Hồi 5
Thủy Thượng Tróc Xà Vương
Hồ Biển Kiến Đại Cừu
Ba ngàn hào kiệt hớn hở rời Lã gia trang, hẹn sang xuân sẽ đến xem cuộc phó ước! Bọn Nhương Thư cũng quay về thành An Dương. Trong bữa cơm tối, Nhương Thư bàn rằng:
- Nay ta nhận lời phó ước với Lã Tập Hiền, phải về núi khổ luyện thêm để chuẩn bị. Ngọc Trâm là gái, không tiện ở trong chùa, hãy quay lại Tế Nam cho Điền Trang Chủ yên tâm. Chúng ta sẽ gặp nhau ở Nam Dương trước ngày đầu tháng hai, Tào ưng và Thúy Sơn sẽ hộ tống nàng về nhà!
Ngọc Trâm phụng phịu giận hờn, nằng nặc đòi theo Nhương Thư, nhưng chàng kiên quyết không chịu. Thúy Sơn phục lăn trước bản lãnh đàn ông của Nhương Thư, vui vẻ nó i :
- Đại tẩu nên nghe lời đại ca! Hai bên chưa có hôn ước, đại tẩu lấy tư cách gì để về ra mắt tăng lữ chùa Phật Quang?
Tào ưng thì bảo Nhương Thư:
- Tại hạ đưa Điền tiểu thư về đến Tế Nam là đi Ngũ Đài Sơn ngay!
Canh ba đêm hôm ấy, HỔ Hồng Nhan mò vào phòng Nhương Thư, nối lại cuộc ân ái chưa thành lúc chịu. Song lạ thay, chàng lại hiền như bụt, ôm mỹ nhân ngủ một mạch đến sáng. Ngọc Trâm tức tối, hậm hực chia tay, lòng thầm rủa tình lang là kẻ quái đản!
Ba người kia đi rồi, Nhương Thư cũng rời An Dương. Trên đường đi ra cửa Bắc thành, Nhương Thư gặp rất nhiều hảo hán phương Bắc. Họ xúm lại chào hỏi và tán dương chàng đến tận mây xanh. Nhương Thư nghe nhột nhạt khó chịu, vội mượn cớ để quên đồ, quay lại nhà người anh cô cậu của Ngọc Trâm. Hàn Xuân ngạc nhiên hỏi lý do, nghe chàng kể gã bật cười :
- Người khác muốn nổi danh mà không được, còn công tử thì sợ!
Nhương Thư hỏi mượn gương đồng, mang chiếc mặt nạ mà Dạ Quân Tử Quách Tàn Bôi đã tặng, chàng hài lòng khi thấy mình biến thành xa lạ, vơi gương mặt của một hán tử tam tuần, xấu xí, đầy nốt ruồi và mụn cóc! Nhương Thư khoác thêm áo lông cừu mỏng yên tâm lên đường, quả nhiên lần này không ai thèm nhìn đến!
Chàng hòa vào dòng người ngược Bắc, nghe bọn hào khách nói về Tần Nhương Thư, cả khen lẫn chê, lòng cũng vui vui.
Riết cũng chán, Nhương Thư chậm lại, đi một mình cho đỡ rát tai, và có dịp ngắm cảnh thu dọc đường.
Chàng chợt nóng mặt khi nhớ đến thân hình nõn nà, kỳ diệu của HỔ Hồng Nhan, và trận động tình dưới suối. Chàng biết rằng trong tâm mình ẩn chứa ác căn, phát lộ dưới hình thức những cơn thịnh nộ.
Không chỉ lòng hiếu sát mà cả dục tính cũng không buông lung !
Phải chăng đó là tác dụng của Quỷ Nấm, hoặc hậu quả của quãng đời thơ ấu bi thảm, hoặc do di truyền? Cả mẫu thân chàng cũng không biết rõ lắm về lai lịch của cha chàng! Bà chỉ biết quê chồng ở Trường An nhưng không rõ địa điểm!
Nhương Thư thở dài, cố xua đi những mặc cảm và nghi vấn, nghĩ về Lã Tập Hiền. Chàng còn kém Hạt Nhãn Thần Ma, tất không địch lại họ Lã! Vậy thì sao chàng dám đại ngôn trước mặt VÔ ưu Cái?
Việc này xuất phát từ ba chiêu cuối cùng trong Phật Đăng Kiếm Pháp! Với chúng, Nhương Thư có thể đổi mạng với những cao thủ có bản lĩnh cao hơn chàng vài bậc! Song đấy chỉ là chuyện bất khả kháng! Chàng hy vọng không phải dùng đến hạ sách ấy, vì thức ngộ rằng cứ sau mỗi lần chạm cường địch, kiếm thuật mình tinh xảo hơn trước !
Dòng suy tưởng bị cắt ngang bởi tiếng vó ngựa phía sau dồn dập. Ky sĩ kia đã bắt kịp Nhương Thư, nhìn mặt chàng, thấy không quen nên thất vọng bỏ đi.
Người ấy chính là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc, học trò của Địch Thánh.
Có lẽ nàng nhận ra vóc dáng Nhương Thư nên định đến chào hỏi, nào ngờ lại là một hán tử xa lạ! Nhương Thư hơi áy náy nhưng không dám lên tiếng gọi. Vướng vào bốn chị em nhà họ Điền là đã quá khổ sở rồi, chàng không muốn quen biết thêm một nữ nhân nào khác nữa!
Hai người đi cách nhau vài chục trượng, cùng đơn độc mà không hề có ý đồng hành ! Nhưng trưa hôm ấy, kẻ trước người sau nghé vào phạn điếm duy nhất bên đường. Bạch Ngọc Tiên Tử không hề để ý rằng gã áo cừu kia đang ngắm mình qua vành nón tre lụp xụp, từ một bàn gần đấy Nhương Thư sợ lộ đôi tai đặc biệt nên không bỏ nón ra. Người ngoài tưởng rằng chàng hổ thẹn vì gương mặt xấu xí.
Nữ nhân ăn nhỏ nhẹ như mèo nên Nhương Thư đã ăn xong bữa mà Lâm Đại Ngọc vẫn còn dang dở. Chẳng biết làm gì, chàng bèn nhìn quanh và bị thu hút bởi gương mặt trái xoan kiều diễm và đôi mắt nâu sâu thẳm ẩn chứa một nỗi buồn mênh mang vô tận.
Bạch Ngọc Tiên Tử có dung mạo trẻ hơn số tuổi ba mươi. Địch Thánh ẩn cư trên dãy Lã Lương Sơn, thuộc vùng Tây Bắc tỉnh Sơn Tây, nên Lâm Đại Ngọc cũng nổi danh ở đất ấy! Nghe nói, năm hai mươi bốn tuổi, Tiên Tử định kết hôn với Thiểm Bắc Thần Long Lạc Nhất Lôi, do Địch Thánh từ trần nên việc cưới hỏi phải hoãn lại ba năm để cư tang. Nhưng chỉ một năm sau, Lạc Nhất Lôi đã mất kiên nhẫn, bỏ nàng lấy con gái của bá chủ vùng Tây Hạ! Có lẽ đấy chính là vết thương lòng, khiến Lâm Đại Ngọc luôn sầu muộn !
Trong phạn điếm lúc này có mặt cả toán người khách mà Nhương Thư đã tách ra. Họ đến trước, quen tật ăn nhậu cà kê dê ngỗng nên vẫn còn ngồi. Trong đám ấy có khá nhiều người trẻ tuổi, song họ chỉ dám lén nhìn say đắm chứ không dám bước đến tán tỉnh hay làm quen với Bạch Ngọc Tiên Tử.
Trước là vì võ nghệ nàng cao hơn họ, sau vì bối phận của Lâm Đại Ngọc. Võ lâm cũng có tôn ti trật tự, nghiêm ngặt hay không là do ý của người trên trước.
Nếu vui, Tiên Tử có thể gọi một gã tam tứ tuần là đại huynh, khi buồn nàng có thể xem gã ấy như con cháu!
Đó là do Địch Thánh đã tám mươi sáu tuổi, nếu còn sống, ngang hàng với sư tổ của đám thanh niên trong võ lâm!
Nhương Thư cũng rơi vào cảnh ngộ ấy, nên thường xưng tại hạ với những kẻ hơn mình đến hai ba chục tuổi !
Mới cuối giừ ngọ mà mây đã kéo xám xịt cả trời, hứa hẹn một cơn mưa tầm tã.
Lữ khách vội lên đường cho kịp chuyến đò qua sông Phồn Thủy, cách đấy mười dặm! Khi mưa to, gió rất mạnh, đò ngang sẽ chẳng dám vượt sông ! Nhương Thư cũng biết thế nên bám theo đoàn nhân mã phía trước mà phi nước đại, chạy song song với Bạch Ngọc Tiên Tử.
Được một vài dặm, đoàn người ngựa đến một ngã ba, nghĩa là quan đạo có thêm nhánh nhỏ bên hữu, trổ xéo vào rừng tùng. Đấy chỉ là một con đường mòn lớn dành cho những cỗ xe trâu kéo gỗ ra.
Cây lớn đã bị chặt trụi nên việc khai thác gỗ đình chỉ hơn năm nay, cỏ lại có dịp mọc đầy, chiếm lại đất đai của mình.
Đương nhiên, chẳng có ky sĩ nào có ý định rẽ vào hướng ấy, song trên đoạn quan đạo trước mặt họ lại xuất hiện một đoàn trâu đông độ bốn, năm chục con. Và điều đáng nói là chúng đột nhiên nổi điên lên, phóng rầm rập về phía ngã ba, sừng chĩa ra đe do ạ !
