chủ?
Chính Lan là người kín đáo, thận trọng nên chỉ đáp khéo:
- Tại hạ về đến Côn Minh thì song thân được hàng xóm mai táng đã nửa tháng, nên không rõ nội tình. Chỉ đoán rằng hung thủ phải có võ công rất cao cường.
Cư sĩ gật gù, mỉm cười hỏi tiếp:
- Thú thực với công tử, lão phu được võ lâm tôn xưng là người vạn bác, nhưng có một điều vẫn thầm hổ thẹn, đó là công phu Nhất Điểm Hồng của lệnh sư. Chẳng hay đó là loại ám khí gì vậy? Mong công tử chỉ giáo cho, nếu không, lão phu chết vẫn còn thắc mắc.
Gương mặt lão rất thành khẩn, chứng tỏ chỉ vì ham hiểu biết nên hỏi thế thôi. Chính Lan thản nhiên đáp ngay:
- Chư vị đều là bậc trưởng bối võ lâm, tại hạ không dám giấu. Nhưng xin hãy giữ kín giùm cho. Thủ pháp Nhất Điểm Hồng phóng ra những mũi kim bằng hổ phách, vào trong cơ thể sẽ tan biến mất.
Chính Lan bắt buộc phải nói dối vì đây là bí mật sống còn. Thực ra chàng có thể từ chối trả lời, nhưng chàng lại muốn nhân cơ hội này tung hỏa mù, nên mới nói thế. Hy Văn Cư Sĩ mừng rỡ vỗ đùi:
- Có thể mà lão phu nghĩ mãi không ra.
Các chưởng môn đều gật gù thán phục, chỉ trừ Đại Đầu Cái. Chính Lan biết lão không tin, lòng thầm khâm phục con người dị tướng kia.
Rượu thịt được dọn lên và công tử Quí Thành Lâm xuất hiện. Nghe Hỏa chân nhân giới thiệu chàng thư sinh gầy gò kia là Hồng Nhất Điểm, gã vòng tay chào và nói:
- Âu Dương huynh hiện nay là thần tượng của hàng vạn hào kiệt trẻ tuổi, chỉ một lời hô hào cũng có thể khiến họ xả thân tương trợ. Mong Âu Dương huynh ra tay giúp cho.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Tại hạ dẫu bất tài nhưng cũng xin tận lực, còn nói về nhân số thì chẳng lực lượng nào sánh nổi với Cái bang. Tại hạ đến trễ nên không rõ tình hình, mong Quí đại huynh chỉ giáo?
Quí Thành Lâm buồn rầu đáp:
- Gia phụ bị một chiêu kiếm rất quái dị đâm trúng năm huyệt Chu Vinh, Thực Đậu, Bộ Lang, Linh Khư, Ngọc Đường.
Chính Lan kinh hãi nhận ra chỉ còn thiếu hai huyệt Hoa Cái, Quan Môn là tử trạng của Quí tài thần sẽ giống hệt phụ thân chàng. Chính Lan cố trấn tĩnh hỏi tiếp:
- Thế chư vị đã tìm ra lai lịch của chiêu kiếm ấy chưa?
Chàng vừa nói vừa nhìn vào mặt của Hy Văn Cư Sĩ. Lão ngượng ngùng biện bạch:
- Lão phu bất tài không nhìn ra. Nhưng may mà Lô bang chủ đã cho biết đấy là Diêm La kiếm pháp của Diêm La Tẩu, thất truyền đã lâu. Nhưng mấy chục năm nay chẳng thấy cao thủ nào sử dụng cả nên lão phu cũng không dám đồng ý với họ Lôi.
Bang chủ Cái bang vẫn ngồi yên nhấp chén, không hề biện bác. Hỏa chân nhân trầm giọng:
- Nhưng nếu đúng là Diêm La Tam Thức thì hung thủ phải có đủ bốn mươi năm công lực mới thi triển nổi.
Chính Lan tư lự:
- Trước đây, tiên sư đã từng kể về một nhân vật hắc đạo có tên là Thiên Diện đại phu Hà Đăng Long. Lão ta luyện được một loại kỳ dược từ tủy người, có diệu dụng làm tăng tiến công lực rất thần tốc. Nếu mỗi năm uống một viên thì chỉ sau mười năm đã có bốn chục năm công lực. Ba mươi năm trước, Hà Đăng Long giết hại mấy chục lương dân để lấy tủy, bị tiên sư phát hiện và tiêu diệt. Nhưng nghe nói Thiên Diện đại phu vẫn còn một nam tử là Hà Lăng năm nay cũng đã hơn bảy mươi. Có thể hậu duệ họ Hà đã tìm được bí kíp của Diêm La Tẩu, phối hợp với phép luyện Tứ Bội thần đan để đào tạo ra một cao thủ trẻ tuổi.
Hy Văn Cư Sĩ cười mát:
- Lão phu cho rằng công tử chỉ võ đoán thôi. Nếu quả Thiên Diện đại phu có hậu duệ thì sao người ấy không xuất hiện đòi công tử trả món nợ của Hoàng Hạc Tú Sĩ?
Mọi người đều tán thành, lập luận của lão. Chính Lan điềm nhiên hỏi tiếp:
- Quí huynh! Sau hơn tháng điều tra, đã có manh mối gì chưa?
Quí Thành Lâm chán nản đáp:
- Mấy trăm người lùng sục, tìm kiếm mà chẳng được gì. Nhân vật khả nghi nhất lại là Dương Châu công tử Phó Duy Khang, một kẻ võ nghệ kém cỏi, chẳng thể nào là hung thủ được. Gã đến Nam Kinh từ trước ngày xảy ra huyết án, tiêu xài rộng rãi, nổi tiếng khắp chốn yên hoa.
Chính Lan suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Xin Quí đại huynh cho tại hạ được gặp người đã tiếp cận với Phó Duy Khang.
Thành Lâm gật đầu, bảo ả thị tỳ:
- Tiểu Thục, ngươi vào trong mời Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lên đây.
Lát sau, một hán tử tứ tuần vóc dáng trung bình ra đến. Dung mạo gã rất tầm thường, chẳng có gì đặc biệt, nhưng con người này đã từng là tổng bộ đầu phủ Giang Tây, phát rất nhiều vụ án bí hiểm. Hai năm trước, Trịnh Thiều bất mãn thượng cấp, từ quan về phục vụ Hồng Diện Tài Thần. Gã là cháu vợ của Quí Thừa Khải.
Quí Thành Lâm giới thiệu:
- Trịnh biểu đệ! Âu Dương công tử đây có vài điều muốn hỏi ngươi.
Trịnh Thiều gật đầu, vòng tay chào rồi lặng lẽ dương mắt nhìn Chính Lan chờ đợi. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Mong Trịnh huynh cho biết bọn kỹ nữ bình phẩm thế nào về bản lãnh phòng the của Dương Châu công tử?
Trịnh Thiều hơi bất ngờ, mỉm cười đáp:
- Bọn gái lầu xanh đều hết lời ca ngợi Phó Duy Khang là khuê trang đệ nhất dũng sĩ.
Chính Lan gật đầu bảo:
- Các hạ mau điều động nhân thủ tìm cho ra Dương Châu công tử, vây chặt lại và cho người về báo tin.
Quí Thành Lâm sửng sốt:
- Chẳng lẽ lại là gã này!
Chính Lan cười mát:
- Chắc chư vị cũng biết tại hạ đã dung nạp vợ của họ Phó là Kính Hồ Tiên Cơ. Nàng cho biết Duy Khang tuy háo sắc nhưng nguyên dương lại rất kém. Nay y đột nhiên sung mãn như vậy là chuyện khác thường. Hơn nữa, Phó tuần phủ là người nghiêm khắc, keo kiệt, chẳng bao giờ cho Duy Khang đến mấy ngàn lượng vàng để ăn chơi. Tại hạ cho rằng hắn đã được uống kỳ dược nên mới đến Nam Kinh hưởng lạc. Lúc hết tiền gã bèn dở trò đạo tặc. Vì không chuyên nghiệp nên gã đã mò đến Quí gia trang, một nơi không nên đến.
Giang Tây Thần Bộ phấn khởi tán thành:
- Công tử nói rất đúng, chỉ có kẻ mới vào nghề mới giết Hồng Diện Tài Thần để cướp hơn ngàn lượng vàng mà thôi. Hiện nay gã đang có mặt trong Lưu Hương viện, chẳng cần phải tìm kiếm.
Khánh Hư chân nhân thắc mắc:
- Nhưng làm sao chỉ trong vòng vài tháng họ Phó đã có được bốn mươi năm chân khí?
Chính Lan cười nhạt:
- Có thể lão họ Hà kia đã nhẫn tâm cho Duy Khang uống Tứ Bội thần đan một cách bá đạo. Kết quả cũng vậy nhưng sau này Dương Châu công tử sẽ chết rất thảm vì dược lực.
Hỏa chân nhân tính nóng như lửa, đứng lên nói:
- Đúng hay sai cứ giáp mặt Phó Duy Khang là rõ, chúng ta đi thôi.
