Từ lập đông đến giờ. trời âm u kéo dài đã hai tuần lễ, cứ cách ngày một, ngày hai lại đỗ mưa, mãi đến hôm nay mới thấy hừng nắng.
Ngày mưa - với những ai đa sầu đa cảm, rất có thể sẽ là điều thú vị; không như tôi, một anh chàng độc thân, chỉ thấy vui lên khi trời quang mây tạnh.
Tôi vươn vai đứng dậy bên bàn giấy, đưa mắt nhìn ra ngòai. Nắng chói chang, những dãi nhà cao tầng gài răng lược san sát hai bên đường được nước mưa rửa sạch, ánh lên một vẻ tươi mới. Văn phòng nơi tôi làm việc ở tầng mười hai. Nhìn xuống con đường cái phía dưới, thỉnh thỏang mới thấy xe chạy qua, không gian rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi lớp cửa kính, hầu như không có tiếng động mà chỉ thấy bóng chiếc xe lướt qua rồi mất hút.
Tôi làm biên tập cho tờ "Tạp chí phổ thông" vừa mới ra đời. Vì việc cấp giấy phép cho số tạp chí là chuyện rất khó nên các lọai tạp chí hiện thời, phần nhiều đều phải mượn tên tạp chí cũ để ra mắt. Số tạp chí này cũng vậy, nó có tên là "Truyền kỳ đại quan biến thể"
"Truyền kỳ đại quan biến thể" vốn là tờ tạp chí lá cải chết yểu từ nhiều năm trước; khi ấy nó được chia phần chút ít trong số những tạp chí lá cải bày bán rất chạy trên các quầy báo. Lúc tôi đang còn là học sinh trung học, vẫn thường bắt gặp các bạn cùng lớp lén lút đem những tạp chí kiểu này, trên bìa có in ảnh những gái đẹp ăn vận hở hang vào trong nhà xí, ngồi đọc một cách rất thích thú.
Tôi có được đọc một số tạp chí, gồm tòan những truyện " vụ án xé xác người" hoặc "thần quyền chấn động núi non". Kém theo là những dòng đặc tả mà vào thời điểm bấy giờ được xem là thiếu tính giáo dục. Cho dù nó có góp phần làm phong phú thêm cho đời sống văn hóa của tầng lớp công nhân và học sinh trung học thời ấy, nhưng riêng tôi lại thấy chẳng có cảm tình chút nào. Bởi lẽ có lần tôi trót đọc được một câu chuyện có thể nói là bẩn thỉu trên một cuốn tạp chí. Một kẻ bất nhân, độc ác cộp được gái đẹp đã vờ "văn nhân", "nho nhã" lần lượt cởi bỏ váy áo trên thân thể người đàn bà, miệng không ngớt thốt lên những lời văn hoa vô lối. Nhưng theo đúng công thức thời ấy, khi mà hắn đã cởi đến bộ đồ lót và chuẩn bị chiếm đọat người phụ nữ thì một hiệp sĩ không biết từ đâu bỗng nhiên nhảy ra , tung quyền quật ngả tên khốn kiếp ngay tại chỗ và cứu được người đẹp.
Câu chuyện về vị đại hiệp này khiến tôi ngứa ngáy đến tận chân răng, chưa kể bút pháp của nó cũng kỳ cục với một lọat những câu dài lê thê có đến ba bốn mươi chữ xuất hiện ở nhiều chỗ trong các trang viết. Khỏang thời gia đó, tôi thường có thói quen đọc nhẩm không thành tiếng song những câu dài ấy khiến tôi ngạt thở. Nếu quá thêm nữa, chắc tôi sẽ bị ngất xỉu. Trong trường hợp có người phát hiện thấy, không chừng người ta sẽ đồn thổi rằng, chỉ vì đọc những đọan văn đó mà tôi bị căng đứt mạch máu. Nếu thật như thế thì tôi đành phải chấp nhận thôi.
Hồi ấy tôi đã nghĩ, nếu là mình viết thì chắc sẽ khá hơn. Nào ngờ mấy chục năm sau, khi tờ tạp chí này mượn danh kẻ khác để đến với công chúng thì tôi lại nghiễn nhiên trở thành biên tập viên chính thức của nó.
Tôi nghe thấy từ tầng dưới, tiếng búa đóng đinh dội lên inh ỏi. Ngôi nhà lớn này vốn được xé lẻ cho bảy tám công ty cùng thuê lại; cách đây ít lâu công ty thuê tầng dưới bị phá sản phải dọn đi, hôm nay một công ty khác mới đến đang gấp gút sửa sang lại nhà cửa. Tiếng búa chát chúa làm đầu tôi nhói lên đau buốt, tường chừng đầu mình cũng hóa thành cây cột đang bị đóng đinh dưới kia. Thế nên tôi quềnh quàng xếp gọn đống giấy tờ trên bàn rồi vội vàng bước ra cửa.