Chẳng lẽ thúc ngựa nhảy xuống thửa ruộng trừng, đầy nước mưa ở hai bên đường, mấy gã đi tiên phong rẽ vào đường mòn, những người đi sau cũng phải nối gót. Khổ thay, đàn trâu điên lại không chạy chẳng mà rẽ trái, tiếp tục truy đuổi đám khách giang hồ. Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc giờ đây trở thành mục tiêu gần nhất của những cặp sừng trâu!
Bọn hào khách vừa quất ngựa túi bụi vừa chửi thề ỏm tỏi, lôi tổ tông mười tám đời của chủ đàn trâu ra mà nguyền rủa, song chẳng có ai nghe vì lũ trâu kia không có người chăn dắt! Các ky sĩ có đủ sức phi thân lên những cành cây cạnh đường mòn, nhưng lại chẳng nỡ bỏ mặc ngựa của mình. Tuấn mã luôn là người bạn đường thân thiết của khách giang hồ, nhiều con thông minh hiểu được từng dấu hiệu nhỏ của chủ nhân.
Ngựa vốn chạy nhanh hơn trâu, nhưng trên con đường mòn gập ghềnh đầy bụi rậm này thì tốc độ của chúng giảm sút rất nhiều Người kỹ sĩ không thể liều mạng chạy càn, vì biết đâu sau lớp cỏ kia là một tảng đá hay một Oå gà sâu hoắm!
Đoàn người đã chạy được hơn hai dặm mà đàn trâu vẫn chưa chịu buông tha, và khổ thay, tuấn mã Lâm Đại Ngọc bất ngờ trật khớp vó trước, bên tả, và khuy xuống.
Tình huống bất ngờ này đã khiến một cao thủ như Lâm Đại Ngọc cũng phải lúng túng. Theo quán tính, nàng cũng chúi theo, đè lên đầu ngựa và sắp sửa cắm xuống đất. May thay, Nhương Thư đã nghiêng người, vươn hữu thủ, nắm lấy bắp tay nàng nhấc bổng lên, đặt vào lòng.
Ngựa của chàng vẫn tiếp tục phóng đi, còn tuấn mã của Lâm Đại Ngọc bị đàn trâu hất tung và dầy xéo, hí lên những tiếng não nùng!
Bạch Ngọc Tiên Tử đã hoàn hồn, thẹn thùng cựa quậy, định rời vòng tay vững chắc của ân nhân, ra đứng sau mông ngựa, tài khinh công của nàng thừa sức để làm điều ấy. Nhưng ánh mắt Tiên Tử chợt pháp hiện một đường ngửidưới cằm hán tử áo cừu, hiểu ngay rằng gã mang mặt nạ! Và vành tai luân cách phân minh, thùy châu đầy đặn, có chấm son đỏ kia chính là của Nhương Thư!
Hồi sáng, Lâm Đại Ngọc đã nhận ra tấm lưng quen thuộc, giờ thì hoàn toàn có thể khẳng định đối phương là Tần Nhương Thư hóa trang. Sáu năm trôi qua, hình bóng của người tình phụ bạc, Thiểm Bắc Thần Long đã phai mờ từ lâu, song Tiên Tử vân chưa yêu ai khác, vì không tìm được nam nhân xứng đáng!
Sau khi được Nhương Thư cứu mạng, trái tim của Lâm Đại Ngọc đã rộn rã nhịp hân hoan. Phần vì ân nghĩa, phần vì tài mạo, nhân phẩm của họ Tần, chàng không anh tuấn như Thiểm Bắc Thần Long, song bản lãnh và tâm địa thì hơn hắn. Tiên Tử hiểu rằng mình đã gặp được nam nhân lý tưởng, đáng để nàng trao thân gởi phận. tình yêu đã đâm chồi nảy lộc chẳng cần thời gian, bất chấp tuổi tác, nhưng lại gặp sự cản trở của HỔ Hồng Nhan!
Giờ đây, tình cờ gặp lại nhau, chịu thêm ơn cứu tử lần nữa, Lâm Đại Ngọc càng thêm bội phần luyến ái Nhương Thư. Nàng lặng người trong cảm giác hạnh phúc, úp mặt vào bờ vai rắn chắc của người trong mộng, hít lấy mùi da thịt nồng nàn, tay hữu quàng chặt lưng Nhương Thư.
Do tư thế này, gò ngọc phong trinh nguyên, đầy đặn của Lâm Đại Ngọc áp sát ngực trái Nhương Thư. Nhịp rung động của vó câu đã khiến nàng nhận thấy rõ sự cọ xát giữa hai cơ thể, thẹn thùng vì cảm giác nhột nhạt nơi đầu vú làm thịt da rạo rực!
Năm xưa, khi quen biết với Thiểm Bắc Thần Long, nàng và gã chỉ dám nắm tay nhau chứ chưa hề ôm ấp, gần gũi thế này!
Tiên Tử lén liếc Nhương Thư thấy mắt chàng vẫn trong veo, chẳng hề có chút xuân tình, lòng cũng đỡ ngượng. Chẳng lẽ im lặng mãi, Lâm Đại Ngọc liền thỏ thẻ:
- Tiện thiếp hai lần chịu ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp đại ân của Tần công tử đây!
Nhương Thư cười gượng:
- Nhãn lực của Tiên Tử quả là sắc bén!
Thế mà tại hạ tưởng cô nương không nhận ra!
Và chàng nói thêm:
- Tiên Tử hãy dùng ám khí hạ sát những con trâu đầu đàn để cản chân cả đàn! Nếu không chúng sẽ rượt chúng ta đến tối mất!
Lâm Đại Ngọc dạ rất ngoan, luồn ra phía sau lưng Nhương Thư, ngồi quay ngược lại, mở tay nải nhỏ vẫn khoác trên vai, lấy ra những thỏi bạc năm lượng.
Nàng vận công, liên tiếp ném mạnh những ám khí đắt tiền ấy vào đầu của bốn con trâu. Chúng không chết nhưng choáng váng, lăn kềnh ra ngay, cản đường lũ phía sau. Cả đàn dồn lại, té ngã, nghé Oï vang trời và thôi không chạy nữa!
Toán ky sĩ phóng thêm nửa dặm mới dừng lại. Họ nhìn nhau phá lên cười vì cảnh ngộ khôi hài lúc nãy. Mang danh là võ sĩ mà bị trâu rượt chạy có cờ thì quả là nực cười. Một gã trưng niên hậm hực thoá mạ:
- TỔ bà đứa nào nuôi trâu mà không biết dạy, để bọn lão gia phải chạy đến tháo mồ hôi hột!
Giọng gã oang oang làm chấn động cả cùng rừng tĩnh mịch. Cảng vật nơi đây khá xinh đẹp vì hai bên là rừng thông non thoai thoải, rì rào tiếng gió thổi qua kẽ lá.
Nhưng khi hai chục ky sĩ quay đầu ngựa chuẩn bị trở ra đường quan đạo Bắc Nam thì từ trong rừng ùa ra hàng trăm kiếm thủ áo xanh bịt mặt. Chúng bịt chặt hai đầu đường và tràn ngập đồi thông, vây kín đám hào khách.
Nhương Thư hiểu ngay đối phương là người của Huyết Tâm Giáo. Lã Tập Hiền quyết lấy mạng chàng nên đã bố trí mai phục ở đây, dùng đàn trâu dồn chàng vào bẫy. Người của lão luôn bám sát chàng nên phát hiện việc chàng quay trở lại Hàn gia trang và trở ra với mặt giả. Bọn hào khách đồng hành vô tình đã bị vạ lây mà không biết!
Nhương Thư phẫn nộ gầm vang, rời lưng ngựa lao vào hàng ngũ bọn lục y, mở đường máu. Bạch Ngọc Tiên Tử thấy thế cũng rút Huyền Thiết Địch chạy theo chàng. Hướng Nam của đường mòn được trấn giữ bởi hơn ba chục gã áo xanh.
Chúng đón tiếp Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc bằng những ngọn phi tiêu tẩm dốc, nhưng đã bị hai người đánh bật ra.
Nhương Thư động sát cơ, thi triển ngay phép ngự kiếm, thân hình rời mặt đất, nương theo kiếm quang bay vút đi. Bọn lục y hung hãn vung kiếm liên thủ đỡ đòn, song không sao cản nổi trái cầu thép lấp loáng như gương kia. Vũ khí của chúng văng khỏi tay và có đến bốn tên kêu rên đau đớn.
Nhương Thư lọt vào giữa hàng ngũ đối phương, gieo rắc cái chết bằng những đường kiếm tàn nhẫn và nhanh như thiểm điện. Bạch Ngọc Tiên Tử cũng đã giết được hai tên, vào với Nhương Thư sát cánh tiến lên. Ma âm không làm gì được Nhương Thư nhưng vẫn có tác dụng dối với Bạch Ngọc Tiên Tử. Nàng vội thò tay vào thắt lưng lấy ra một chiếc lục lạc lớn cỡ quả chanh, bằng ngọc trắng, có núm nhỏ để xỏ tơ qua. Lâm Đại Ngọc đeo lục lạc nơi cổ tay hữu rung lên, tạo ra những âm thanh trong vắt hóa giải Ma âm của bọn Huyết Tâm Giáo. Thì ra, Địch Thánh tinh thông âm luật nên đã tạo ra vật khắc chế tà pháp của Huyết Tâm Đế Quân, để lại cho học trò.