Chỉ hai khắc sau, toà thanh lâu Lưu Hương viện đã bị vây chặt. Tuy nhiên, mọi người đều ẩn kín, chỉ để một mình Chính Lan ra mặt. Chàng xuống ngựa, bảo gã gia nô gác cửa:
- Các hạ vào trong nói với Dương Châu công tử là có Âu Dương công tử đến tìm.
Nửa khắc sau, Phó Duy Khang ra đến. Cạnh gã là bốn ả kỹ nữ xinh đẹp, lẳng lơ. Họ Phó cau mày hỏi:
- Bổn công tử chưa tìm đến các hạ là may lắm rồi, sao lại còn dám đến đây?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ nghe một lão nhân bảo rằng các hạ đang muốn đòi lại Kính Hồ Tiên Cơ nên đến đây xem thử.
Duy Khang không biết chàng đang dọ hỏi nên sửng sốt đáp:
- Té ra ngươi đã gặp Hà sư phụ?
Chính Lan mừng thầm, hiểu mình đã đoán không sai. Chàng vui vẻ xác nhận:
- Đúng vậy! Hà lão trượng cho biết hiện nay các hạ đã ngộ kỳ duyên, trở thành vô địch và đang tìm tại hạ để so tài. Nếu quả đúng là bản lãnh các hạ cao cường hơn, tại hạ sẽ trả lại Kính Hồ Tiên Cơ.
Nay Chính Lan đã dẫn xác đến tận cửa, Duy Khang chẳng thể chối từ việc rửa hận. Gã cười nhạt bảo:
- Ngươi đừng vội đắc ý, kẻ sĩ không gặp ba ngày đã khác xưa. Hôm nay, bổn công tử sẽ dạy cho ngươi biết thế nào là kiếm thuật.
Gã rút kiếm bước ra đứng đối diện với Chính Lan. Tự biết những chiêu thức thông thường chẳng thể hạ được Hồng Nhất Điểm, Duy Khang dùng ngay chiêu thứ nhất trong Diêm La Tam Thức. Gã dồn toàn lực vào thân kiếm, dở Quỉ Ảnh Thần Bộ lướt đến. Thân ảnh gã chập chờn, như chia làm nhiều bóng khiến Chính Lan không thể biết đâu là hư thực. Chàng đành bảo nguyên thủ nhất, dồn chân khí vào tiểu kiếm chờ đợi.
Cuối cùng, từ trong đám quỉ ảnh kia, Phó Duy Khang ập đến như cơn bão, kiếm chiêu cực kỳ mãnh liệt và quỉ dị.
Đầu gối Chính Lan chẳng hề cử động mà thân hình chàng vẫn bốc thẳng lên không trung như chiếc pháo thăng thiên, và từ trên độ cao hai trượng ấy, chàng bủa lưới kiếm xuống đầu đối thủ. Tuyệt kỹ Nhất Hạc Xung Thiên của Hoàng Hạc Tú Sĩ đã lừng danh mấy chục năm nay. Tuy chỉ là một thế thức khinh công nhưng lại vô cùng diệu dụng, giúp Chính Lan có thể thoát những chiêu thức quá mãnh liệt, và từ trên cao phản kích lại với thế thượng phong. Dương Châu công tử thấy đối phương đột nhiên bay mất như bóng chim, kinh hãi xuất luôn chiêu Diêm La Nhị Thức để đỡ đòn.
Tiếng thép chạm nhau chan chát và Phó Duy Khang văng ngược ra sau hơn trượng, ngực áo của gã bị đâm thủng ba lỗ nhưng không chạm da thịt. Có điều gương mặt anh tuấn kia đã bị kiếm khí rạch một đường trên gò má trái. Duy Khang vuốt máu, tiếc cho dung nhan, giận dữ gầm lên:
- Chính Lan! Ta thề sẽ không tha cho mi.
Gã dồn đủ mười hai thành công lực xuất chiêu Diêm La Tam Thức. Lần này Chính Lan không hề né tránh. Chàng quắc đôi huệ nhãn nhìn thẳng vào màn kiếm quang lạnh lẽo của đối phương và xuất chiêu Thu Vũ Tiêu Tiêu.(6)Kiếm khí từ mũi trủy thủ điểm như mưa vào lưới kiếm dày đặc kia, chặn đứng kiếm lại, và len qua chỗ sơ hở, xạ vào vai phải họ Phó.
Gân vai đứt lìa, Dương Châu công tử rú lên đau đớn, buông rơi vũ khí, nhìn Chính Lan với cặp mắt căm hận và khiếp sợ. Chính Lan nghiêm giọng:
- Duy Khang! Nếu ngươi thành thực trả lời, ta hứa sẽ không giết?
Gã chẳng còn chút dũng khí nào cả, thiểu não nói:
- Ngươi cứ hỏi!
Chính Lan gằn giọng:
- Phải chăng lão nhân họ Hà kia đã cho ngươi uống một loại linh đan rất thần diệu, và dạy ba chiêu Diêm La kiếm pháp?
Chàng nói quá chính xác nên Duy Khang không dám giấu:
- Đúng thế! Lão Hà Đăng Long ấy tự động đến tìm tại hạ, đề nghị chữa bệnh và dạy võ. Lão bảo rằng có mối thù với lệnh sư Hoàng Hạc Tú Sĩ.
Chính Lan gật đầu, quay sang bảo bọn kỹ nữ, gia nô:
- Các ngươi muốn sống thì mau vào cả bên trong, đóng chặt cửa lại.
Bọn chúng sợ hãi, không dám ở lại nghe ngóng nữa. Bây giờ Chính Lan mới hỏi tiếp:
- Có phải chính ngươi đã đánh cướp ba nhà đại phú ở ngoại thành, cách đây hơn tháng hay không?
Dương Châu công tử nhìn quanh không thấy ai, gật đầu thú nhận:
- Chính tại hạ!
Gã vừa nói xong thì có tiếng người quát vang, mấy chục bóng người nhảy qua tường vào vây chặt. Một hán từ vừa khóc vừa chỉ mặt Phó Duy Khang mà mắng:
- Tiểu súc sinh! Quí Thành Lâm ta sẽ lấy đầu ngươi về tế mộ tiên phụ.
Duy Khang kinh hãi nhìn Chính Lan. Chàng lạnh lùng nói:
- Ta hứa sẽ không giết, nhưng ngươi phải đền mạng cho Hồng Diện Tài Thần. Hãy tự lo lấy.
Chính Lan quay lưng bỏ đi. Duy Khang bị vây chặt, tay phải lại bị phế nên không cách nào trốn thoát nỗi căm hờn của Quí Thành Lâm. Chưa đầy nửa khắc gã đã bị đâm chết. Thành Lâm cắt lấy thủ cấp đem về.

Hồi 6

Gian nhân mang nhãn anh hùng khấp
Tự bất đa tình, hựu đắc tình

Trưa hôm sau, Quí gia trang khai đàn cúng bốn mươi chín ngày cho Hồng Diện Tài Thần. Đích thân Quảng Tâm thiền sư và thập bát la hán sẽ tụng kinh cầu siêu.
Trên bàn vong, ngoài trái cây còn có chiếc đầu của Dương Châu công tử Phó Duy Khang.
Chiều xuống thì cuộc tế lễ viên mãn. Quí Thành Lâm cho bày đại yến chiêu đãi quan khách nhất là mấy trăm cao thủ đã khổ công truy lùng hung thủ.
Thành Lâm cao giọng:
- Tại hạ xin mượn chén rượu nhạt để tỏ lòng tri ân chư vị đã hết lòng vì tiên phụ. Nay Âu Dương công tử đã tìm ra hung thủ, giúp tại hạ trả được mối phụ thù, chư vị có thể yên tâm hồi gia, Quí mỗ và toàn gia tộc chẳng bao giờ dám quên ân nghĩa này.
Mọi người hào hứng cạn chén và hết lời khen ngợi Hồng Nhất Điểm.
Quảng Tâm thiền sư hoan hỉ hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại đoán ra Phó Duy Khang là hung thủ?
Mọi người cũng thắc mắc như vậy nên im lặng lắng nghe. Chính Lan ngượng ngùng đáp:
- Thực ra tại hạ cũng chỉ gặp may thôi. Năm kia tại hạ đi ngang một cánh rừng trên đất Thiểm Tây, tình cờ phát hiện mười mấy xác chết. Họ đều bị kiếm hạ sát và xương sống bị chẻ làm đôi. Từ đó, tại hạ suy ra con của Thiên Diện đại phu đang điều chế Tứ Bội thần đan. Tiên sư đã qua đời, vì vậy họ Hà sẽ nhằm vào tại hạ mà đòi nợ. Nhưng lão ta lại ngán sợ công phu Nhất Điểm Hồng, tất sẽ tìm người thế mạng. Người này phải có mối thù với tại hạ thì mới chịu hợp tác với lão ta, lại thêm việc Diêm La kiếm pháp đòi hỏi đến bốn mươi năm công lực, khiến tại hạ càng thêm nghi ngờ. Nay Dương Châu công tử xuất hiện ở Nam Kinh, đột nhiên trở nên khoẻ mạnh, vung tay xài đến mấy ngàn lượng vàng, khiến tại hạ chú ý đến.