Tạp chí dự định phát hành vào ngày thứ bảy tuần này, hôm nay mới là thứ hai. Cuối tuần, các nhân viên trong tòa sọan đề đi về thực tế ở địa phương, chiều mới tập trung tại văn phòng, chỉ còn tôi và một nhân viên nữa nhận chân giữ chùa. Tiếng là đi lấy ý kiến bạn đọc nhưng thật ra đây chỉ là dịp ông chủ đãi khách và mọi người được một ngày dạo chơi ra vùng ngọai ô. Phần tôi chưa hẳn hết việc, vẫn còn tới hơn ba vạn chữ để chừa trên mặt báo đang chờ bài viết. Tác giả hẹn thứ bảy nộp bài cho tôi, thế mà hôm nay đã là chủ nhật rồi vẫn biệt tăm. Cũng may địa chỉ của ông ta ở trong nội thành; nhân lúc không thể ngồi nổi ở văn phòng, tôi đến thăm ông, luôn thể đi bát phố cũng hay.
Làm tạp chí thì phải hiểu rõ tác giả như lòng bàn tay. Hơn nữa, bây giờ theo chế độ biên tập phụ trách; với mỗi bài viết, người phụ trách biên tập được nhận thêm nhuận bút, vì thế tác giả nổi tiếng luôn là đối tượng tranh chấp của các tạp chí. Cộng tác viên của tôi là Ôn Kiến Quốc, bút danh Ôn Khắc.
Người này tuy có biệt danh rất khó phát âm, nghe chẳng ra đàn ông và cũng không hẳn là đàn bà - Ôn Khắc, nhưng được cái, những gì anh ta viết đều được bạn đọc rất tán thưởng; đó là nhờ lối viết khác người, hơi méo mó, cộng với phần miêu tả sắc dục không đến nỗi phá cách. Vì thế, mặc dù viết chậm song hầu hết những bài viết cũa ông ta đều trót lọt, thoát qua khâu kiểm duyệt.
Ôn Kiến Quốc sống độc thân trong căn nhà một tầng ở trung tâm thành phố. Đây là một căn nhà cũ kỹ, có một cửa sổ và một cửa ra vào. Diện tích hẹp nhưng được cái nó ở vào vị trí "phát tài phát lộc", nghe đâu là đất thừa kế của tổ tiên. Nếu đem rao bán cũng đủ tiền cưới đến bảy tám bà vợ một lúc. Chẳng hiểu vì sao ông ta chịu thúc thủ ở mãi trong căn nhà chật chội này? Phải chăng vì thủ tục di dời nhà cửa ngày càng phức tạp, khó giải quyết?
Chớm đến đầu hè, tôi cất bước đi lên qua mấy bậc thềm đen sạm và nứt nẻ vì lâu năm không có ai lo việc sửa sang. Giơ tay gõ cửa không thấy ai thưa. Tôi hiểu rõ Ôn Kiến Quốc rất say mê viết nhưng rồi cũng có lúc ông ta vẫn phải dứt ra mà đi đi đâu đó chẳng hạn. Chần chử giây lát, đúng lúc định quay ra, tôi chợt nghe tiếng kẹt cửa.
Vừa nhìn rõ mặt người mới từ trong bước ra, tôi buộc miệng:
- Xin lỗi, không biết tôi có nhầm nhà không, thưa ông ?
Chả là người đứng trước mặt tôi, dáng vẻ dật dờ, sắc mặt sạm đen, hai mắt trũng sâu với xương bã vai nhô lên nhọn hoắt trông chằng khác một cái xác không hồn là mấy. Tôi không còn tin vào mắt mình nữa; tôi mới gặp ông ta cách đây một tháng, lúc ấy, gương mặt ông ta béo tốt với hai vành tai to. So với bây giờ, chỉ còn mỗi bộ kính mắt là giống trước, còn hiện tại rõ ràng đã trở thành một người lạ hoắc. Tôi chưa kịp mở lời đã nghe ông ta cười thành tiếng:
- Ủa... Ngỡ là ai chứ !
Nghe giọng nói của Ôn Kiến Quốc, tôi giật nảy mình, đưa mắt nhìn, vẻ dò hỏi: "Ông... Ông là Ôn Kiến Quốc? "
- Vâng, xin ông cứ tự nhiên cho.