Nhờ vậy, giờ đây Bạch Ngọc Tiên Tử ung dung chiến đấu, thi thố hết sở học, biểu diễn cho Nhương Thư thưởng lãm.
Nàng thuận tay trái nên có thể đi song song với chàng mà không sợ vũ khí của họ vướng nhau. Thỉnh thoảng hai người lại bị đối phương dồn ép, vai lưng kề cận truyền cho nhau chút hơi ấm của tình đồng độ i .
Nhương Thư giết hai tên thì Lâm Đại Ngọc cũng làm thịt được một, tiến lên rất nhanh. Những tiếng ngựa hí, tiếng quát tháo phía sau đã im lặng, vì mười tám gã hảo hán yểu mệnh kia đã gục ngã. Phe đối phương rảnh tay kéo cả đến để bao vây hai con mồi cuối cùng.
Chúng tập trưng nhiều ở hướng Nam đường mòn vì sợ bọn Nhương Thư thoát ra quan đạo, Những tên đứng ngoài vòng liên tiếp phóng những mũi phi tiêu tẩm độc khiến đôi nam nữ kia phải phân tâm đối phó, bước tiến chậm dần. Lâm Đại Ngọc giàu kinh nghiệm hơn Nhương Thư, nhận ra hiểm cảnh liền đề nghị:
- Công tử! Chúng ta chạy vào rừng thôi!
Quả đúng như vậy, cây cối sẽ chắn cho họ trước những ngọn phi tiêu, và với khinh công của hai người, việc thoát đi sẽ dễ dàng hơn. Nhương Thư gật đầu, cùng nàng đổi hướng, đánh thốc về phía đồi thông hướng Tây, chàng múa tít bảo kiếm mở đường, còn Lâm Đại Ngọc thì đoạn hậu.
Nhương Thư trợn mắt đánh những đòn hiểm ác nhất, giết liền mười hai gã lục y, phá thủng vòng vây, tiến lên đồi cây. Phe đối phương cuống cuồng đuổi theo sát nút, quyết không tha. Dường như chúng được lệnh phải giết được chàng bằng bất cứ giá nào.
Tiếng chân người thình thịch và tiếng chửi rủa cứ bám theo nên đôi nam thanh nữ tú vẫn phải cắm đầu mà chạy. Phía sau đồi thông là một cánh rừng nguyên sinh rậm rạp, ngoài tùng bách còn có cả những loài cây phương Bắc khác, thảm thực vật phía dưới phong phú và rậm rạp.
Nhương Thư và Lâm Đại Ngọc không còn cách nào khác là chui vào đấy. Chàng vung kiếm chặt những cành ngang để mở đường, cùng Lâm Đại Ngọc vào sâu vài dặm thì không còn nghe tiếng đối phương nữa. Hai người dừng bước thở hổn hển, nhìn nhau cười, mừng vì thoát nạn.
Họ ngồi xuống hai tảng đá, nghỉ ngơi và quán sát nơi mình đến. Khu vực này cây cối khá thưa thớt, mặt đất bằng phẳng, ít bụi rậm, lại có cả một hồ nước trong xanh, đường kính rộng độ bốn năm trượng. Trời đã xế chiều, ánh tà dương không xuyên qua nổi rừng cây rậm rạp chung quanh, khiến quang cảnh có phần âm u. Tuy nhiên, bầu trời phía trên đầu hai người đã trong sáng lại chứ không đe doạ đổ mưa như lúc trưa nữa.
Nhìn gương mặt lem luốc và y phục rách nát đẫm mồ hôi của Lâm Đại Ngọc, Nhương Thư cười bảo:
- Tiên Tử hãy xuống ao tắm rửa, tại hạ quay lại xem phe địch đã rút hết chưa?
Lâm Đại Ngọc thẹn thùng gật đầu, yểu điệu đi về phía hồ nước. Tay nải vẫn còn trên vai nên giờ đây nàng mới có quần áo sạch mà thay! Nhương Thư đi khuất, Lâm Đại Ngọc nhanh tay thoát y, nhảy xống hồ, khẽ run lên vì nước lạnh toát. Đáy hồ rất sâu nên chân nàng không chạm đáy, đứng lửng lơ mà kỳ cọ, tắm gội. Nàng vuốt ve đôi gò nhũ phong săn chắc, tròn trịa và tự nhủ rằng mình vẫn còn trẻ trưng, dù tuổi đã ba mươi. Điều này giúp nàng thêm can đảm để dám mơ mộng đến Nhương Thư.
Thực ra, Bạch Ngọc Tiên Tử xinh đẹp chẳng kém HỔ Hồng Nhan. Nhan sắc của nữ nhân vốn là cái khó thẩm định, so sánh nhất trên đời! Mỹ nhân là vật sống chứ chẳng phải là tượng đá, nụ cười, ánh mắt, nét mặt, ngôn từ của họ là một phần trong nhan sắc Ngọc Trâm tươi tắn, hoạt bát như hoa Xuân, còn Đại Ngọc u sầu, đằm thắm như Cúc thu, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Bạch Ngọc Tiên Tử thích thú vẫy vùng. Bơi quanh hồ, thân hình trắng phau, thon dài cứ thấp thoáng dưới làn nước bạc, trông quyến rũ lạ lùng. Nhưng khi đến giữa hồ, nàng chợt phát hiện mình đã rơi vào vùng xoáy nước rất mạnh, hung hãn lôi nàng xuống đáy. Lâm Đại Ngọc kinh hoàng rú thất thanh, chân tay quạt nước cố bơi ra khỏi vũng xáy chết người .
Nhương Thư đã nghe thấy, vội quay lại, lướt nhanh như tên bắn, và tung mình vượt khoảng cách hai trượng rưởi, tả thủ nắm tay nàng lôi đi. Công lực của Nhương Thư rất thâm hậu, bàn tay như mái chèo quay tít, nên đã thắng được sức hút của guồng xoáy, đưa Đại Ngọc thoát ra.
Tiên Tử ngợp nước nên đã ngất xỉu, Nhương Thư vội đưa nàng lên bờ, đặt tạm xuống bãi cỏ, trải nhanh áo choàng rồi bồng nàng để lên. Sau những động tác cần thết, Lâm Đại Ngọc hồi tỉnh, hổ thẹn nằm xấp xuống mà khóc rưng rức !
Nhương Thư lấy y phục sạch trải lên người nàng rồi xuống hồ tắm gội. Dĩ nhiên chàng không dám ra giữa hồ, chỉ nhìn về phía ấy mà thắc mắc, vì nước ao tù làm gì có xoáy?
Quay lại vẫn thấy Lâm Đại Ngọc nằm im thút thít, Nhương Thư thở dài, lên bờ lau khô người, thay y phục rồi nằm xuống cạnh nàng. áo choàng của khách giang hồ thường rộng đến gần sải tay, đủ chỗ cho hai người. Chàng nằm nghiêng, vuốt ve thân hình mượt mà của Đại Ngọc.
Nàng thôi khóc trở mình ôm lấy chàng, lát sau mạnh dạn lần cởi áo Nhương Thư.
Cuộc ái ân khởi đầu lặng lẽ, đầu chàng rộn rã những âm thanh hoan lạc. Mãi đến sẫm tối, Nhương Thư mới chịu rời tấm thân nồng nàn, khêu gợi của Bạch Ngọc Tiên Tử, đi tìm củi nhóm lửa.
Đêm ấy, tuy bụng đói nhưng hai người vẫn đủ sức mây mưa, sau khi nuốt vài viên linh đan dỡ dạ. Sáng ra, Nhương Thư bị đánh thức bởi tiếng chim rừng ríu rít, tỉnh dậy trước, nhẹ nhàng gỡ vòng tay người ngọc mà ngồi lên. Sương thu ướt đẫm tấm chăn, là chiếc áo choàng thứ hai, nhưng không làm lạnh giá nổi da thịt của những kể có nội công thâm hậu như Nhương Thư và Đại Ngọc!
Nhương Thư bước xuống ngâm mình và rửa mặt, nghe tâm hồn sảng khoái, thư thái, minh mẫn phi thường! Phải chăng những trận ái ân đêm qua đã như ánh dương xua bớt mây mù trong tiềm thức u ám của chàng? Hoặc đấy chính là diệu dụng của việc quân bình âm dương?
Nhương Thư không rõ, chỉ biết giờ đây lòng mình thanh thản, bao dung hơn trước bội phần. Dường như, kỷ niệm đầy máu và nước mắt của một quãng đời thơ ấu đày đọa đã nhạt mờ đi, không còn ám ảnh tâm hồn chàng nữa !
Sau khi cha chàng Tần Tử Chính chết giữa rừng vắng. Nhương Thư thư đã lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, ăn xin để sống qua ngày, chịu vô vàn tủi nhục. Trời cao có mắt nên một đứa bé năm tuổi mới tồn tại được ba năm, sống sót đến lúc được Phật đăng thượng Nhân cứu vớt.
Mặc xong y phục, Nhương Thư phát hiện Bạch Ngọc Tiên Tử khẽ rên lên vì lạnh Cái đói đã làm giảm sút khả năng đề kháng của cơ thể nàng. Nhương Thư thì khác, chàng luyện thần công Phật môn, thường phải tịnh cốc sáu bảy ngày nên đã quen. Nhương Thư mỉm cười khi thấy mặt hoa nhăn nhó trông rất đáng yêu, liền nằm xuống chui vào áo choàng, ôm nàng để sưởi ấm cho cơ thể mỹ nhân yếu đuối Đại Ngọc ngái ngủ nép sát vào người tình lang rồi ngủ thiếp đi. Hai khắc sau, bình minh đã le lói xuyên qua tàn cây, rọi đến chỗ họ . Nhương Thư đánh thức người đẹp lười biếng bằng cách kéo mép áo choàng xuống, để gió thu ve vuốt đồi ngực mịn màng, ngồn ngộn kia!