Đại Đầu Cái mỉm cười gật gù như khen ngợi. Hy Văn Cư Sĩ thì dơ ngón cái tán thưởng:
- Cơ trí của công tử quả là siêu việt.
Bỗng Chính Lan nghe tiếng truyền âm vo ve bên tai:
- Lão phu là Lô Chính Ngôn có vài lời cảnh báo, không hiểu thiếu hiệp có chịu nghe chăng?
Chính Lan vội đáp:
- Tại hạ xin rửa tai lĩnh giáo, mời bang chủ cứ nói.
- Thiên Diện đại phu là người cực kỳ ác độc và gian xảo. Lão luôn luôn tìm cách hành hạ kẻ thù, đưa họ vào cảnh tan nhà, nát cửa, sống dở, chết dở rồi mới chịu xuống tay kết liễu. Nam tử của lão là Hà Đăng Long, tuy không lộ diện nhưng mười năm nay lại âm thầm chỉ huy một tổ chức hắc đạo rất thần bí, có tên là Phú Quí hội. Hầu hết các vụ cướp bóc lớn đều do bang hội này thực hiện. Cổ nhân có câu hổ phụ sanh hổ tử, lão phu e rằng Hà Lăng cũng tàn nhẫn chẳng kém gì Thiên Diện đại phu. Vì vậy, thiếu hiệp phải hết sức thận trọng khi đối phó với lão, chỉ sơ hở là ôm hận suốt đời.
Chính Lan lo lắng nói:
- Bang chủ là bậc đại trí, xin chỉ giáo lương sách cự địch.
Đại Đầu Cái thở dài:
- Trước mắt, thiếu hiệp cứ tiết lộ thân phận Phú Quí hội chủ của Hà Lăng, rồi công khai khiêu chiến với lão. Đó là cách trói tay, ngăn những thủ đoạn hạ lưu của Hà Lăng. Nhưng dẫu sao cũng phải hết sức cảnh giác vì chưa chắc lão ta đã chịu tuân theo qui củ giang hồ.
Chính Lan hiểu ý, hắng giọng rồi đứng lên vòng tay nói lớn:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Nhân dịp này tại hạ cũng xin tiết lộ một bí mật kinh người.
Quần hào phấn khởi lắng nghe, Chính Lan cao giọng:
- Mấy năm nay, có một tổ chức khủng bố tên là Phú Quí hội âm thầm hiện hữu. Họ thực hiện những vụ giết người, cướp của rất tàn nhẫn và êm thắm. Hà Lăng, nam tử của Thiên Diện Đại Phu, chính là Hội Chủ của Phú Quí hội!
Mọi người ồ lên kinh ngạc. Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều ứng tiếng:
- Âu Dương công tử nói không sai, ngày còn ở nha môn, tại hạ đã từng điều tra những vụ án do Phú Quí hội gây ra! Thủ đoạn của họ vô cùng ác độc và chẳng hề để lại manh mối nào!
Chính Lan nói tiếp:
- Vì chính nghĩa võ lâm, không thể để Phú Quí hội hoành hành, tại hạ chính thức khiêu chiến với Phú Quí hội chủ Hà Lăng tại chân núi Thiếu Thất, vào sáng ngày rằm tháng hai sang năm. Mong chư vị đồng đạo loan báo tin này ra khắp bốn phương.
Quần hào hoan hỉ hứa sẽ truyền bá lời khiêu chiến, trên đường họ trở về cố quận. Đạo Huệ sư thái chưởng môn phái Nga Mi mỉm cười hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại biết được lai lịch của Phú Quí hội chủ?
Mặt bà lúc nào cũng nghiêm lạnh nhưng nụ cười lại rất hiền lành và giọng nói dịu dàng. Chính Lan gượng cười đáp cho qua:
- Tại hạ dốc sức điều tra tung tích kẻ gia thù, nào ngờ vô tình khám phá ra bí mật của Phú Quí hội.
Hy Văn Cư Sĩ dơ ngón cái khen ngợi:
- Xem ra cái danh vạn bác của lão phu phải nhường cho công tử mất rồi.
Lúc tiệc sắp tàn, Quí Thành Lâm trao tặng cho quan khách mỗi người một gói bạc để làm lộ phí. Chẳng ai từ chối vì sợ làm buồn lòng họ Quí.
Chính Lan về đến phòng, đưa món quà ấy cho Chu Thục Nghi cất giữ. Nàng mở ra xem, ồ lên cảm động. Mọi người xúm lại xem thì thấy năm món nữ trang bằng vàng cẩn minh châu và mười tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng. Thục Nghi cầm phong thư đưa cho Chính Lan:
- Tướng công, Quí công tử có thư cho chàng.
Chính Lan mở ra đọc.
“Âu Dương huynh nhã giám!
Đại ân của huynh đài sánh tựa non cao, gia mẫu đã lệnh cho tại hạ dâng số vàng này để tỏ chút lòng thành. Cuộc chiến với Phú Quí hội sẽ vô cùng khó khăn, đòi hỏi nhiều nhân lực và tài lực. Xét ra, Hà Lăng chính là kẻ chủ hung trong cái chết của tiên phụ. Huynh đài mà giết được lão thì hương hồn tiên phụ mới ngậm hờn. Từ nay, Quí gia trang xin tận lực sát cánh với huynh đài.
Thành Lâm bái bút.”
Hỏa chân nhân nghiêm giọng:
- Quí hiền điệt nói không sai đâu, Lan nhi bất tất phải áy náy.
Tây Môn Tử Quỳnh lo lắng hỏi:
- Tướng công! Trong thư, Quí công tử có nhắc đến Phú Quí hội, chẳng hay sự việc thế nào?
Chính Lan bèn kể lại việc mình được Đại Đầu Cái tiết lộ lai lịch kẻ đại cừu. Hà Lăng là hội chủ Phú Quí hội và cũng là người đã giết song thân chàng. Đối phương rất giỏi nghề hóa trang và thủ đoạn vô cùng tàn ác, nên chàng lo ngại cho thân quyến. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình thở dài:
- Tiểu muội học nghề cải sửa dung mạo của Cửu Hoa Bà Bà, từng được nghe kể về bản lãnh dịch dung của Thiên Diện đại phu. Quả thực lão ta có thể biến ra bất cứ người nào để ám hại đối thủ của mình. Phương pháp phòng bị tốt nhất là đặt những mật khẩu để nhận biết nhau, kể cả phu thê, huynh đệ cũng phải đề phòng, không được xao lãng.
Trại Tây Thi góp ý:
- Về mật khẩu, thiếp đề nghị dùng phép cộng tròn số. Ví dụ chúng ta chọn số chín thì một người sẽ nói trước, và người kia nói số thứ hai sao cho đủ chín.
Cả bọn đều tán thành, quyết định sẽ chọn số chín. Sau vài ngày sẽ lấy số khác. Thấy bầu không khí nặng nề, u ám, Chính Lan mỉm cười trấn an:
- Dẫu thuật dịch dung có cao siêu cách mấy cũng phải tìm cho được người có vóc dáng tương đồng với mục tiêu. Chúng ta quá thân thiết với nhau, thuộc lòng phong thái, cử chỉ, lẽ nào lại không phát hiện ra, các nàng cứ yên tâm, đừng quá ưu tư như thế.
Tố Bình vui vẻ xác nhận:
- Tỷ phu nói đúng, việc hóa trang đòi hỏi nhiều điều kiện chứ không phải chỉ ở vẻ mặt? Có những người không thể làm giả được, ví dụ như gia phụ, Hán Trung Tam Nhốc chẳng hạn.
Thục Nghi phì cười:
- Phải rồi! Đầu của ba gã ngốc kia láng bóng, đến chân tóc còn không có, làm sao giả cho giống được?
Tố Bình nói thêm:
- Gia sư từng bảo muốn nhận biết giả chân thì nên chú ý đến hàm răng. Đó là chỗ không thể sửa được, và chẳng ai giống ai.
Kính Hồ Tiên Cơ ngây thơ hỏi:
- Chẳng lẽ gặp ai cũng bắt họ nhe răng ra hay sao?
Cả nhà ôm bụng cười, nỗi lo sợ tan biến cả.
Họ quây quần đến cuối canh hai mới đi nghỉ. Chính Lan giữ lễ với tang gia nên sang nghỉ với Hỏa chân nhân. Chàng xa thê thiếp đã lâu nên rất nhớ, nhưng trong khung cảnh tang tóc này, chẳng thể vui ái ân được. Như vậy, năm mỹ nhân chia nhau ba phòng trong tiểu xá này. Tố Bình riêng một phòng, Tử Quỳnh, Uyển Như phòng thứ hai, Mỹ Kỳ, Thục Nghi phòng thứ ba. Chính Lan trằn trọc, suy nghĩ mãi đến cuối canh ba mới thiếp đi.
