Người đến chính là Cốc Chẩn, gã đi lên cầu thang, nhìn cảnh tượng trên lầu, rồi nghe hai người nọ nói những lời tử biệt, trong lòng gã quặn thắt, đến khi nghe hai câu cuối, không sao nín nhịn nổi nữa, gã lùi xuống tầng dưới, tay bám víu vào mặt bàn đá, toàn thân èo uột, gã hầu như muốn té nằm nhào trên sàn.
Đúng như lời Diêu Tình nói, lần tây hành này, Cốc Chẩn là người khổ nhất, chịu mệt mỏi nhiều nhất. Không những thân xác cực nhọc, mà tinh thần còn mệt mỏi cùng cực, gã đã phải tận sức vận dụng tài trí một đời ra sắp đặt mọi công việc nào gã thu xếp được, điều động nhân lực nào gã có thể điều động được, làm thành công một sự việc chưa tiền nhân nào làm được, chỉ trong nửa tháng trời, đã vượt qua hàng mấy vạn dặm đường, Những cái đó, cũng chưa thấm gì so với cái khổ cực nhất, là trong tình huống khó khăn đến đâu, trước mặt cả đoàn, lúc nào gã cũng phải cố giữ vẻ ung dung, cổ vũ khích lệ ý chí mọi người, không dè, trải biết bao gian khó như vậy, đến lúc này, lại nhận được cái kết quả làm vậy, trong một khoảnh khắc, mồm miệng Cốc Chẩn có cảm giác đắng nghét, lần đầu trong đời, gã nếm cái tư vị của "Vi san cửu nhận , công khuy nhất quy" (Đắp một quả núi cao trăm thước, cuối cùng thiếu mỗi một sọt đất để đạt thành công": câu trích từ "Thư kinh - Thượng Thư của Lữ Ngao"). Vào lúc cả trí lẫn lực đều khô cạn, nản chí cùng cực, hai tay gã bấu chặt vào mặt bàn đá, siết chặt đến nỗi mấy móng tay gần bật máu tươi, trong đầu quanh đi quẩn lại vang vọng mỗi một câu "Đại ca anh của ta, có ta thật cũng như không ... Đại ca là anh của ta, vậy mà ta thật vô dụng !" Gã không hay không biết, từ khoé mắt ứa ra một giọt lệ, chảy xuống gò má, rồi nó rỏ xuống mặt bàn phủ bụi, làm bụi bậm chỗ đó tan ra, lờ mờ hiện hình dạng nét khắc hoa văn nho nhỏ.
Là người tinh tế, Cốc Chẩn luôn luôn quan sát tỉ mỉ mọi vật, ngay đang lúc ấy, tâm trí gã vẫn hết sức cơ cảnh khác thường, nét chạm vừa lọt vào mắt, gã không dằn được, đưa tay phủi sơ bụi bậm, mới phát giác rằng, thứ nhất, đấy không phải những nét chạm hoa văn trang trí, thứ nhì, cũng chẳng phải văn tự, mà chính là chạm khắc một phần của bức hải đồ. Trong lòng khẽ máy động, Cốc Chẩn ra sức dùng ống tay áo phủi sạch bụi, mới thấy phía đầu bàn có khắc ba chữ "Hải trận đồ", gã chú tâm quan sát, những nét khắc của bức hải đồ chính là biểu hiện của những gì gã đã từng gặp trong hải trận, tất cả các mỏm đá ngầm không sót mỏm nào, sáu con khỉ đá cũng thể hiện rõ ràng, đến cả phương vị của tiểu đảo, liếc sơ qua là hiểu hết.