Nhương Thư ngắm không chán mắt, lòng nổi sóng tình, đưa tay mơn man đôi tạo vật diệu kỳ. Bạch Ngọc Tiên Tử rùng mình mở mắt, tình tứ trách móc:
- Tướng công không đói sao? Thiếp đã rã ruột, sức đâu mà hầu hạ chàng nữa?
Nhương Thư ngượng ngùng ngồi lên, gượng cười chữa thẹn:
- Mỗi lần đến giai đoạn luyện công quan trọng, ta thường phải nhịn đói vài ngày nên quen!
Bạch Ngọc Tiên Tử vệ sinh, thay y phục rất nhanh. Hai người nắm tay nhau rời khỏi khu rừng, nhưng lạ thay, họ đi một hồi lâu lại trở về bên hồ nước!
Nhương Thư cười khổ:
- Té ra chiều qua chúng ta vô tình đâm vào một trận kỳ môn vây quanh hồ nước!
Không ra được thì chắc là chết đói mất!
Đại Ngọc đang đắm chìm trong hạnh phúc nên rất lạc quan, bật cười khúc khích nói đùa:
- Thiếp sẽ ăn thịt tướng công như loài Đường Lang vậy?
Đường Lang chính là bọ ngựa, con mái thường ăn thịt con trống sau khi giao hợp! Nhương Thư trưng hậu, ít lời, chỉ cười thôi! Chàng dựa vào hướng mặt trời, kéo Đại Ngọc tìm cách phá trận lần nữa, song chỉ hoài công!
Hai người đều đói ruột, nghĩ đến chuyện kiếm thực phẩm trước đã. Bụng rỗng thì chẳng thể là được gì! Khổ thay, trong phạm vi trận pháp chẳng hề có thú rừng, và dưới hồ cũng vắng bóng cá tôm!
Nhương Thư đã lặn xuống tìm kiếm mà không thấy một sinh vật nào, dù là một c on tép nhỏ !
Đôi uyên ương lại phải nuối những viên thuốc trị thương cuối cùng để chống đói Ngoài tam thất, trong ấy có cả những dược vị bổ dưỡng như sâm nhung, hà thủ Oâ nên khá nhi êu năng lượng .
Nhương Thư đã trèo lên ngọn cây cao nhất, nhìn ra ngoài, song chỉ thấy khói sương mù mịt, cả vầng dương cũng biết mất, dù lúc chàng ở dưới đất nó vẫn còn rực rỡ. Tuy chán nản nhưng chàng cũng phải khâm phục tài trí của kẻ bày ra trận pháp này! Nhương Thư chợt nhớ lời sư phụ kể về một bậc kỳ nhân là Trại Tôn Tấn Vệ Hồng.
Họ Vệ là người giỏi trận đồ nhất thiên hạ, biệt tích chục năm, nếu còn sống thì tuổi đã bảy mươi sáu. Nhương Thư xúc động linh cơ, vận công nói lớn:
- Vệ tiền bối! Kẻ hậu sinh bị truy đuổi nên mới lạc vào cấm địa! Mong tiền bối nể mặt gia sư là Phật đăng thượng Nhân mà tha thứ cho !
chàng chỉ hành động cầu may, nào ngờ lại có tác dụng. Một giọng già nua vọng đến:
- Té ra tiểu tử ngươi là đệ tử của lão Đinh Doãn đấy ư?
Đinh Doãn chính là thực danh của Thượng Nhân, chỉ những người rất thân mới biết được! Bạch Ngọc Tiên Tử chết điếng vì hổ thẹn, tự hỏi lão già chết toi kia có rình xem cảnh mây mưa của nàng và Nhương Thư hay không?
Trên kia, Nhương Thư phấn khởi đáp :
- Vãn bối là Tần Nhương Thư và thuyết thê Lâm Đại Ngọc xin bái kiến Vệ tiền bối!
Trại Tôn Tân lặng im một lúc lâu mới hỏi:
- Sư phụ ngươi còn tráng kiện hay đã ngỏm rồi?
Nhương Thư nghiêm trang đáp:
- Bẩm tiền bối! Gia sư đã nhập niết bàn hồi cuối năm ngoái!
Vệ Hồng thở dài thương tiếc, âm thanh rất rõ, cứ như lão đang đối diện với Nhương Thư. Vài con ong vo ve quanh đầu đe doạ, khiến chàng họ Tần sợ hãi, chuồn mau xuống đất. Đại Ngọc ân cần phủi bụi, gỡ mạnh nhện trên tóc và y phục của tình quân, âu yếm nói:
- May quá ! Không ngờ lại gặp người quen! Thiếp ăn ít nhưng không thể nhịn đó i được !
Vẻ hí hửng của nàng có chút ngây thơ của trẻ con, khiến Nhương Thư bật cười:
- Ta mới là kẻ gặp may vì không bị nàng ăn thịt!
Đại Ngọc thẹn thùng định trả đũa thì Trại Tôn Tần lên tiếng:
- Này Tần hiền diệt! Nể mặt Thượng Nhân, lão phu sẽ phá lệ tha cho hai ngươi. Nhưng hiền diệt phải là giúp ta một việc!
Nhương Thư vội đáp:
- Xin tiền bối cứ dạy!
Vệ Hồng chậm rãi nói:
- Mười năm trước lão phu luyện công sai đường, Nhâm Mạch bị tổn thương, thị lực giảm dần. Lão phu tinh thông y thuật nên biết rằng mật của loài Bạch Thủy Xà Vương có thể chữa lành, liền ra sức truy tầm. Khi đến đây lão phu phát hiện có một con dưới hồ nước, nhưng mắt đã quá kém nên không sao bắt được. Đúng giờ Ngọ, phiền Tần hiền diệt hãy xuống hồ mang Bạch Thủy Xà Vương lên giùm, sống hay chết gì cũng được !
Bạch Ngọc Tiên Tử cướp lời Nhương Thư:
- Bọn vãn bối đang đói đến bủn rủn tứ chi, mong Vệ tiền bối ban cho ít thực phẩm! Có no bụng mới đủ sức thu phục Bạch Thủy Xà Vương!
Trại Tôn Tấn đáp:
- Lão phu sẽ sai thần ưng mang đến cho c ác ngươi ít thịt !
Chỉ lát sau, một con chim ưng lông vàng to lớn, sải rộng đến hơn trượng bay đến, thả xuống một đùi dê hun khói, nguội và cứng ngắc. Nhương Thư rạng rỡ nhặt thêm cành khô bỏ vào đống than đêm qua còn sót, thổi bùng lên rồi nướng lại đùi dê ấy!
Đại Ngọc chứng tỏ sự đảm đang chu đáo của mình bằng cách mở tay nảy lấy ra một lọ muối trắng ! Dĩ nhiên nàng được Nhương Thư khen ngợi. Nàng còn giành thanh trường kiếm, cắt từng miếng thịt trao cho tình lang, dù chẳng ngon lành gì nhưng đang đói nên họ ăn sạch chiếc đùi dê , chỉ trừ xương !
Còn mấy khắc nữa mới đến chính ngọ, Nhương Thư và Đại Ngọc ngồi nghỉ dưới bóng cây. Bạch Ngọc Tiên Tử bỗng cau mày nghĩ ngợi, lát sau chủ động xà vào người Nhương Thư, lả lơi hôn cổ chàng, song lại thì thầm với giọng là lạ:
- Tướng công! Tiên sư đã từng kể về loài Bạch Thủy Xà Vương này! Nó có tuổi thọ rất cao, khi sống đủ ba trăm năm sẽ có lớp da trắng như tuyết, vảy óng ánh bạc, thân dài đến hai trượng và to bằng bắp tay người lớn! Lúc ấy, trên đầu Bạch Thủy Xà Vương mọc ra một nhánh sừng đỏ, giống như nhung lươn vậy! Trong sừng chứa tinh huyết mấy trăm năm của Xà Vương nên rất thần diệu, quý hơn cả mật, giúp cho người luyện võ tăng tiến chân nguyên! Nay Vệ lão chỉ cần mật, tướng công hãy hút lấy giác huyết của Bạch Thủy Xà Vương, coi như tự thưởng công vậy! Và đấy là cách giết nó nhanh chóng nhất !
Nhương Thư vốn chẳng có lòng tham nên phân vân, vì dẫu sao con vật kia cũng thuộc về Trại Tôn Tấn. Đại Ngọc hiểu ý xuống giọng buồn rầu:
- Nếu chàng không thèm công lực thì làm sao thoát chết dưới tay Lã Tập Hiền?
Chẳng lẽ tướng công không thương thiếp và con của chúng ta hay sao?
Nhương Thư rợn tóc gáy, ngơ ngác hỏi:
- Mới gần gũi có một đêm, sao lại mang thai nhanh thế?
Biết Nhương Thư khờ khạo trong việc trai gái, Đại Ngọc giả đò bẽn lẽn:
- Tướng công biết gì mà nói! Việc thụ thai nào có khó khăn! Khi hôm qua chàng liên tục phá thành đoạt lũy khiến thiếp nhiều phen bay bổng? Thiếp linh cảm việc có con là chắc chắn đến chín phần!