Mờ sáng, chàng bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng than khóc thất thanh của đám nữ nhân ở tòa tiểu xá bên cạnh. Chính Lan kinh hãi khoác vội áo, chạy như bay ra cửa, lao về phía hướng ấy. Tiếng gầm giận dữ bi thương của Hỏa chân nhân báo hiệu điềm chẳng lành.
Vào đến nơi, thấy cả năm mỹ nhân vẫn còn sống, nhưng đang ôm nhau khóc vùi. Chàng hốt hoảng hỏi:
- Việc gì đã xảy ra vậy?
Nghe tiếng chàng, đám mỹ nhân buông nhau ra, đưa tay quờ quạng bước đi, khóc gọi:
- Tướng công! Tướng công đâu rồi?
Chính Lan chết lặng, nhận ra họ đều đã mất thị giác. Nhưng không phải tất cả, Tố Bình đã chạy đến nắm tay chàng nức nở:
- Tỷ phu ơi, họ đều bị mù cả rồi.
Cảm giác đau đớn và căm hận xâm chiếm tâm hồn chàng. Chính Lan hiểu ngay rằng Phú Quí hội chủ Hà Lăng đã có mặt ở đây và ra tay ám hại đám thê thiếp của mình. Chàng cố nén lòng, bước đến dắt bốn mỹ nhân ngồi xuống giường rồi vỗ về:
- Các nàng yên tâm, để ta xem thử đối phương đã thi thố thủ đoạn gì?
Hỏa chân nhân run giọng:
- Lão phu đã kiểm tra rồi, đây là thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Hung thủ đã xông mê hương rồi dùng kim cắm vào ba huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suất Cốc trên đầu để phong tỏa nhãn mạch. Sau nửa năm, nếu không tìm ra cách chữa trị, họ sẽ mù suốt đời. Ngươi hãy xem lá thư này sẽ rõ.
Chân nhân đưa cho Chính Lan một tờ hoa tiên.
“Âu Dương tiểu tử. Lão phu rất thích có được một đối thủ lợi hại như ngươi. Kể từ nay, mỗi bước chân của ngươi đều có thể sa vào cạm bẫy. Việc làm mù mắt bốn mỹ nhân chỉ là động tác khởi đầu. Lão phu sẽ giết từng người một để ngươi phát điên mà chết.”
Thư không thủ danh nhưng cũng đủ hiểu ai là tác giả. Chính Lan hít một hơi chân khí, cố trấn tĩnh nói với các nàng:
- Ta vẫn thường bảo các nàng rằng lần này có kẻ đại cừu rất lợi hại, nay sự thực đã chứng minh điều ấy. Lão Hà Lăng kia muốn ta phải chết vì đau khổ nên mới ra tay ám hại thê thiếp. Thủ pháp Kim Châm Bế Mạch thực ra vẫn còn có người giải được, xin bốn nàng hãy bình tâm để ta lo liệu.
Giọng chàng vô cùng tha thiết và bi thương nên đã trấn an được các nạn nhân. Kính Hồ Tiên Cơ dịu dàng nói:
- Chỉ cần tướng công tỉnh táo để đối phó với kẻ thù, sống sót mà sum họp cùng nhau, dẫu phải mù lòa bọn thiếp cũng cam tâm.
Lời nàng đã nhắc nhở cho ba nữ lang kia hiểu rằng sự tình còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu Chính Lan chết đi. Sự tuyệt vọng của họ sẽ khiến chàng chìm đắm trong đau khổ và dễ dàng bị cừu nhân tiêu diệt.
Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ là người cương cường hơn cả. Nàng gạt lệ nói:
- Đúng vậy! Bọn ta là giang hồ nhi nữ chứ nào phải tiểu thư khuê các? Sao lại khóc lóc, bi ai để trúng kế đối phương?
Hai nàng kia cũng gượng cười. Thục Nghi cố nói thêm:
- Tướng công! Thiếp cũng đồng ý với họ, nhưng chỉ sợ không được thấy mặt con thơ.
Chính Lan mừng rỡ hôn lên trán nàng:
- Té ra nương tử đã có hỉ tín rồi ư?
Thục Nghi bẽn lẽn gật đầu.
Lúc này các chưởng môn và Quí công tử đã xuống đến. Họ hỏi han cớ sự và hết lời nguyền rủa Hà lão tặc. Quí Thành Lâm đau đớn nói:
- Vì chuyện của Quí gia trang mà huynh đài mang họa, Lâm tôi vô cùng hổ thẹn.
Chính Lan định nói cho gã biết Hà Lăng cũng là kẻ đại cừu của mình, nhưng lại sợ đối phương đoán ra việc Nhu Diện Phán Quan dùng công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp giả chết, bí mật này là một lợi thế của Chính Lan.
Cha chàng bị bất ngờ nên thọ thương rồi mới bế mạch. Nếu ông đoán trước được nguy cơ, thi triển thần công sớm hơn thì chẳng thể nào chết nổi. Lúc ấy, huyệt đạo toàn thân đóng kín, dời đổi vị trí, dẫu trúng kiếm thương cũng không đến nỗi trừ khi bị đâm vào tim hay óc.
Hy Văn Cư Sĩ buồn rầu hỏi:
- Nay Hà Lăng đã tàn độc như vậy, công tử tính sao?
Chính Lan điềm đạm đáp:
- Tại hạ chưa có chủ ý gì, trước mắt phải lo việc chữa trị cho chuyết thê.
Quảng Tâm thiền sư nghiêm trang nói:
- Thủ đoạn ám hại đàn bà con trẻ thế này thực là đáng giận, chẳng phải là hành vi của người võ lâm. Nếu thí chủ thấy cần, lão nạp sẽ phát võ lâm thiếp, huy động cả giang hồ tiêu diệt bọn Phú Quí hội.
Chính Lan kính cẩn từ chối:
- Cảm tạ thịnh tình của thiền sư, nhưng tại hạ cho rằng chưa đến lúc. Khi nào Phú Quí hội ra tay khuynh đảo võ lâm sẽ tính sau.
Các chưởng môn nói lời chia buồn rồi cáo từ. Chính Lan đã tranh thủ truyền âm với Đại Đầu Cái:
- Mong bang chủ mau chóng đưa tin đến Trường An, Tô Châu, Từ Châu báo cho ba vị nhạc phụ của tại hạ biết tình hình. Tốt nhất là bảo họ tìm nơi lánh nạn ngay.
Lô Chính Ngôn an ủi:
- Lão phu đảm bảo sẽ dấu họ vào chỗ an toàn.
Khách ra cả, Quí Thành Lâm mới hỏi:
- Vì sao công tử không tra xét hung thủ?
Chính Lan lắc đầu:
- Vô ích thôi, Hà Lăng đích thân ra tay thì không bao giờ để lại dấu vết.
Họ Quí suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Nay tứ vị phu nhân đều đã mất thị giác, trở thành người cần được bảo vệ. Tại hạ e rằng Phú Quí hội sẽ cho người phục kích chư vị trở về Nam Dương. Lúc ấy, vướng tay vướng chân làm sao đối phó được? Hay là chư vị cứ ở lại đây và tìm danh y điều trị?
Hỏa chân nhân cười nhạt:
- Chắc chắn đối phương cũng nghĩ như vậy. Bọn ta ở lại sẽ là mục tiêu cho Phú Quí hội thi thố thủ đoạn. Vì vậy, ngay đêm nay sẽ phải âm thầm rời Quí gia trang. Sau khi an trí xong bốn con bé tội nghiệp này, lão phu và Chính Lan sẽ có kế hoạch tấn công.
Quí Thành Lâm đề nghị:
- Trước lúc gia phụ qua đời, tại hạ có mua ba trăm mẫu rừng ở cửa tây thành nằm cạnh bờ sông, trong ấy có tòa biệt viện rất xinh đẹp, tiện nghi, trừ tại hạ và gia mẫu ra, không ai biết đấy là tài sản của Quí gia trang. Hay là chư vị đến đấy mà ẩn mặt?
Chính Lan hỏi sơ địa thế, đường ra vào rồi chấp thuận:
- Tại hạ xin tuân mệnh.
Quí Thành Lâm mỉm cười:
- Tại hạ xin tặng cơ ngơi ấy cho công tử.
Chính Lan chưa kịp từ chối thì gã đã bỏ đi.
Ngay đêm hôm ấy, Chính Lan cõng Uyển Như trên lưng, tay bồng Thục Nghi. Tây Môn Nhỉ và Tố Bình thì ẵm Mỹ Kỳ và Tử Quỳnh. Họ âm thầm rời Quí gia trang đi về nơi ở mới.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều và bốn tỳ nữ thân tín đã chờ sẵn. Sáng ra, một cỗ xe tứ mã, mui kín do Hỏa chân nhân cầm cương và Chính Lan hộ tống chậm rãi rời thành Nam Kinh.
Lúc đi ngang cửa bắc, có một hán tử đang đứng dựa gốc cây nhìn theo cỗ xe, mỉm cười bí ẩn rồi rảo bước.