Chủ nhà kéo lê đôi dép, từ nảy đến giờ ông ta vẫn nằm bẹp trên giường, bây giờ mới hấp tấp chìa tay mời tôi vào nhà. Những ngón tay của ông ta vốn dĩ béo múp, trắng bệch, giờ đây phơi rõ các khớp xương khô lỏng khỏng, trên ngón tay cái có đeo một chiếc nhẫn khác thường. Tôi từng đọc một cuốn sách cổ có nói đến cái thú chơi đồ trang sức, trong đó viết rẳng: nhẫn ở thời buổi ấy có một lọai đeo cho ngón tay cái, tên gọi "ban chỉ", nó được dùng để kéo dây cung và nỏ, mãi sau này mới trở thành một món trang sức. Thứ nhẫn này hình như không thấy có ở nước ngòai, chẳng trách nó được công nhận là "trang sức độc" của riêng Trung Quốc. Không rõ Ôn Kiến Quốc kiếm đâu ra được chiếc nhẫn làm bằng thứ đồng thau rắn cấc này, đeo nó vào trông thật kỳ dị. Với ai thì chưa biết, chứ một nhà văn cỡ như ông ta, nếu có tật khác đời như thế thì cũng chẳng ai lấy đó làm điều. Tay ông ta chìa ra, chưa kịp bỏ xuống thì sắc mặt đã thất thần, gần như người bị rắn cắn, loay hoay dùng tay xoay chiếc nhẫn đeo trên ngón tay cái.
Tôi rảo bước bám sát sau lưng ông ta:
- Ông không được khỏe phải không, ông Ôn Khắc?
Ông ta đứng khựng, ngỏanh đầu lại, đưa mắt nhìn tôi, sẵng giọng:
- Tôi mà bị ốm ư?
Giọng điệu của ông ta không muốn thừa nhận mình có bệnh, cho nên câu nói của tôi khiến ông ta nghĩ rằng tôi đang rủa ông ta. Nghĩ thế, nên tôi đành phải lựa lời:
- Chỉ tại tôi thấy sắc diện ông không được tươi tỉnh đấy thôi!
Căn phòng của ông ta ở rộng 30 mét được ngăn đôi bằng ván bìa mỏng. Gian ngoài dùng làm bếp và phòng khách mờ tối. Không gian hẹp nên phòng khách chỉ đủ chỗ cho bốn hoặc năm người khách ngồi chơi. Ông kéo ra mốt chiếc ghế dựa, vẻ dồn dã:
- Mời ông ngồi.
Tôi làm theo, nhanh tay lấy từ trong túi xách ra một bọc hoa quả mới mua ở dọc đường đặt lên bàn:
- Thưa ông Ôn Khắc, xin ông vui lòng cho biết về tập truyện ấy. Chắc ông đã viết xong rồi?
Chủ nhà cũng vừa ngồi vào chỗ, người co rúm như sợ rét nhưng không nghe tôi nói gì. Tôi hẵng giọng nói to hơn:
- Tác phẩm của ông đó, mong ông hoản tất cho, thứ bảy này phải lên khuôn đấy!
- Tiểu thuyết? À ... Tôi biết rồi, chỉ còn vài trăm chữ nữa là xong. Tôi viết nốt đây, ông ngồi chờ cho chốc lát được chứ?
Ông ta xây lưng đi vào bên trong. Đàn ông chưa vợ, phòng ngũ hẳn là bừa bộn lắm. Thấy ông ta đứng dậy, tôi định bước theo sau lưng nhưng cửa đã đóng sập ngay lại. Đấy là tấm cửa phên dán giấy, có lẽ là tự tay ông ta mới dựng nên, bữa trước tôi đã có dịp đế đây rồi nhưng chưa thấy nó. Liếc mắt nhìn vào bên trong, tôi hông thể thấy gì ngòai cảm giác mọi thứ đều tối om. Dễ thường Ôn Khắc vào đấy chỉ để đi ngũ. Rèm cửa buông xuống tối như bưng và vì nó đưộc may bằng thứ vải chống sáng nên không một tia sáng nào lọt vào nổi. Cả đến cây đèn bàn củng tắc lịm và người ta chỉ còn trông thấy mỗi điểm sáng của máy tính mà thôi.
Lại nói về thói quen của từng người lúc mới sáng tác, tôi vẫn còn nhớ như in về Ôn Kiến Quốc. Cứ mỗi lần ngồi xuống viết, ông ta đều phải có một điếu thuốc, một cốc trà, cửa sổ mở toang, cửa ra vào cũng vậy. Lắm khi ông ta còn bật nhạc MP3 trên máy tính là khác. Còn như những thói quen tôi vừa nhìn thấy, có lẽ là mới bị nhiễm trong thời gian gần đây, kể cả chiếc nhẫn quái dị mà ông ta đeo nữa.