Nhương Thư tưởng thật, tư lự nói:
- Nếu vậy thì ta không thể thí mạng được nữa! Con thơ nào có tội tình gì mà phải sớm chịu cảnh mồ côi?
Đại Ngọc giấu nụ cười đắc ý bằng cách hôn lên má chàng thắm thiết, rồi dặn luôn:
- Chóp sừng rất mềm, chàng chỉ cần cắn mạnh là đứt ngay. Trại Tôn Tấn có nhìn bên ngoài cũng chẳng phát hiện được !
Nhương Thư gật đầu, bất giác đặt tay lên bụng Đại Ngọc như nghe ngóng thai nhi Nàng bật cười ngặt nghẽo:
- Phải bốn năm tháng nữa con chúng ta mới cựa quậy! Tướng công thực là ngốc!
Nhương Thư cũng tự cười mình, hôn nàng tới tấp. Hai người âu yếm nhau đến lúc vầng thái dương chiếu thẳng xuống mặt hồ. Và Trại Tôn Tấn cũng lên tiếng nhắc nhở:
- Nhương Thư! Đã đến lúc rồi đấy!
Bạch Thủy Xà Vương sẽ rời hang lên tắm nắng!
Nhương Thư liền cởi áo và giày vải, chỉ mặc quần dài, cầm kiếm trầm mình xuống nước, nhổ bụi cỏ ven hồ che đầu, bơi ra giữa. Lúc này, vùng trưng tâm hồ bỗng xao động xoáy tít, bọt nước bắn tung toé chứ không lặng lẽ như hôm qua.
Sau đó, một con rắn to lớn, dài ngoằng, vẩy trắng bạc, nổi lên, bơi thành vòng tròn. Thì ra chính nó đã tạo nên xoáy nước bằng lối đùa giỡn kỳ lạ kia.
Nhương Thư lặn sâu xuống, lao đến nhanh như cá kình, trồi lên ngay phía dưới quái vật, thọc kiếm đâm vào bụng nó. Nào ngờ, da Bạch Thủy Xà Vương cực kỳ bền chắc, cứ như lớp vẩy hóa sừng, đẩy mũi kiếm trượt đi. Bạch Thủy Xà Vương lập tức quấn lấy thân hình gã hỗn láo kia, và há rộng cái miệng gớm ghiếc táp vào đầu con mồi.
Trên bờ Bạch Ngọc Tiên Tử sợ hãi thét vang trước cảnh ngộ hiểm nghèo của Nhương Thư, nàng đâu ngờ con vật ấy lại lợi hại đến thế! Song Nhương Thư đã kịp vung kiếm thọc xuống họng quái xà, nó đau đớn ngậm miệng lại, rút đầu về, giật mất vũ khí của chàng.
Bạch Thủy Xà Vương lắc đầu mấy cái, cố nhả thanh thép kia ra, rồi há họng tiếp tục đớp Nhương Thư. Lâm nguy bất loạn, chàng trai họ Tần nghiêng đầu né tránh, dùng hai tay chụp lấy cổ Bạch Thủy Xà Vương bóp mạnh và kéo ghì xuống. Nhờ dày công luyện tập cả nội ngoại công bàn tay Nhương Thư cứng như thép, lực đạo mạnh đến mấy trăm cân, khiến con vật vô cùng đau đớn. Thân nó hơi lỏng ra, Nhương Thư liền trườn lên, cố cắn vào mũi nhọn của chiếc sừng đỏ rực. Nếu Bạch Ngọc Tiên Tử không dặn trước thì lúc này chàng đã chẳng biết làm thế nào để giết Bạch Thủy Xà Vương. Nó mà kịp lặn xuống đáy là chàng tiêu đời!
Giờ thì chẳng phải vì tham lam mà vì tính mạng của mình, Nhương Thư hút lấy hút để chất dịch tanh hôi trong chiếc sừng rắn. Dường như dòng tinh huyết ấy thông với não rắn, nên khi mất đi, rắn nước khổng lồ liền mê man, không cựa quậy được nữa !
Nhương Thư mừng rỡ lôi nó vào bờ.
Đại Ngọc cười mà nước mắt nhạt nhòa:
- Tướng công là thiếp sợ muốn chết được !
Nhương Thư cười đáp:
- Không ngờ da nó cứng rắn đến nỗi kiếm đâm không thủng!
Đại Ngọc lộ vẻ ăn năn:
- Tiên sư không hề nói đến việc ấy nên thiếp chẳng thể cảnh báo tướng công!
Và nàng chợt biến sắc lẩm bẩm:
- Lạ thực! Vì sao Trại Tôn Tân đã nhiều phen bắt hụt Bạch Thủy Xà Vương lại chẳng nói cho tướng công biết rằng da nó không sợ gươm đao?
Nhương Thư biện minh dúm họ Vệ:
- Có lẽ Vệ tiền bối chưa lần nào đâm trứng quái xà cho nên không biết!
Chàng vận công cao giọng:
- Vệ tiền bối! Tiểu diệt đã giết được Bạch Thủy Xà Vương!
Giọng nói già nua của Trại Tôn Tân chẳng c Où chút vui mừng :
- Tốt lắm! Ngươi hãy mang nó đi về hướng Đông, khi đến gốc cây bách lớn nhất thì đi theo thứ tự sau: tả ba bước, tiến năm bước, rồi sang hữu hai bước, sau đó lại tiến năm bước !
Nhương Thư vác phần đầu, Đại Ngọc nắm chóp đuôi Bạch Thủy Xà Vương, đi về hướng Đông, theo đúng chỉ dẫn của Vệ Hồng mà vượt trận. Gần khắc sau, trước mặt họ xuất hiện một tòa nhà lục giác xây bằng đá núi, mái ngói đầy lá mục và những loại cây ký sinh! Trên tường cũng chi chít dây leo, như màn treo cửa.
Tòa thạch ốc quái dị kia nằm dưới một vòm cây rậm rạp, đến nỗi ánh dương quang không xuyên qua nổi. Do vậy, không gian trong nhà cực kỳ tăm tối dù cửa chính rộng mở. Nhương Thư ngỡ ngàng dừng bước, lên tiếng gọi:
- Vệ tiền bối!
Lão ta đáp ngay:
- Ta đây! Hai ngươi cứ đi thẳng vào nhà!
Hai kẻ hậu sinh vội tuân mệnh tiến vào Và một mùi hương hăng hắc xông vào mũi họ, khiến Nhương Thư và Đại Ngọc ngã lăn ra bất tỉnh. Lát sau, Nhương Thư mở mắt, bàng hoàng nhận ra mình bị trói chặt chân tay, treo lơ lửng cách mặt đất vài gang. Cách chàng không xa là Bạch Ngọc Tiên Tử, cũng lâm vào tình trạng như thế, nhưng thân thể lõa lồ, chẳng còn một mảnh vải.
Không gian trước thạch thất đã sáng sủa hơn vì năm khung cửa sổ đều đã được mở toang. Nhờ vậy, Nhương Thư nhìn thấy gương mặt của lão già áo xanh đang ngồi uống rượn, ngắm nghía thân hình nõn nà của Đại Ngọc, chàng chết điếng người, thét lên lạc giọng:
- Trác Thiên Lộc!
Bao ngày tìm kiếm kẻ thù, nào ngờ hôm nay lại rơi vào tay lão! Nhương Thư điên cuồng vùng vẫy nhưng huyệt đạo đã bị phong tỏa, chân khí bế tắc và tứ chi mềm rũ!
Trác Thiên Lộc cười khanh khách, bước đến vuốt ve những đường cong trên cơ thể Đại Ngọc, mắt loé lên những tia dâm đãng và khoái trá. May mà Đại Ngọc công lực yếu kém nên vẫn chưa tỉnh lại mà cảm nhận được nỗi nhục nhã thống khổ Nhương Thư đau lòng vô hạn khi thấy họ Trác mạnh tay dày vò da thịt người yêu, chàng phẫn nộ mắng:
- Trác Thiên Lộc! Vì sao một bậc cao tăng như lão mà lại trở nên đốn mạt đến mức ấy? Mẹ con ta nào có thù oán già với lão?
Họ Trác cười ghê rợn:
- Mẹ con ngươi không có tội nhưng cha ngươi thì đáng bị lão phu băm vằm muôn mảnh! Nay Tần Tử Chính đã chết, lão phu đành phải trút hận lên đầu vợ con của hắn!
Nhương Thư kinh ngạc hỏi:
- Nói láo! Lão và phụ thân ta nào có quen biết nhau? Ta về Ngũ Đài Sơn học nghệ khi gia phụ qua đời đã ba bốn năm!
Trác Thiên Lộc lắc đầu, đưa tay sờ vết thẹo trên mặt, mắt chói lọi hận thù, nói bằng giọng oán hờn:
- Ba mươi năm trước, lão phu và tên khốn khiếp Tần Tử Chính có chân trong một tổ chức giết mướn có tên gọi Báo ứng Hội. Ngày ấy, ta và hắn được cử đến Hán Trung hạ sát Tứ Xuyên Thần Kích Mao Tâm ương, để chiếm tấm họa đồ dẫn đến lăng mộ của Thần Quang Chân Nhân Lão phu định mang về dâng lên hội chủ, nào ngờ giữa đường bị Tần Tử Chính ám toán rồi cướp lấy!