Ra khỏi thành, Tây Môn Nhỉ vung roi quất cho bốn con ngựa phi nước đại. Đoạn đường quan đạo này rộng rãi và bằng phẳng, nhưng chỉ được hai chục dặm đã hẹp lại và ghồ ghề. Hai bên đường là gò đống ngổn ngang và bụi rậm cao hơn đầu người.
Vừa nghe tiếng dây cung bật, Chân Nhân và Chính Lan đã rải ngay bốn trái Đảo Thiên thần đạn. Hỏa khí nổ vang trời, khói bụi mù mịt, che phủ nhãn tuyến bọn phục binh. Cỗ xe tiếp tục lao như tên bắn, vượt qua đoạn mai phục. Trường tiễn bắn đuổi theo như mưa, cắm chi chít vào thùng xe.
Toán hắc y không dám đuổi theo ngay vì e dè thần đạn. Bốn trái lúc nãy đã sát hại hơn hai chục cung thủ.
Cỗ xe tứ mã chạy thêm vài dặm, rẽ vào đường mòn bên hữu và không thấy trở ra. Khi toán hắc y đến nơi thì cỗ xe trống không, ngựa bị tháo khỏi càng xe. Dấu vó ngựa tỏa ra nhiều hướng khiến chúng phân vân chẳng biết đuổi theo phương nào.
Ít ngày sau, cả giang hồ xôn xao về việc Phú Quí hội chủ Hà Lăng dở trò đê tiện ám hãi võ lâm tứ đại mỹ nhân sa cảnh mù loà. Lão còn đặt phục binh chặn đường, nhưng may mà bọn Chính Lan đã thoát được.
* * *
Gần cuối tháng mười một, trời trở rét đậm, tuyết rơi dày và gió đông thổi mạnh. Dẫu đang buổi trưa mà không gian u ám như chiều tối, vậy mà trên đường quan đạo có một người kỵ sĩ vẫn dong ruổi. Phải nhìn kỹ mới thấy vì gã mặc áo lông và mũ màu trắng, hòa lẫn trong màn mưa tuyết.
Hán tử ngước mặt nhìn rặng Cửu Hoa sơn ở phía trước, ước lượng còn xa đến sáu chục dặm, nên dừng cương trước tửu quán ven đường.
Gã cột ngựa vào thanh gỗ trước sân, phủi tuyết rồi vén màn da bước vào trong. Tiểu nhị ân cần mời mọc khách lạ. Hán tử gọi mâm rượu thịt, ngồi xuống ghế và lột nón lông ra.
Lúc này chúng ta mới có thể nhìn rõ gương mặt xương xương phủ kín bởi bộ râu rậm. Tuy vậy, trông gã không có vẻ dữ tợn vì cặp mắt sâu kia phảng phất nỗi buồn mênh mang. Chỉ có người mang tâm sự nặng nề như Chính Lan mới có ánh mắt đấy. Chàng không hề sợ hãi kẻ thù nhưng lại đau lòng cho bốn người vợ trẻ tội nghiệp. Họ đang sống trong tăm tối, chờ đợi chàng tìm được danh y.
Chính Lan kiêm trình không nghỉ, cố đến núi Cửu Hoa sơn thật sớm để tìm Cửu Hoa Bà Bà sư phụ của Tây Môn Tố Bình. Bà là người duy nhất giải phá được thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Chàng phải gặp bà bà trước khi đám sát thủ Phú Quí hội thủ tiêu bà.
Chính Lan ăn nhiều nhưng uống rất ít. Chàng phải đề dành khí lực đối phó với mọi bất trắc. Xong bữa, chàng gọi tiểu nhị tính tiền và định lên đường. Nhưng bất ngờ ngoài sân vang lên tiếng ai rất quen thuộc:
- Chủ quán đâu, mau mở rộng cửa cung nginh ngọc giá Xà Nữ Vương.
Giọng nói của tam ngốc Hồ Phùng Tường thì chẳng lẫn vào đâu được.
Chính Lan ngồi lại để xem sự thể. Tiếng mãnh hổ gầm vang khiến thực khách run bần bật. Tất nhiên chẳng gã tiêu nhị nào dám ra đón khách.
Và rồi bức màn da ngựa che gió tuyết bị lợi đao cắt đứt, rơi xuống đất. Một cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một toán gồm bảy người, ba nam bốn nữ. Nam là ba gã đầu trọc trơn bóng không một cọng tóc, thân khoác chéo tấm da báo, lưng cài đơn đao trông rất dữ tợn còn bốn nữ thì một cưỡi bạch hổ, ba cưỡi ngựa, mặc Miêu phục, tóc buông xõa.
Tuy trông oai phong, kỳ dị như thế nhưng giờ đây họ đang run lên vì lạnh. Da báo chỉ che được lưng, ngực và hạ thể, còn chân tay trỏ cả ra dưới ngọn gió đông. Miêu phục mỏng manh lại càng chẳng thể giữ ấm cơ thể. Vì vậy, cả bọn kéo tất vào quán, xúm lại chậu than hồng mà sưởi ấm. Lúc này Chính Lan mới nhận ra trên cổ Hán Trung Tam Ngốc Hiệp có quấn một con kim xà chỉ nhỏ bằng ngón tay út. Chàng từng ở Vân Nam nên biết kim xà này cực độc. Có lẽ ba gã ngốc kia đã bị Xà Nữ Vương khống chế bằng cách ấy.
Nhị ngốc Hồ Giả hùng hổ đập bàn quát tháo:
- Các ngươi có mau dọn ra một mâm thượng hạng hay là muốn làm mồi cho bạch hổ?
Tất nhiên chủ quán và tiểu nhị mau mắn bưng rượu thịt lên.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường kính cẩn mời Miêu nữ trẻ đẹp vào bàn trước. Nàng quay lại nên Chính Lan mới biết vòng dây vàng chói quấn quanh đầu cũng là một con rắn, nhưng da nó óng ánh như hoàng kim và có màu đỏ rực trên cái đầu hình tam giác.
Bạch hổ đang nằm chắn ngang cửa cũng gầm lên đòi ăn. Đại ngốc Hồ Đạo Tịnh vội bảo chủ quán lấy cho nó mười cân thịt sống.
Tấm da chắn cửa đã không còn nên gió lồng lộng đưa tuyết vào trong quán. Thực khách lạnh run lên nhưng chẳng dám than phiền.
Xà Nữ Vương cũng thấy lạnh, nàng buông đũa giận dữ nói:
- Ba ngươi đã được phong chức Điện Tiền tướng quân thế mà không kiếm nổi cho bổn nữ vương và ba tỳ nữ tấm áo choàng lông, thật là đáng trách.
Nhị ngốc nhăn nhó đáp:
- Mong nữ vương lượng thứ cho, bọn hạ thần cũng đâu ấm áp gì. Nhưng muốn mua áo lông thì phải có ngân lượng, nay chúng ta chẳng có xu nào, chẳng lẽ đi ăn cướp?
Xà Nữ Vương trợn mắt quát:
- Ta không cần biết, bọn ngươi làm sao có thì thôil Lạnh thế này làm sao đến được Hoàng Cúc lâu?
Chính Lan giật mình, không hiểu tam ngốc đưa đám Miêu nữ này đến đấy làm gì?
Nhị ngốc Hồ Giả nhìn quanh, thấy chỉ mình áo lông của Chính Lan là tốt nhất, gã mừng rỡ đứng lên, chỉ mặt chàng quát:
- Tên râu rậm kia, muốn sống thì mau dâng áo lông cừu cho nữ vương.
Chính Lan mỉm cười:
- Bảy người mà chỉ có một tấm áo e không đủ. Để tại hạ tặng chư vị bảy chiếc áo choàng lông.
Chàng móc ra nén vàng mười lượng, bảo chủ quán:
- Lão cho người đi mua ngay bảy chiếc áo lông tốt nhất, còn dư ta thưởng luôn.
Lão mừng rỡ mở cửa sau, lên lưng con ngựa già, chạy như bay đến trấn gần đấy. Xà Nữ Vương thấy vậy cảm kích bước sang ngồi đối diện chàng:
- Từ ngày rời Miêu Lĩnh, bổn nữ vương mới thấy có một người tốt bụng như các hạ. Hay là các hạ theo hầu ta và nhận chức thừa tướng?
Chính Lan không đáp mà hỏi lại:
- Vì sao nữ vương lại phải rời quê hương, lặn lội ngàn dặm đến Hoàng Cúc lâu?
Miêu nữ buồn rầu đáp:
- Ta nhận di mệnh của tiên sư là Kim Xà phu nhân đi tìm đồ đệ của Hoàng Hạc sư bá. Ân sư bảo rằng ta và chàng có mối lương duyên thiên định. Khi vượt Hoàng hà, tình cờ gặp ba gã ngốc này, được biết họ là em của chàng nên bắt dẫn đi. Họ xấu xí, ngu ngốc như vậy chắc Âu Dương Chính Lan cũng chẳng ra gì. Thực lòng ta chẳng muốn lấy chàng ta chút nào cả.
