|
Giải thích của StormRaider
Giải thích của StormRaider:
Đoạn trên hơi khó hiểu, tớ sẽ cố giải thích trong hiểu biết của mình.
"trong truyền thuyết thì nơi hoàng long cầm theo bản đồ bay lên gọi là sông Hoàng Hà, nơi rùa thần lấy lại bản đồ lặn xuống gọi là sông Lạc Thủy": theo truyền thuyết thì vua Phục Hy nhìn thấy tượng đã của con Long Mã ở bên bờ sông Hoàng Hà, trên lưng nó có vằn như đồ hình, ông ta căn cứ vào đó để tạo ra Bát quái, nền tảng của Dịch học lưu truyền đến bây giờ, gọi là Hà đồ. Đời vua Vũ nhìn thấy tượng đã con Linh Qui bên bờ sông Lạc Thủy, trên lưng có đồ hình, liền từ đó sắp đặt thứ tự thành 9 loại, là số của trời đất, gọi là Lạc Thư. Bát quái chắc mọi người biết rồi, còn Lạc Thư hay còn gọi là Cửu Cung đồ thì như sau:
4 9 2
3 5 7
8 1 6
khi ở trên lưng Linh Qui thì đầu đội 9; chân đạp 1; sườn trái 3; hông phải 7; vai mang 2/ 4; chân đi 6/8
“ông ta từ hình vuông mở rộng ra vòng tròn, tính được tỉ số vòng tròn. Sau đó trong Động Thủy Cửu Toán, có người lại từ phương pháp đó suy diễn biến hóa, vẽ hình tương hợp để tìm được những số chưa biết” : đoạn này nói về cách tính số Pi. Từ xưa (và có lẽ cả hiện nay) người ta tính số Pi bằng cách lấy một n-giác đều, tính chu vi (n x độ dài một cạnh) rồi chia cho độ dài đường chéo để lấy tỉ lệ. Khi n tăng đến vô cùng thì n-giác đều biến thành đường tròn, và tỉ số trên biến thành số Pi thực. Tổ Xung Chi bắt đầu việc này bằng hình vuông, tức là n = 4. Sau đó có người phát triển với n lớn hơn, qua đó tính được số Pi chính xác hơn.
“tính ra tới tầng trên thứ chín, tầng “Thiên” (tác giả: chính là toán thuật Âu châu tính lũy thừa chín của số X, có người cũng dùng nhầm cách này để giải bài toán chín ẩn số) , và tầng dưới thứ chín, tầng “ám quỷ” (tương đương với căn bậc chín của X)”: cái này tớ cũng không rõ lắm. Mũ 9 của X thì cứ nhân lên là được, còn căn bậc 9 của X thì hiện nay hình như dùng logarit để tính, có lẽ thời cổ tính bằng cách dò dần giống như cách tính số Pi nói trên.
“dần phát triển thành "Thiên Nguyên Chi Thuật , rồi tằng tổ mới dùng "Thiên Nguyên Thuật" biến hóa thành tứ nguyên, mới có thái âm, thái dương, thiếu dương, thiếu âm là tứ đại số”: có lẽ ở đây nói đến phương trình tuyến tính (phương trình một biến) bậc 4 đối xứng qua trục tung, phương trình loại này có 4 nghiệm đối xứng, hai âm hai dương (-x2 < -x1 < 0 < x1 < x2) nên gọi là thái âm, thiếu âm, thiếu dương, thái dương chăng ?
Theo bạn trongnghiabk: hiện nay có nhiều cách tính số pi độ chính xác cao, giả sử như công thức Leibnitz về chuỗi pi/4 = 1 - 1/3 + 1/5 - 1/7 + ... hay công thức tính tích phân trong đọan (0,1) của f(x) = 1/(1+x^2) bằng giá trị pi/4 .....
Cách tính số pi thời cũ huynh giải thích bị sai( có thể ko rõ), thật ra là vẽ hình tròn bán kinh 1, sau đó vẽ 2 hình đa giác đều nội tiếp và ngọai tiếp hình tròn. Chu vi đường tròn bằng trung bình của 2 chu vi đa giác , mở rộng ra đa giác có số cạnh càng lớn thì độ chính xác của chu vi hình tròn càng cao. Từ chu vi hình tròn chia cho đường kính hình tròn ta được số pi.
Theo như đệ nghĩ đề tóan thứ 10 "Nguyên Ngoại Chi Nguyên". Đại ý chính là muốn tìm một phương pháp giải dùng một chiều bất kỳ, biến hóa từ "Thiên Nguyên Chi Thuật" và tứ nguyên , đây đều là cách giải phương trình ,pt tuyến tính đến pp bậc 4 và Nguyên Ngọai chi nguyên có thể là cách giải bất kỳ phương trình nào .
theo như giới thiệu thì ông này sử dụng đọan pháp để giải phương trình rất giống với cách giải hiện nay của máy tính, giới hạn dần phạm vi của nghiệm phương trình, thu hẹp khỏang cách nghiệm càng ngày càng nhỏ( cách này có trong bộ môn Phương pháp tính mà đệ quên mất rồi), số phép tính càng cao thì nghiệm càng chính xác.
Bằng cách này thì máy tính có thể giải được mọi pt cấp thấp, trừ những bài vô nghiệm.)
|