May mà sư phụ đi ngang qua, cứu mạng lão phu. Ta biết mình không thể quay lại với Báo ứng Hội nên dấu nhem sự việc, chỉ nói rằng mình bị kẻ cướp, rồi khẩn cầu Thượng Nhân thu nạp. Thù xưa tưởng chừng đã bị xoá nhòa bởi kệ kinh, nào ngờ mẹ con ngươi lại dẫn xác đến Ngũ Đài Sơn. Cách nay ba mươi năm, lão phu tình cờ được nghe sư phụ tiết lộ tên cha ngươi là Tần Tử Chính, cộng với đôi vành tai của ngươi, ta biết chẳng thể lầm!
Thế là lửa hờn bùng cháy. Trác mỗ liền dâm sát con mụ ni cô hơ hớ là mẹ mi !
Nhương Thư cố dằn cơn giận điên cuồng vì nhận ra Lâm Đại Ngọc đã tỉnh lại và nháy mắt ra hiệu. Hình như nàng đang toan tính việc thoát thân? Như đã nói ở đoạn trên, sau khi ân ái với Tiên Tử, tâm hồn Nhương Thư bớt cuồng nộ hơn xưa, nên giờ đây mới nhẫn nhục được Chàng run rẩy nó i :
- Nhưng vì sao lão lại có mặt nơi này?
Trác Thiên Lộc đắc ý đáp:
- Trại Tôn Tần đã từng gởi thư cầu viện sư phụ, đúng lúc ta đang định giết mẹ ngươi rồi bỏ trốn! Vì thế, ta bóc thư xem rồi hủy đi. Sau khi rời Ngũ Đài Sơn, ta đến thẳng đây, giả vờ nói rằng được sư phụ cử đi. Nhân lúc Vệ Hồng sơ ý. Ta giết lão, đoạt lấy chỗ này!
Nhương Thư lại nhận thêm cái nháy mắt của Đại Ngọc nên tìm cách kéo dài thời gian:
- Vậy sao trong ba năm qua lão không hề xuống hồ bắt Bạch Thủy Xà Vương thu lấy mật?
Trác Thiên Lộc cười hăng hắc nói:
- Ngươi không nhớ rằng lão phu suốt đời sợ rắn hay sao? Vả lại lão phu đâu có kém mắt mà cần đến mật của Bạch Thủy Xà Vương? Khi ngươi lên tiếng, ta mới nghĩ ra độc kế, vừa có mật rắn vừa diệt được mầm họa!
Chợt lão cau mày:
- Nhương Thư! Ta đã lục soát khắp ni am mà không thấy tấm bản đồ ! Mẹ ngươi không giữ thì chẳng lẽ là ngươi?
Nhương Thư cười nhạt:
- Lúc ta về chùa Phật Quang nào có mang theo vật gì đâu?
Tuy nói thế nhưng lòng chàng lại nhớ đến mảnh đồng tiền khắc đầy những nét kỳ lạ mà mình đeo nơi cổ hồi nhỏ để lấy phước, kỷ vật được chàng giữ gìn suốt ba năm lưu lạc, đến tuổi mười lăm mới tháo ra, hiện cất trong tăng xá ở chùa Phật Quang ! Phải chăng cha chàng đã thu nhỏ họa đồ lại, khắc lại trên một mặt của đồng tiền?
Bạch Ngọc Tiên Tử đã giải được huyệt đạo, cong người lên đạp vào Trác Thiên Lộc. Nếu trứng chiêu này thì lão không chết cũng trọng thương! Đáng tiếc thay họ Trác võ nghệ cao cường, vừa nghe tiếng dây chão kẽo kẹt là quay lại đỡ đòn ngay. Song thủ của lão đánh bạt đôi chân, rồi điểm nhanh những huyệt trên đùi và sườn đối phương.
Đại Ngọc tức tối và tiếc nuối cơ hội ngàn vàng này, bật khóc nức nở. Nhưng Nhương Thư thì lại thở dài thườn thượt.
Trác Thiên Lộc cười đanh ác:
- Nhương Thư! Lão phu sẽ cho ngươi được chứng kiến cảnh phong lưu hoan lạc lần cuối cùng! Ngươi càng đau khổ thì lão phu càng thấy khoái!
Nói xong, lão vươn tay khóa hàm Bạch Ngọc Tiên Tử, đề phòng nàng cắn lưỡi tự sát Lão tháo dây trói, đặt thân hình mềm rũ của Đại Ngọc xuống sàn nhà, rồi cởi y phục, chuẩn bị cưỡng bức nàng!
Dòng lệ tuyệt vọng, đau đớn tràn ra khỏi đôi mắt bi thương của nữ nhân.
Cảnh tượng này đã gợi lại cái chết thảm của mẹ hiền, khiến cơn giận sôi sục trong lòng Nhương Thư, song không có cách phát tiết, uất khí công tâm làm chàng thét lên một tiếng rồi hộc máu thành vòi.
Tình cờ, dòng máu nóng kia bay vào mặt Trác Thiên Lộc, chạm trứng mắt phải. Lão giận dữ, nhặt áo lau mặt, và kinh hãi vì cảm giác đau rát nơi tròng mắt, cứ như bị sát muối.
Đồng thời, sau khi hộc máu, Nhương Thư phát hiện một luồng chân khí nóng hổi từ đan điền cuồn cuộc lưu chuyển khắp người, giải tỏa những huyệt đạo bị phong bế. Công lực phục hồi, chàng mừng rỡ uốn người, phóng song cước vào ngực lão họ Trác. Lão đang khổ sở vì con mắt mờ đi và đau nhức khôn tả nên không tránh kịp chỉ đưa tay đỡ. Thân thể Trác Thiên Lộc văng vào vách tường. Lão hộc máu, nhưng vẫn còn đủ sức khập khiễng bỏ chạy.
Nhương Thư giật đứt dây trói tay, hạ xuống đất, lao ra ngoài để truy đuổi kẻ đại thù, nhưng lão ác ôn đã biệt tăm trong rừng cây rậm rạp. Lo cho Đại Ngọc, Nhương Thư bỏ cuộc quay lại dược thất.
Được giải huyệt xong, nàng ôm chàng khóc ngất. Nữ nhân dẫu thùy mị cũng có lúc nổi tam bành, Đại Ngọc vừa khóc vừa chửi:
- TỔ bà lão chết tiệt họ Trác! Thiếp mà bắt được lão thì sẽ móc mắt, chặt tay rồi mới giết!
Nhương Thư phì cười:
- Sao lại dã man thế?
Đại Ngọc hậm hực:
- Lão quỷ ấy làm gì thiếp bộ chàng không thấy sao?
Biết chắc Trác Thiên Lộc thọ trọng thương, không dám quay lại. Hai người quyết định ở lại đây thêm một đêm.
Giường chiếu đầy đủ, thực phẩm dồi dào.
Thạch ốc quả là một tổ ấm lý tưởng.
Mặc xong y phục, Lâm Đại Ngọc tò mò hỏi:
- Chẳng lẽ tướng công giỏi đến mức có thể phun máu mà đánh mù mắt Trác lão quỷ?
Nhương Thư đã suy nghĩ nhiều về điều này nên cười khổ:
- Không phải đâu! Hình như trong máu của ta có độc nên mắt lão Trác mới bị đau đớn như vậy !
Đại Ngọc kinh hãi lẩm bẩm:
- Hay là tinh huyết của Bạch Thủy Xà Vương mang độc tính?
Nàng vội bước đến kệ sách trên vách lục lọi, tìm được quyển Sơn Hải Kinh, lật ra xem. Đến trang nói về Bạch Thủy Xà vương nàng thấy có đoạn viết rằng "Tinh huyết lỏng chứa trong sừng Bạch Thủy Xà Vương ba trăm tuổi có lẽ là dược vị rất trân quý, song nó lại tuyệt độc nên dược tính chưa được nghiên cứu chu đáo!" Bạch Ngọc Tiên Tử rụng rời tay chân, mếu máo nói:
- Thiếp đã hại tướng công rồi!
Nhương Thư cũng đứng bên cùng đọc liền vỗ về:
- Ta thấy cơ thể vẫn khoẻ mạnh chứ đâu có hiện tượng gì khác! Có lẽ Quỷ Nấm ăn được năm xưa đã giúp ta kháng cự lại chất độc của máu sừng rắn!
Và chàng tươi cười:
- Hơn nữa, nến không nhờ máu chứa độc thì giờ đây ta cùng nàng đã sống dở chết dở dưới tay Trác Thiên Lộc rồi!
Đại Ngọc đỏ mặt, bắt Nhương Thư phải tĩnh tọa kiểm tra kinh mạch, trong lúc này nàng lôi xác Bạch Thủy Xà Vương ra phía sau mổ bụng. Nhương Thư tọa công thấy công lực tăng chút ít, kinh mạch thông suốt, có điều da thịt chàng dường như hơi bị căng cứng hơn bình thường! Nhương Thư biết là chuyện lạ nhưng không nói cho Đại Ngọc nghe làm gì Nữ nhân vốn hay lo lắng vu vơ, nhỏ xé ra to!
Mùi xào nấu từ căn bếp nhỏ phía động thạch ốc bay vào mũi Nhương Thư khiến con tỳ vị của chàng sôi sục. Lát sau, Đại Ngọc bưng mâm cơm lên đến, ríu rít nói:
- Tướng công! Nơi đây có cả loại gạo ngon của phương nam, gia vị, thịt khô đầy đủ, chúng ta ở lại đây cả tháng cũng không lo đói!
Nhương Thư ngỡ ngàng:
- Sao lại thế!? Sáng mai chúng ta sẽ rời đây rồi mà?