Chính Lan sửng sốt nhớ lại lời tâm sự của ân sư. Thời trai trẻ, ông từng lưu lạc đến Quảng Tây và kết nghĩa huynh muội với một nữ cao thủ Miêu tộc. Không ngờ giờ đây lại nảy sinh mối lương duyên lạ lùng này giữa chàng và Miêu nữ.
Chính Lan đang mang nặng mối ưu tư về bệnh tình của thê thiếp nên chẳng muốn đa mang thêm. Chàng nghiêm giọng:
- Nữ vương nhận xét không sai, gã Chính Lan kia cũng xấu xí, khờ khạo như ba gã này. Và giờ đây, gã đang bị cường địch truy sát nên bỏ Hoàng Cúc lâu trốn mất rồi. Tại hạ sẽ tặng lộ phí để cô nương trở về cố quận.
Vừa lúc lão chủ quán về đến, đem theo bảy chiếc áo choàng lông thượng hạng. Tam ngốc và bốn Miêu nữ mau mắn mặc vào, nhìn Chính Lan với cặp mắt biết ơn. Chàng mở tay nải lấy ra mười đỉnh vàng hai chục lượng, trao cho Xà Nữ Vương:
- Số vàng này đủ để cô nương trở lại Quảng Tây.
Ánh hoàng kim lấp lánh khiến mắt ba gã ngốc sáng lên. Nhị ngốc bước đến hỏi ngay:
- Nữ vương làm thế nào mà gã này lại dâng nạp nhiều vàng như vậy?
Miêu nữ hân hoan nói:
- Y bảo Chính Lan là một thằng ngốc giống như các ngươi, và hiện đã bị cường địch truy đuổi chạy khỏi Hoàng Cúc lâu. Vì vậy, y tặng lộ phí cho ta trở về Miêu Lĩnh.
Ba gã này tôn kính Chính Lan như thần nhân nên không chịu được lời xúc phạm. Đại ngốc gầm lên:
- Tên khốn kiếp kia. Ngươi dám đặt điều bôi nhọ đại ca của bọn ta phải không? Hồng Nhất Điểm oai trấn võ lâm, tài trí song toàn cả giang hồ đều biết.
Trong đám thực khách cũng có vài hào kiệt trẻ. Họ lập tức lên tiếng tán thành:
- Đúng vậy, Âu Dương công tử là thiên hạ đệ nhất kỳ nam tử, chẳng ai không biết.
Xà Nữ Vương ngơ ngác hỏi Chính Lan:
- Cả những người kia cũng tán dương Chính Lan, sao các hạ lại nói khác đi?
Chính Lan mỉm cười:
- Cô nương thử hỏi họ xem có phải Chính Lan đã bị Phú Quí hội chủ hãm hại cho đến tan nhà, nát cửa hay không?
Một chàng trai trẻ vai mang kiếm bi phẫn nói ngay:
- Đúng vậy, nhưng lão Hà Lăng kia chỉ nhờ quỉ kế và thủ đoạn hạ lưu mà đắc chí, chứ đâu phải nhờ võ nghệ? Âu Dương công tử muốn tránh trò ám toán đê tiện nên mới tạm ẩn mặt, chờ đến kỳ phó ước ngày rằm tháng hai mới hạ sát lão ác ma.
Bỗng từ bên ngoài có tiếng cười ghê rợn vọng vào:
- Không ngờ Hồng Nhất Điểm lại được nhiều người ái mộ đến thế.
Mọi người biến sắc nhìn ra thì thấy một toán nhân mã, đông đến hai chục người, đang đứng xếp hàng trước tửu quán. Tam ngốc điên tiết bước ra quát hỏi:
- Bọn ngươi là chó phương nào mà dám đến đây sủa vậy?
Lão già râu đen đứng hàng đầu cười nhạt:
- Phú Quí hội đây gã ngốc ạ.
Bất ngờ Xà Nữ Vương rú lên lảnh lót. Bạch hổ đang nằm chồm dậy, phóng ngay vào đoàn người kia. Đồng thời, ba Miêu nữ hầu cận cũng mở túi vải xua đàn ong độc ra. Hán Trung Tam Ngốc không bỏ lỡ cơ hội rút đao tham chiến ngay. Phe đối phương tuy đông nhưng bị bầy ong đốt cho tối tăm mặt mũi nên hỗn loạn cả lên.
Chính Lan đoán rằng bọn này đến giết Cửu Hoa Bà Bà, nên lửa giận bừng bừng, quyết không để chúng tẩu thoát. Chàng rút kiếm nhảy qua cửa sổ, vòng ra phía sau, đánh vào lưng chúng. Thanh trường kiếm của Chính Lan hóa thành đạo hào quang lạnh lẽo chặt phăng chiếc thủ cấp và đâm thủng ngực bọn sát thủ. Chưa bao giờ sát khí lại xâm chiếm con người chàng đến thế.
Chính Lan tận dụng pho Hoàng Hạc Khinh Vân, di chuyển như ánh chớp, không để tên nào chạy thoát. Và từ tay tả chàng, những đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng bay ra xói thủng trán đối phương.
Ba gã ngốc kia đã nhận ra chàng, đồng thanh gọi vang:
- Đại ca!
Chúng phấn khởi múa tít loan đao giết liền ba tên sát thủ. Hơn khắc sau, chỉ còn lại lão già áo đen đứng vững, cố chống đỡ những chiêu kiếm mãnh liệt của Chính Lan. Chàng vừa đánh vừa nói:
- Nếu các hạ chịu qui phục, ta hứa sẽ hậu đãi.
Lão nhân nhảy lùi lại, ngửa cổ cười bi thiết:
- Tiếc rằng người của Phú Quí hội không hề biết sợ chết.
Dứt lời, lão trở kiếm đâm thủng ngực trái tự sát.
Hán Trung Tam Ngốc phục xuống tuyết nói:
- Đại ca, bọn tiểu đệ xui xẻo gặp đám Miêu nữ này nên không về kịp thời hạn.
Xà Nữ Vương cũng bước ra ngơ ngác hỏi:
- Vậy phải chăng các hạ là Âu Dương Chính Lan?
Chàng mỉm cười gật đầu. Miêu nữ mừng rỡ nắm tay chàng kể lể:
- Tướng công, thiếp là Liễu Thi Mạn, mừng được gặp chàn.! Ân sư đã di mệnh gả thiếp cho chàng đấy.
Lòng Chính Lan bối rối như tơ vò, chẳng biết nói sao. Ba gã ngốc lại không hiểu ý, bước đến chúc mừng:
- Đại ca quả là tốt phúc, lại lấy thêm được vợ đẹp.
Ba nữ tỳ người Miêu cũng cúi chào:
- Chúng nô tỳ bái kiến thiếu gia.
Đám hào kiệt trẻ trong quán chạy ra bái kiến. Một người đại diện nói:
- Bọn tiểu đệ ngưỡng mộ đại hiệp từ lâu, nay được diện kiến mới thỏa chí bình sinh.
Chính Lan hòa nhã nói:
- Cảm tạ chư vị đã có lòng sủng ái. Nay tại hạ phải đối phó với thủ đoạn đê tiện của Phú Quí hội nên thất thế. Những mong chư vị hỗ trợ bằng cách thủ tiêu đám tử thi và giữ kín chuyện hôm nay.
Chàng trai mập mạp vui vẻ nhận lời:
- Đại hiệp yên tâm, sẽ không một ai biết đại hiệp và bọn Phú Quí hội xuất hiện nơi này.
Chính Lan nói lời cảm tạ rồi hối thúc ba gã ngốc và các Miêu nữ lên đường. Dọc đường, chàng kể lại mối thù với Phú Quí hội cho tam ngốc nghe. Chúng giận dữ gầm lên, chửi mắng Hà Lăng không tiếc lời.
Hơn canh giờ sau, đoàn người đã đi được vài chục dặm. Chính Lan rẽ vào đường mòn xuyên qua rừng mé tả, đưa cả bọn đến một tòa trang viện nhỏ.
Nghe tiếng vó ngựa, một người áo trắng, râu đen, tuổi ngũ tuần chạy ra ngay. Chính Lan lột mũ lông cao giọng:
- Hai năm cách biệt, chẳng hiểu Trân huynh có còn nhận ra Chính Lan này không?
Lão nhân vui mừng khôn xiết, cười vang:
- Ta có thể quên cả tên mình nhưng đối với lão đệ thì chẳng bao giờ, xin mời vào.
Chính Lan lắc đầu:
- Tiểu đệ phải đi ngay Cửu Hoa sơn để tìm Cửu Hoa Bà Bà. Xin cho gởi những người này ở đây, xong việc, tiểu đệ sẽ quay lại.
Liễu Thi Mạn vội nói:
- Tướng công cho thiếp theo với.
Chính Lan nhăn mặt:
- Ta chỉ đi rước người chứ đâu đánh nhau mà nàng đòi theo.
Chàng quay ngựa đi ngay. Trân lão tủm tỉm cười:
- Tức muội yên tâm, trên đời chẳng có ai làm hại nổi Chính Lan đâu.