Trở lại với cánh cửa phòng, nó vốn được làm bằng phên tre dán giấy nhưng chắc và kín, không để ánh sáng lọt vào. Bên trong tối đen như phòng dùng cho việc rửa ảnh vậy. Tôi những muốn thử dòm qua khe cửa nhưng nó đã bị bịt kín, chẳng còn trông thấy gì nữa. Áp tai lên bức vách mỏng, chỉ nghe mỗi tiếng đánh máy chữ lách cách đều đều.
Đây rồi, Ôn Kiến Quốc từ trong đi ra. Cửa mở làm tôi giật bắn mình, ông ta đặt chiếc đĩa mềm vào lòng bàn tay tôi rồi nói:
- Đây... ông nhận cho!
Tôi cần đĩa bỏ vào túi nhưng vẫn còn áy náy trong lòng:
- Ông không sao chứ, ông cần tĩnh dưỡng đấy, thưa ông Ôn Khắc?
Có lẽ đây lại là một cảm giác sai lạc nữa của tôi. Vừa rồi ông đi vào đó, chỉ một thóang thôi, nhưng tôi trông ông ta có vẻ tiều tụy hơn nên mới buộc miệng nói vậy. Không dè Ôn Khắc tưởng ra điều gì đó ghê gớm đáng sợ nên mới hỏi vặn:
- Có thật không? Thật như thế hay sao?
Ông ta lao mình ra cửa, ngơ ngác soi mình vào tấm gương treo trên tường. Tôi không ngời ông ta bị bị tự kỷ ám thị đến mức đó. Lúc ấy tôi vội đưa tay đập lên vai ông ta rồi nói:
- Xin ông... Ông hãy nghe tôi.
Né tránh được bàn tay tôi, Ôn Khắc ngỏanh đầu lại hốt hoảng:
- Thật thế chăng...? Sắc mặt tôi xấu lắm rồi phải không ?
Giá như ánh đèn ngòai cửa sáng hơn một chút nữa thì tốt biết mấy, vì bấy giờ tôi vừa kịp phát hiện trên tay ông ta có hộp phấn màu da hồng vốn là đồ trang điểm của các cô gái trẻ. Kỳ cục đến thế là cùng; cho dù Ôn Kiến Quốc muốn hóa thành Hà Lợi Tú đi nữa thì cũng đâu có được. Tôi không ngờ ông ta lại thích như vậy. Mặt ông ta chẳng đã thoa lên một lớp phấn rồi sao. chỉ phải cái cách đánh vụng về lắm. Ban nãy ông ta đứng sấp bóng mới qua được mắt tôi, bây giờ thì tôi thấy nó rõ quá, tựa như một lớp vôi trát dầy lên mặt vậy. Gương mặt Ôn Khắc trông cứng đơ, không chút biểu cảm, có một chỗ lớp phấn khô cứng thành vết rạn chân chim, giống hệt lớp men rạn trên bình hoa.
Tôi rùng mình:
- Ông có sao không, ông Ôn Khắc?
- Cút đi - Hai tay ông ta ôm lấy mặt. - Cút đi! Đừng bao giời đến đây nữa!
Tội sững sốt. Ôn Khắc - coin người xưa nay điềm đạm hòa nhã, sống có tình với mọi người, bây giờ hóa thành cục súc thế sao? Vả chăng thực bụng tôi cũng không còn muốn nấn ná lâu thêm, cứ đi khỏi đây là hơn cả. Tôi nhào ra ngòai cửa y như người trốn chạy, nghe đánh "rầm" một tiếng ở sau lưng và Ôn Kiến Quốc đóng sập cánh cửa lại.
Ra ngoài tôi mới thấy mình hết rét; khác hẳn lúc còn ở trong nhà Ôn Khắc, tôi cứ có cảm giác mình bị ép ngồi trong phòng lạnh, tay chân tê cứng, run lên cầm cập. Nhiệt độ hôm nay không cao nhưng cũng chẳng đến nỗi rét quá, có chăng là nhiệt độ trong nhà Ôn Khắc chênh quá so với bên ngoài. Tôi đã để ý xem xét thêm về ngôi nhà, dễ thường do yếu tố tâm lý, một căn nhà nhỏ cũ kỹ đứng chơ vơ, lọt thỏm giữa những dãy nhà cao tầng, gieo vào lòng người ta cảm giác lạnh lẽo đến rợn người.
( còn tiếp)