Quan sát một hồi, Cốc Chẩn thấy vô cùng thất vọng, gã đoán hải đồ này có lẽ là chỗ ngày xưa cha con. ông cháu Tây Côn Lôn đã dùng để thao diễn trận pháp, nếu được xem qua trước khi vào trận thì hay biết mấy, bây giờ, đã qua thoát hải trận rồi, bức vẽ phá trận này xem ra vô dụng. Gã bèn thôi xem xét, ngồi xổm ngay xuống bên cạnh, nặn óc suy nghĩ "Hiện thời, cả năm đầu mối, chỉ còn mỗi "Xà Quật", không lẽ muốn nói trên hòn đảo này còn có một ổ rắn độc nữa ư? Thế nhưng, suốt chặng đường đến thạch lâu này, gã đã chỉ gặp rặt chim biển, chẳng thấy dấu vết muông thú, hay động vật bò sát nào. Bốn đầu mối trước dều có quan hệ mật thiết, theo lẽ đó, "Xà Quật" chẳng thể là ngoại lệ, ắt phải có dính dáng lớn với "Viên Đẩu Vĩ"? Viên "Đẩu Vĩ" ...
"Viên Đẩu Vĩ"? "Viên Đẩu" ... Cốc Chẩn ngạc nhiên pha lẫn mừng rỡ, xoay chuyển ý nghĩ "Thì ra ba chữ đó mang hai ý, thứ nhất chỉ về đuôi khỉ đá, thứ nhì ám chỉ số khỉ đá phù hợp với bẩy ngôi sao của toà "Bắc Đẩu", nhưng tới bây giờ, gã mới chỉ đã gặp có sáu con, bẩy ông sao Bắc Đẩu, hãy còn thiếu mất một, Thiên Xu , Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Diêu Quang. Lấy phần cái gáo làm đầu, lấy chuôi gáo làm đuôi, đuôi đây chính là sao Diêu Quang, bức hải đồ này thiếu mất con khỉ vai Diêu Quang, các ông sao trong nhóm Bắc Đẩu thì phương hướng thay đổi luôn, nhưng cự ly, phương vị giữa chúng thì bất biến, mấy ngàn năm nay vẫn thế.
Ý niệm vừa nhen nhúm, Cốc Chẩn quan sát cẩn thận trận đồ, bức vẽ này quả thực có ý làm khó, gây cản trở cho người đọc nó, vị trí không ghi rõ rệt, nhưng may mắn thay, Cốc Chẩn bản thân say mê nghề hàng hải, Bắc Đẩu chỉ Bắc Cực, vốn là kim chỉ nam ngàn năm bất di bất dịch của người đi biển. Cốc Chẩn tối tối đều xem sao, hình dạng Bắc Đẩu do đó nhập tâm, bây giờ, gã dựa vào vị trí sáu ông sao đã rõ biết trên hải đồ, sao Diêu Quang nhìn qua là thấy ngay, chỉ tính toán sơ sơ, Cốc Chẩn đã xác định nó không ở đâu xa, nằm về phía tây nam của đảo.
Cốc Chẩn mừng như điên, gã chạy ào ào lên một gò cao, lấy từ trong bọc ra một cái la bàn, do gã theo nghề buôn bán lâu năm, trên đường di chuyển, phương hướng lộ trình rất quan trọng, đã tạo thói quen cho Cốc Chẩn, đem la bàn làm vật bất ly thân, dù mất tiền mất bạc, nhưng quyết không để thất lạc món đồ đó. Lúc này, nó thật cực kỳ đắc dụng, mũi kim vừa chuyển động, đã chỉ rõ lối đi về sao Diêu Quang. Cốc Chẩn, như một cơn lốc xoáy, co cẳng chạy vù vù đến chỗ ấy.
Trên đường, cây cối rậm rạp, cành lá đan xen, trước mắt thấy khe lạch nhỏ tụ tập lại chảy róc rách thành dòng suối về hướng biển cả. Bên bờ suối, trồng đại trà những cây thuốc như Dược Tài, Điền Thất, Hoàng Kỳ, Thiên Môn Đông, toàn những dược thảo của Trung nguyên. Bất giác, trong lòng Cốc Chẩn ngầm cảm khái "Những cây thuốc này nhất định đều do Hoa tổ sư đem đến đây, đáng thương, ngài là một vị lương y đại thánh, đã không thể tạo phúc cho cư dân Hoa hạ,không lưu danh thơm vạn cổ, mà đã phải đã trôi nổi, chết già nơi chốn xa xôi diệu vợi, đã chịu muôn ngàn nỗi tịch mịch, cái buồn khổ nhất cõi nhân gian này, không gì qua hơn được nỗi khổ đó của ngài."