Đại ngốc ngập ngừng nói:
- Phải chăng các hạ là Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật?
Họ Trân gật gù:
- Chính là lão phu đây.
* * *
Âu Dương Chính Lan rạp mình trên lưng ngựa, phi nước đại trong làn tuyết về hướng núi Cửu Hoa. Chưa gặp mặt Cửu Hoa Bà Bà, chàng chẳng thể yên tâm được.
Chính Lan suy nghĩ đến nàng Miêu nữ ngây thơ Liễu Thi Mạn, lòng càng thêm bối rối. Dù nàng rất xinh đẹp nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào mà đón nhận mối lương duyên. Chính Lan quyết định phủ nhận và bảo nàng trở về Miêu Lĩnh.
Cuối giờ thân, Chính Lan mới đến chân rặng Cửu Hoa. Trong màn tuyết lất phất, chín ngọn núi diễm lệ như chín anh em đứng kề vai nhau. Vì vậy, núi này trước đây được gọi là Cửu Tử sơn hay Lãng Dương sơn. Có lẽ chính nhà thơ Lý Bạch đã đổi tên cho núi này. Ông đã ba lần đặt chân đến đây và từng đề thơ ca ngợi phong cảnh kỳ lạ:
“Tích tại Cửu Giang sơn
Dao vọng Cửu Hoa sơn
Thiên hà quái lục thượng
Tú xuất Cửu Phù Dung.”
Từ đó Lãng Dương Sơn được gọi là Cửu Hoa sơn. Oanh liệt thay lời thơ của bậc đại thi hào, đổi được cả tên của núi non. Cửu Hoa sơn là một trong tứ đại phật sơn của Trung Hoa. Từ thời Đông Hán, chùa chiền đã được xây dựng rất nhiều. Tổng cộng bảy mươi chín ngôi cổ tự, chia nhau hai mươi vạn bậc đá sơn đạo.
Nhưng hôm nay Chính Lan đến đây chẳng phải để viếng chùa chiền, chàng xuống ngựa, phi thân lên ngọn núi thấp nhất, tìm đạo am của Cửu Hoa Bà Bà. Chỉ vài trục trượng, Chính Lan đã lên khu rừng trúc trên sườn núi, bên trong thấp thoáng mái ngói rêu phong. Không nghe động tĩnh gì, Chính Lan yên dạ lướt vào, đứng trước cánh cửa gỗ khép kín, cao giọng:
- Vãn bối là Âu Dương Chính Lan, điệt tế của Hỏa chân nhân, xin bái kiến bà bà.
Cửa am mở rộng, một bà lão tóc đen, mặt phúc hậu, mặc đạo bào xanh xuất hiện. Bà ta tươi cười bảo:
- Té ra thí chủ là tỷ phu của con nha đầu Tố Bình đấy ư? Hãy vào đây!
Bà quay lưng đi vào. Chính Lan kính cẩn theo sau. Tình cờ chàng nhìn xuống đất, nhận ra gót giầy bà bà có màu đỏ tươi. Tố Bình từng kể rằng sư phụ nàng rất ghét màu đỏ. Chính Lan chợt nảy sinh cảm giác bất an, vội dồn chân khí ra song thủ, toàn thân căng lên, sẵn sàng đối phó.
Nhờ vậy, chàng thoát chết vì Cửu Hoa Bà Bà đã quay lại miệng mỉm cười nhưng song chưởng giáng mạnh vào ngực chàng. Khoảng cách quá gần, nếu không đề phòng trước, chẳng cách nào phản ứng kịp.
Nhưng Chính Lan đã cử song thủ đỡ đòn. Bốn bàn tay chạm nhau, chưởng kình nổ vang rền và đối phương văng ngược ra phía sau, máu miệng phun thành vòi, chết không kịp ngáp.
Biết đã rơi vào bẫy, Chính Lan lộn người bay ra khỏi cửa am, rời khỏi khu vực hiểm nghèo. Nhờ phản ứng thần tốc ấy, chàng vào được khu rừng trúc trước khi tiếng dây cung bật. Mấy trăm mũi trường tiễn bắn đuổi theo chạm vào hàng trúc trở lên vô dụng.
Toán phục binh gồm gần trăm kiếm thủ áo trắng rời chỗ ẩn nấp, bỏ cung tên, xông vào rừng trúc truy sát Chính Lan.
Giờ đây, chàng đã như hổ dữ vào rừng nên chẳng coi bọn kia ra gì. Chính Lan kéo mũ lông che kín đầu, nằm phục sát đất, ẩn trong lớp tuyết. Và bằng những đòn bất ngờ, chàng giết từng tên một. Gió bấc mạnh lên khiến không gian mù mịt, lại là lợi thế của Chính Lan. Nhãn lực của chàng tinh tường hơn nên thấy rõ đối phương khi chúng chưa nhận ra chàng. Chỉ hai khắc Chính Lan đã giết được bốn chục tên, máu hồng nhuộm đỏ mặt tuyết trong rừng.
Bỗng bọn sát thủ Phú Quí hội rút cả ra và có giọng khàn khàn vang lên:
- Chính Lan! Lão phu là Hà Lăng đây, ngươi có dám ra thử vài chiêu không?
Chính Lan còn thủ bốn trái Đảo Thiên thần đạn nên không sợ bị vây. Chàng quyết định đối diện với kẻ thù để kết liễu oan cừu, liền rời rừng trúc, bước ra khoảng sân trước cửa đạo am.
Toán bạch y đã biến mất, chỉ còn một lão nhân áo vàng. Dung mạo của lão xa lạ, chẳng hề giống bức hoạ mà Nhu Diện Phán Quan để lại. Chính Lan cười nhạt:
- Lão sợ không địch lại ta nên luôn bày mưu, tính kế ám hại, chứ chẳng dám chờ đến kỳ phó ước.
Hà Lăng mỉm cười âm hiểm:
- Lão phu suốt đời hành sự rất cẩn thận, chẳng kể gì đến đạo nghĩa hay qui củ võ lâm. Vì vậy, hôm nay lão phu sẽ chặt đứt mười ngón tay của ngươi trước, để xem ngươi còn dám đến phó ước nữa không?
Chính Lan lặng lẽ dồn chân khí vào thân kiếm, miệng cười nói:
- Khoan đã! Ta có điều muốn hỏi?
Chưa dứt lời, chàng đã nhảy xổ vào đối phương. Chính Lan đã áp dụng phương trâm dị độc trị độc để chiếm tiên cơ. Hà Lăng đã quá đê tiện, không trừ một thủ đoạn nào, thì chàng chẳng thể giữ mãi thái độ quân tử. Một người thợ săn rình rập, lén bắn ác thú thì cũng chẳng ai trách cả.
Chính Lan xuất chiêu Khai Liêm Kiến Nguyệt, kiếm quang rực rỡ tỏa rộng như ánh trăng rằm, bao trùm cả thân thể Hà Lăng.
Lão tặc bị bất ngờ nên rơi vào thế hạ phong, múa tít trường kiếm bảo vệ toàn thân. Kiếm kình cuồn cuộn quanh người, kín đáo và liền lạc như mặt nước. Rõ ràng công lực của lão hơn hẳn Chính Lan.
Nhưng chiêu vén rèm thấy trăng là tuyệt học của Hoàng Hạc Tú Sĩ, biến ảo vô song. Mũi kiếm điểm hàng trăm lần vào tấm rèm thép kia, vang lên những tiếng tinh tang nối tiếp nhau thành tiếng ngân dài. Và rồi xuyên qua sơ hở, đâm vào tâm thất Hà Lăng.
Vừa nghe lớp chân khí quanh người chấn động, lão ma vội nghiêng mình né tránh, nhờ vậy lão chỉ bị đâm thủng vai trái. Tuy nhiên, cùng lúc ấy, một đạo Huyến Tuyến Nhất Điểm Hồng từ tay Chính Lan đã xạ thẳng vào bụng dưới họ Hà.
Lão ta vẫn đề phòng tuyệt kỹ này, nhưng không ngờ lại bị tấn công vào bàng quang. Do động tác tránh kiếm, lão cũng đồng thời nhấc cao thân hình lên một chút. Vì thế mũi tên máu kia lệch mục tiêu xuyên qua dương vật và phá nát một bên ngọc hành.
Đấy là chỗ dễ gây cảm giác đau đớn nhất trong cơ thể, Hà Lăng rú lên thảm thiết. Tung mình rời đấu trường, miệng quát vang:
- Xạ tiễn!
Trận mưa tên từ bốn hướng bay vào cơ thể Chính Lan. Chàng múa tít trường kiếm che thân.
Bọn cao thủ nằm rải rác chứ không tập trung, nên có dùng đến Đảo Thiên thần đạn cũng chỉ giết được vài tên. Chính Lan tự lượng công lực mình không bằng đối thủ, nếu lão hồi phục lại thì càng khó thoát nạn. Do đó, Chính Lan móc thần đạn tung về phía Hà lão tặc, hỏa khí nổ vang trời nhưng lão ta đã kịp nhảy ra xa ba trượng, rời khỏi tầm sát thương.