Bạch Ngọc Tiên Tử xụ mặt:
- Luyện võ ở đây cũng được, thiếp còn có điều kiện hầu hạ tướng công! Về chùa rồi gần nhau sao tiện?
Nhương Thư thực thà đáp:
- Nhưng máu của ta rất độc, đâu thể ân ái với nàng được?
Đại Ngọc hổ thẹn nguýt chàng:
- Tướng công kỳ cục quá! Thiếp nào phải vì chuyện ấy?
Rồi nàng đánh trống lảng, bới cơm, gắp thịt rắn cho Nhương Thư, rồi thúc g!ục :
- Tướng công ăn nhiều vào! Tim gan của Bạch Thủy Xà Vương chắc là rất bổ dưỡng!
Chợt nhớ đến túi mật, nàng tất tả chạy xuống bếp lấy lên, thuận tay sách luôn vò rượu Đại Ngọc cười bảo:
- Thiếp quả là đãng trí! Suýt nữa thì quên mất vật báu này! Tướng công hãy nuốt nó đi!
Biết nàng hối hận nên tìm đủ mọi cách để đền bù, Nhương Thư đành phải chiều ý, không hề phản bác, dù chẳng rõ hậu quả ra sao?
ăn xong, Đại Ngọc lo quét dọn tổ ấm, Nhương Thư thì đi một vòng quan sát địa thế, rồi quay lại xem tủ sách của Trại Tôn Tần. Chàng vốn là kẻ ham đọc nên thường mặc áo thư sinh. Nay nhìn thấy hàng trăm cuốn sách vở, liền háo hức lật xem.
Ngoài binh thư và sách kỳ môn trận pháp còn hiện diện vài chục quyển kinh phật. Trong đó có một quyển Đại Bát Nhã, bản in đời Tống. Nhương Thư tò mò muốn biết nó có khác bản in đầu tiên hay không, nên lục tay nải, lấy hộp gỗ đựng kinh mà Tất Cung Bảo đã tặng chàng ra so sánh!
Nhờ vậy chàng phát hiện một tờ rời kẹp trong quyển kinh đời Đường chi chít mấy trăm nét chữ rất nhỏ. Vẻ mặt kinh ngạc của Nhương Thư đã khiến Đại Ngọc chạy đến. Nghe chàng giải thích xong, Đại Ngọc căng mắt đọc thử. Nhận ra toàn là tên huyệt đạo và kinh lạc, nàng cau mày bảo:
- Tướng công! Có lẽ đây là một loại thần công thất truyền mà tất trang chủ muốn tặng chàng để đền ơn cứu mạng.
Giấy này không được tốt, Oá vàng và sắp mủn ra, chàng hãy cố học thuộc, sau này sẽ nghiên cứu!
Nhương Thư nghe lời nàng, cầm lấy lẩm nhẩm ghi vào óc. Thơ văn có câu cú mạch lạc nên dễ dàng nhớ, nhưng khẩu quyết võ công thì lủng củng, trúc trắc, chỉ nhớ sai thứ tự một huyệt là đủ vong mạng! Nửa canh giờ sau, Nhương Thư mới tự tin đã thuộc lòng, và mảnh giấy trên tay cũng rách nát. Chàng cẩn thận nâng niu, định ghép nó lại, bỏ vào quyển kinh thì Đại Ngọc hỏi:
- Tướng công thuộc chưa, đọc thử cho thiếp kiểm tra?
Nhương Thư liền đưa mảnh giấy cho nàng, đọc lại chẳng sai một chữ, Đại Ngọc mỉm cười, xoa tay biến tờ giấy kia thành bột và nói:
- Nó là của riêng tướng công đấy!
Nhương Thư bật cười:
- Đúng là đàn bà! Lúc nào cũng chỉ muốn trượng phu của mình hơn thiên hạ!
Bạch Ngọc Tiên Tử tủm tỉm đáp:
- Trung hậu như tướng công thì làm sao hiểu rõ lòng dạ nữ nhân?
Vũ khí đã rơi xuống đáy hồ. Nhương Thư bèn lấy thanh kiếm cũ treo trên vách xuống dùng. Có lẽ đây là di vật của Trại Tôn Tấn? Chàng luyện kiếm đến khi hoàng hôn tím lịm mới thôi. Cơm nước đã sẵn sàng, ngoài thịt Bạch Thủy Xà Vương kho còn có tô canh rau dại.Cảnh ấm cúng và hạnh phúc này đã khiến Nhương Thư thêm yêu mến Bạch Ngọc Tiên Tử. Tình cảm càng nồng thắm, sâu đậm hơn những gì chàng dành cho chị em nhà họ Điền. Tình yêu vốn là điều kỳ diệu nhất thế gian, không có quy luật và vượt ngoài yếu tố thời gian.
Tối hôm ấy, trò chuyện mãi mà chẳng thấy tướng công phất cờ khởi nghĩa, Đại Ngọc tấm tức bật khóc:
- Phải chăng tướng công chê thân thể thiếp đã Oâ uế dưới tay họ Trác nên không thèm đụng đến nữa?
Nhương Thư thở dài:
- Nào phải vậy! Ta chi sợ di hại đến nàng đấy thôi!
Đại Ngọc phụng phịu nói:
- Thiếp có cắn chàng chảy máu đâu mà ngộ độc?
Rồi nàng chủ động thoát y dâng hiến thân hình rũ mềm, gợi cảm cho Nhương Thư. Nàng nồng nhiệt gấp bội đêm qua, như muốn xóa tan nỗi ám ảnh của cuộc cưỡng bức lúc trưa? Lòng dạ Nhương Thư trong sáng, quảng đại nên không tỳ vết bởi tai nạn ấy, hào hứng đáp ứng, làm nguôi ngoại nỗi hổ thẹn và mặc cảm thất tiết của ái thê!
Lễ giáo thời xưa rất nghiêm khắc, khi nữ nhân có chồng mà bị gã đàn ông khác lột xiêm y, sờ mó cơ thể, thì cũng xem như bị hiếp. Nhiều người tự vẫn vì nhục nhã, dù trượng phu không hề bắt lỗi! Có lẽ Nhương Thư hiểu điều ấy nên nâng niu mãi người ngọc, mây mưa đến tận nửa đêm.
Đại Ngọc liên tiếp chơi vơi trên đỉnh sóng tình, hiểu rằng Nhương Thư vãn yêu mình như trước, mãn nguyện thiếp đi!
Nhương Thư không hề thấy mệt mỏi, biết ngay đấy là tác dụng của tinh huyết Bạch Thủy Xà Vương.
Cuối tháng mười đôi tình nhân mới rời tổ ấm, đi về Ngũ Đài Sơn, có mặt ở chân núi lúc trưa hôm mười bốn tháng mười một. Theo kế hoạch đã bàn, hai người chia tay nhau ở chốn này, Bạch Ngọc Tiên Tử về Lã Lương Sơn ăn tết với cha già, sang xuân sẽ đến chùa Phật Quang cùng Nhương Thư đi Nam Dương phó hội!
Hồi 6
Danh Chính Tâm Bất Chính
Biển Thước Phục Lương Ma
Lâm Đại Ngọc đi khuất, Nhương Thư vác bọc sách quý của Trại Tôn Tấn để lại, nhanh chóng thượng sơn. Đông về, tuyết phủ trắng những bậc thang của sơn đạo, chẳng hề làm chậm bước chân của một kẻ quen lên xuống! Xa chùa gần năm, nay trở lại, Nhương Thư nghe lòng rộn rã, bồi hồi như đứa con phiêu lãng hồi gia!
Chùa Phật Quang là một trong mười ngôi chùa lớn nổi tiếng ở Ngũ Đài Sơn, được xây dựng từ thời Hiến Văn Đế nhà Bắc Ngụy. Chùa quay mặt về hướng Đông, các công trình lần lượt nằm trên ba tầng bình đài. Đại điện nằm trên bình đài thứ ba, xây năm Đại Trưng thứ mười một nhà Đường (857), sau cùng là vách đá dựng đứng.
Cổng tam quan nằm ở tầng bình đài thấp nhất, gồm ba cửa, giữa lớn, hai bên nhỏ hơn, tượng trưng cho ba cửa giải thoát là Không Môn, VÔ Tướng Môn và VÔ Tác Môn.
ở hai bên cửa, có hai pho tượng Kim Cương lớn, tức Dạ Xoa, cầm binh khí bảo vệ chùa, cũng gọi là "Chấp Kim Cương".
Người đời sau, căn cứ vào truyện Phong Thần Diễn Nghĩa gọi hai pho tượng ấy là "Hanh Cáp Nhị Tướng!". Kỳ thực trong kinh Phật không có tên gọi đó !
Nhương Thư qua cổng tam quan, được bọn tiểu tăng quét tuyết trên sơn đạo mừng rỡ đón chào. Một gã trẻ tuổi mau miệng nói:
- Sư thúc làm gì giờ này mới hồi sơn, khiến cả chùa lo lắng vô cùng? Có bang chủ Cái Bang và Bất Trí Thư Sinh đến chờ đã mấy ngày nay rồi !
Và gã cười hì hì:
- Phen này sư thúc nguy rồi! Có ba vị nữ thí chủ họ Điền vì sư thúc mà đến đây ăn vạ!
Nhương Thư bối rối hỏi lại:
- Huệ Nghi ! Thế họ đang ở đâu?
Gã trợn mắt ra vẻ hào hứng:
- Tám ngày trước ba vị tiểu thư ấy thượng sơn, đòi bái kiến phương trượng.