Dọc đường, con suối chuyển dòng chảy, cây cối thưa thớt dần, đàng trước bỗng thấy khoáng đãng, giữa đất bằng, xuất hiện một toà thạch đài quan sát thiên văn, phần dưới rộng, mỏm trên hẹp như hình chữ KIM (金) , những bậc thang lên đài đặt ngay ngắn, đài ngoảnh mặt ra biển, tuy bị dây leo quấn chằng chịt, rậm rạp, toà thạch đài vẫn hiển hiện nét nguy nga, như thưở nào!
Cốc Chẩn đảo mắt nhìn quanh, vạch rẽ cỏ hoang rậm rạp, thì thấy ngồi chễm chệ kế bên vòm cầu quan sát thiên tượng là một con khỉ đá, chính thị con khỉ của sao "Diêu Quang" chẳng sai, đàng sau con khỉ, chỏm đuôi giơ cao chỉ về phiá xa xa. Theo hướng ấy, Cốc Chẩn dõi mắt nhìn, thì thấy mấy nấc thang trong nắng chiều, tạc bóng đen chỉ về một phiến đá cao ngất.
Cốc Chẩn dấn bước xuống đài, dọc đường đi, gã không tìm thấy chút gì, lại nghĩ đến tình trạng Diêu Tình cái chết gần kề, ruột gan nổi bức xúc, gã bèn hươi một khúc cành cây khua loạn hai bên đường, muốn làm phát hiện hoặc hang động gì đó, hoặc khua đọng làm rắn độc bò ra, vừa đi vừa chọc ngoáy, chẳng mấy chốc, đã tới mé biển, tiếp tục đi nữa, sẽ ra đến vùng nước biển lạnh ngăn ngắt.
Đứng ven bờ biển, Cốc Chẩn suy nghĩ một hồi, rồi quay gót trở về bên trên thạch đài, gã nhìn xa xa theo hướng đuôi con khỉ. Lúc ấy vầng nhật đã về tây, chân trời nổi vùn vụt lên những đám mây đỏ. Bóng những bậc thang đá mỗi lúc một ngắn lại, mỗi lúc một thanh mảnh và nhô cao lên. Lúc ấy, con tim Cốc Chẩn đập mạnh một nhịp, gã lấy làm lạ mà nhận xét rằng, vầng thái dương càng ngả về tây, bóng những bậc thang trông càng giông giống hình dạng một con mãng xà, đủ đầu đủ đuôi, linh động như rắn thật, xem kỹ thì thấy thân rắn mường tượng đang có linh tính, nó lắc lư cái đầu, quẫy quẫy cái đuôi, tựa nó muốn theo mặt nhật đang lặn, vươn ra trầm mình xuống biển cả.
Cốc Chẩn nhảy dựng lên, gã ào ào chạy đuổi, chỉ chớp mắt, đã theo kịp bóng rắn, cùng lúc, vầng dương đã dần khuất vào mé đàng sau thạch đài. Bóng rắn mỗi lúc một thu nhỏ lại, cuối cùng chỉ còn gọn ghẽ một điểm, điểm đó hạ xuống, nhắm vào bên dưới một khối đá, rồi mất tích.
- Xà Quật ... Xà Quật ... Thì ra là vậy!
Cốc Chẩn tận sức vận chưởng, đẩy mạnh một cái, khối đá lập tức chuyển động! Thấy có biến chuyển, Cốc Chẩn mừng rộ, gã bèn đem hết sức đẩy mạnh thêm một lần nữa, khối đá cuối cùng bị tạt sang bên, rồi rầm rầm rơi đụng mặt biển. Mé dưới tảng đá, xuất hiện một cánh cửa đá hình tròn, có gắn khoen đồng đã bị hoen rỉ loang lổ.
Cốc Chẩn chụp mạnh vào khoen, tận lực kéo, khung cửa mở rộng hẳn, một luồng hàn khí toả tấp vào mặt. Bất giác, Cốc Chẩn lùi lại một chút, gã chăm chú nhìn, thấy bên trong khung cửa, có những bậc thang quanh co uốn lượn dẫn về một chỗ xa xăm tối ám mé dưới.
---- còn tiếp ----