Cú nhảy kia càng chứng tỏ bản lãnh kinh thế hãi tục của họ Hà. Chính Lan thở dài, nương theo kiếm quang lao vút xuống chân núi.
Tất nhiên, bọn Phú Quí hội cũng chẳng dám đuổi theo. Chính Lan phi ngựa chạy một mạch về chỗ cư trú của Trân Dật. Tuyết rơi dày sẽ lấp đầy dấu vó ngựa nên chàng không sợ bị truy tung.
Dù đả thương được kẻ thù nhưng lòng chàng lại nặng trĩu nỗi lo âu. Thứ nhất là bản lĩnh Hà Lăng cao siêu hơn chàng dự đoán. Thứ hai, chắc chắn Cửu Hoa Bà Bà đã ngộ hại, chẳng còn ai cứu được bốn người vợ bạc mệnh của chàng thoát cảnh mù lòa.
Chính Lan đến nơi đã là gần cuối giờ dậu. Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật đã bày sẵn tiệc rượu, và mọi người đang quây quần chờ đợi. Nghe tiếng vó ngựa, Liễu Thi Mạn chạy ra trước tiên. Nàng tíu tít hỏi:
- Tướng công có gặp được Cửu Hoa Bà Bà không? Sao vẻ mặt chàng buồn bã như vậy?
Dẫu đang tuyệt vọng, chàng cũng không nỡ gắt gỏng với người con gái sơn dã thuần phúc này. Đôi mắt to tròn, ngây thơ kia chan chứa mối quan hoài thành thực. Chính Lan lắc đầu dịu giọng:
- Không gặp. Nàng cứ vào trong rồi ta sẽ kể cho nghe.
Chính Lan xuống ngựa, bước vào ngồi phịch xuống ghế. Một Miêu nữ lập tức đem khăn sạch đến cho chàng lau mặt. Phát hiện trên áo lông cừu lấm tấm vết máu đen sẫm, Thi Mạn hốt hoảng:
- Phải chẳng tướng công đã chạm trán cường địch? Chàng có sao không?
Chính Lan uống liền ba chén cho ấm bụng rồi kể lại mọi sự. Cuối cùng chàng thở dài thườn thượt, quay sang bảo Liễu Thi Mạn:
- Liễu hiền muội, nay ta lâm vào cảnh hiểm nghèo, chết sống không lường trước được, chẳng thể làm hại lây đến hiền muội. Nàng hãy từ bỏ ý định làm vợ ta và trở về Miêu Lĩnh ngay đi. Trên đời còn biết bao chàng trai tuấn tú, anh hùng, nàng xinh đẹp như vậy, lẽ nào không có được một vị lang quân như ý? Hơn nữa, ta đã có đến bốn vị phu nhân, nàng theo ta chẳng phải là thiệt thòi hay sao?
Liễu Thi Mạn trợn tròn đôi mắt phượng nhìn Chính Lan, sa lệ nói:
- Năm năm trước, ngũ sư bá có đến Miêu Lĩnh thăm gia sư. Người khen tiểu muội xinh đẹp và xin gia sư gả cho đại ca. Ông còn trao lại một mảnh ngọc bội khắc tên Chính Lan để làm tín vật. Đại ca thử nhớ lại xem, lúc qua đời, sư bá đã nói gì?
Thi Mạn tháo sợi dây bạc trên cổ đưa cho Chính Lan. Chàng nhận ra đây là vật mình vẫn mang hồi nhỏ. Khi đã lớn, chàng không đeo nữa, nên dần dần quên mất. Hơn nữa, trước lúc toạ hóa, Tú Sĩ có nói:
- Ta còn một món quà bất ngờ tặng con, sau này sẽ biết.
Bây giờ chàng mới rõ ông đã âm thầm tìm cho chàng một người vợ rất xinh đẹp là Miêu nữ Liễu Thi Mạn.
Liễu cô nương còn giáng thêm một đòn tâm lý nữa. Nàng vui vẻ nói:
- Đại ca biết không, ngày ấy ngũ sư bá còn bảo rằng số đại ca khó có con trai, nên ông chọn tiểu muội vì có tướng sanh quí tửm
Chính Lan ngửa mặt than trời:
- Ta chẳng háo sắc sao cơ tạo cứ đẩy đưa làm kẻ đa mang? Cả đời luôn dính dáng đến tình duyên thì còn đâu khí phách, phong độ của bậc hiệp khách nữa? Sau này chết đi cũng chỉ mang tiếng đa tình mà thôi.
Trân Dật gật gù:
- Đúng vậy, sau này những người chép sử của võ lâm Trung Nguyên sẽ mỉm cười khi thấy quanh lão đệ có quá nhiều bóng hồng nhan.
Nhị ngốc Hồ Giả cười hì hì:
- Ai chê cười mặc kệ họ, bậc đại anh hùng cái thế như đại ca mà không có mỹ nhân bên cạnh, thì sao thành cố sự hay ho được?
Thi Mạn lo lắng hỏi:
- Đại ca nói như thế là có thu nạp tiểu muội hay không?
Chính Lan cười khổ:
- Cả bốn ái thê của ta đang lâm vào cảnh mù lòa, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Thi Mạn giật mình:
- Họ bị đâm mù mắt ư?
- Không. Lão Hà Lăng đã dùng thủ pháp Kim Châm Bế Mạch phong tỏa thị lực của họ, nhưng sau sáu tháng không giải được sẽ mù vĩnh viễn.
Thi Mạn nói liều:
- Phải chăng lão ta đã đâm vào huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suốt Cốc?
Chính Lan giật bắn mình, run giọng hỏi:
- Phải chăng hiền muội cũng biết cách giải phá thủ pháp này?
Thi Mạn mỉm cười tinh quái:
- Chẳng khó gì cả. Nhưng đại ca đã không thu nạp, tiểu muội đành phải về Quảng Tây thôi.
Tam ngốc cười hô hố:
- Đại ca không quì xuống khẩn cầu, còn chờ gì nữa.
Chính Lan nghiêm nghị hỏi Thi Mạn:
- Nàng định chờ ta van xin mới thỏa lòng hay sao?
Miêu nữ nhận ra ánh mắt chàng vừa bi thương, vừa kiên quyết sợ hãi đáp:
- Tiểu muội chỉ nói đùa thôi. Dẫu đại ca không dung nạp, tiểu muội cũng hết lòng cứu chữa cho bốn vị đại tẩu.
Chính Lan dịu giọng:
- Sai rồi, chẳng ai gọi chị em chung thuyền là đại tẩu bao giờ cả, phải gọi là đại thư.
Thi Mạn vui mừng khôn xiết, thỏ thẻ:
- Thiếp đã hiểu!
Trân Dật dơ ngón cái khen ngợi:
- Thủ đoạn của lão đệ quả là cao cường, bảo sao không có nhiều vợ đẹp.
Chính Lan ngượng ngùng biện bạch:
- Thực tâm thì tiểu đệ cũng không dám từ chối di mệnh của tiên sư. Chẳng qua nặng niềm riêng nên chẳng muốn Thi Mạn phải khổ lây đấy thôi.
Thi Mạn cười bảo:
- Hy vọng việc phục hồi thị lực sẽ khiến các đại thư không ghét bỏ thiếp.
Mọi người đều khen phải. Nỗi ưu tư đã biến mất, Chính Lan vui vẻ ăn uống, chuyện trò. Tan tiệc, chàng vào trong tắm rửa, thay áo. Thi Mạn thản nhiên hầu hạ chàng chẳng chút e thẹn. Nàng cầm thanh tiểu kiếm sắc bén, vui vẻ nói:
- Thiếp muốn được thấy rõ dung mạo của tướng công. Bộ râu này đáng ghét quá.
Chính Lan hiểu ý, ngồi xuống ghế cho nàng cạo mặt. Lát sau, dung mạo nhân hậu, dễ mến cố hữu đã hiện ra. Chàng nheo mắt hỏi:
- Nàng có thất vọng không?
Thi Mạn mỉm cười:
- Gia sư từng dạy rằng dáng vẻ con người không quan trọng ở xấu đẹp mà chỉ về thần khí. Tướng công tuy không anh tuấn nhưng thần thái tiêu sái, khí chất tôn qúi, thiếp rất mãn nguyện được nâng khăn sửa túi cho chàng.
Chính Lan kinh ngạc trước kiến thức của nàng sơn nữ. Chàng hiếu kỳ hỏi:
- Nàng tinh thông văn hóa Trung Nguyên cớ sao lại còn xưng là Xà Nữ Vương một cách nực cười như vậy?
Thi Mạn cười khúc khích:
- Thiếp thấy ba gã họ Hồ quá ngốc nghếch nên mới bầy trò cho vui thôi.
Chính Lan đẹp dạ khi thấy nàng vừa kiều diễm vừa thông tuệ, tinh minh như vậy. Chàng kéo nàng vào lòng, hôn lên đôi má mịn màng.
Tài sản của than_long_vn