Trước tiên, họ cúng đường cho chùa ta ngàn lượng vàng công đức. Sau đó mới thú nhận mình là vị hôn thê của sư thúc, xin phép được ở lại để đợi chờ! Phương trượng há miệng mắc quai, đành phải cho họ ngụ ở tiểu xá của sư thúc !
- Hèn gì sư thúc tổ Phật Đăng Thượng Nhân không cho sư thúc xuất gia! Sư thúc mới rời chùa chẳng bao lâu đã mang về đến ba vị hôn thê !
Nhương Thư rầu rĩ đáp:
- sai rồi! Năm chứ không phải chỉ ba đâu!
Trong lúc đám tiểu tăng trợn mắt kinh ngạc, chàng lướt nhanh lên bình đài thứ hai. Kiến trúc trên bình đài này là Thiên Vương Điện, trong thờ tượng Phật Di Lặc ở giữa, chung quanh phật là tượng thần hộ pháp - Vi Đà BỒ Tát và Tứ Thiên Vương. Trước Thiên Vương Điện có hai gác chuông !
Cơ ngơi quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của Phật Quang Tự chính là Đại Hùng Bảo Điện, nằm trên bình đài cao nhất Đại điện này là công trình hiếm có trong nền kiến trúc cổ đại Trung Hoa. Nó gồm bảy gian, dài mười trượng, rộng hơn năm trượng. Mái điện trái đào, góc nhà cất cong lên.
Trong điện có ba mươi chín pho tượng đời Đường. Trên cột và xà có đề từ, trên tường có bích họa. Có thể nói là bốn loại hình nghệ thuật đời Đường đều tập trưng ở đây: kiến trúc, điêu khắc, thư pháp, hội họa! Sau đại điện là các công trình khác như thiền đường, pháp đường, tổ sư đường, phòng phương trượng, tàng kinh các Sơ lược vài nét thế thôi, vì Nhương Thư đã bị ba ả họ Điền túm lấy. Họ đang xúng xính áo cừu dạo trước sân ngắm cảnh thì phát hiện mục tiêu, liền xúm lại níu áo ! Nhương Thư ngượng ngùng gắt:
- Đây là Phật địa, các nàng phải giữ ý!
Điền Uyển Xuân nũng nịu nói:
- Công tử chớ lo! Phương trượng sư huynh rất mến bọn tiểu muội, chẳng la rầy gì đâu!
Bạch Cúc thản nhiên nói:
- Phật tổ ngày xưa cũng có vợ mà?
Mã Lan e ấp hỏi:
- Công tử có gặp gia tỷ hay không?
Nhương Thư giật mình:
- Có! Nhưng ta đã nhờ lão Tào ưng và một người nữa đưa Ngọc Trâm về Tế Nam hồi cuối tháng chín rồi mà!
Uyển Xuân tủm tỉm cười:
- Lúc ấy bọn tiểu muội đã rời nhà, tất nhiên không gặp!
Trong tri khách xá có người gọi vang:
- Tần hiền đệ! Ngươi còn chưa chịu vào nữa hay sao?
Đấy là giọng của VÔ ưu Cái Hầu MỘ Thiên! Thế là ba nàng lúp xúp theo Nhương Thư vào ra mắt các trưởng bối !
Chân Không phương trượng đang hầu trà hai khách quý, hiền hòa nói:
- Sư đệ về trễ vài ngày chắc lão nạp đến chết với ba nữ thí thủ đây! Ngày nào họ cũng đến hỏi han, khiến lão nạp rối cả óc!
Nhương Thư thẹn đỏ mặt, đền bù cho lão bằng quyển kinh quý đời Đường và mấy chục quyển sách khác cũng khá xưa!
Chân Không phương trượng tuổi bẩy mươi, chẳng giỏi võ công, chỉ chuyên về Phật pháp. Nay được tặng kinh báu, ông hoan hỉ phi thường, mang cả về phòng xem ngay cho thỏa.
Còn lại số sách về y học và thuật kỳ môn, Nhương Thư tặng luôn cho Bất Trí Thư Sinh! Cao Trường Toán cũng vui mừng khôn xiết, hết lời cảm tạ chàng. VÔ ưu Cái tinh quái hỏi:
- Lão phu nghe đồn hiền đệ và Bạch Ngọc Tiên Tử gặp phục binh, chạy thoát vào rừng, tao ngộ thế nào hãy kể thử xem?
Nhương Thư ngạc nhiên:
- Sao thiên hạ lại biết chuyện ấy mà đồn đãi?
vô ưu cái cười đáp:
- Trong mười tám hảo hán hôm ấy có không ít những kẻ lão luyện giang hồ, vừa bị thương đã giả chết thoát nạn, về kể lại!
Ba ả họ Điền nghe nhắc đến Bạch Ngọc Tiên Tử, lửa ghen sôi sục, đốc thúc Nhương Thư kể rõ ngọn ngành. Chàng không quen nói dối, đành phải thuật lại, nhưng giấu giếm những tình tiết gay cấn, những trận ân ái mùi mẫn. Tuy nhiên, chỉ cần ghe giọng ngập ngừng và ánh mắt ngượng ngùng, ai cũng biết chàng chưa nói hết sự thực!
VÔ ưu Cái cười, đỡ đòn cho Nhương Thư:
- việc hiền đệ thu dụng máu sừng của Bạch Thủy Xà Vương rất đáng ngại! May mà có Bất Trí Thư Sinh ở đây, lão ta sẽ xem thử thế nào?
Cao Trường Toàn gật đầu bảo:
- Lão phu đã nghĩ đến chuyện ấy! Giờ chúng ta đưa Tần công tử vào phòng kín để khám kỹ toàn thân mới được !
Tam tiểu thư Điền Bạch Cúc là người nói thật lòng mình, chẳng biết sợ là gì:
- Tần đại ca hôi hám quá! Để bọn tiểu nữ tắm cho y xong đã!
Thế là ba ả tố nga lôi Nhương Thư về tòa tiểu viện ở sườn núi hướng Đông Bắc, nới ẩn cư của thầy trò Nhương Thư, cách khá xa đại điện. Giờ đây, nó đã trở thành chỗ trú chân của ba chị em họ Điền.
Nhương Thư ngán sợ nhất là Bạch Cúc, nên chẳng dám cãi, Thực ra, lòng chàng lại rất tôn trọng bản chất thẳng thắn, cương liệt của nàng. Bạch Cúc đã yêu thì không thay đổi, sẵn sàng chết vì người mình yêu.
Đến nơi, Nhương Thư nhăn mặt khi thấy chốn thân yêu thay đổi diện mạo. Ba nàng tiểu thư thiên kim kia đã trang trí chỗ đơn sơ của chàng bằng màn trướng sặc sỡ, vật dụng đắc tiền và thơm ngát mùi son phấn! Trong nhà, bàn ghế, giường chiếu, bình phong, tủ kệ đều là thứ gỗ quý đắt tiền, thay thế những đồ cũ kỹ của chàng.
Nhương Thư rợn tóc gáy hỏi:
- Chẳng lẽ ba nàng định ở đây lâu dài?
Uyển Xuân cười nắc nẻ:
- Xuất giá tòng phu! Trước sau gì bọn tiểu muội cũng phải về ở Ngũ Đài Sơn này! Đây chỉ là chỗ tạm, nhà của chúng ta sẽ là trang viện của lão phú hộ dưới chân núi ! Chị em thiếp đã mua xong, đang cho sửa chữa, sơn phết lại, chắc chắn sẽ xong trước tết !
Mã Lan tiếp lời:
- Chân Không phương trượng sư huynh nổi tiếng giỏi thư pháp, đã đích thân viết tặng ba chữ Tần gia trang trên bảng gỗ ở đại môn.
Nhương Thư biến sắc, thở dài:
- Té ra Tần mỗ là kẻ nhờ vợ mà được giàu sang phú quý ư?
Câu nói chua chát này khiến ba nàng sợ hãi nhìn nhau. Nhưng họ lại thức ngộ rằng đây là lần đầu tiên Nhương Thư mở miệng chính thức công nhận thê thiếp!
Uyển Xuân láu lỉnh nháy mắt với hai chị, cùng nhau nghiêng mình bái:
- Cảm tạ tướng công đã thừa nhận mối lương duyên với bọn thiếp !
Nhương Thư cười khổ:
- Có nói ra cũng thế thôi! Tần mỗ nào phải là kẻ vô tình! Tuy nhiên, các nàng đừng đưa ta vào thế khó xử!
Điền Mã Lan chớp đôi mắt huyền u uẩn, dịu dàng phân giải:
- Tướng công vốn là bậc chân nhân thông đạt ý nghĩa nhân sinh, sao lại bận tâm vì chút tiểu tiết? Của cải trên đời như phù vân, chỉ có tình nghĩa là trường tồn, nhà cửa dẫu mang tên ai thì có quan trọng gì? Cuộc đời của chị em thiếp còn dâng cả cho tướng công, xá gì tài sản?
Nhương Thư cứng họng chịu thua:
- Thôi được! Ba nàng muốn làm gì thì làm!
Ba ả đắc ý cười khúc khích, xúm lại lôi kéo tình quân vào phòng tắm! Vài khắc sau, Nhương Thư sạch sẽ, tươi tỉnh tìm đến khách xá của VÔ ưu Cái! Bất Trí Thư Sinh lập tức tiến hành việc chẩn bệnh. Lão thăm mạnh hỏi han và trích lấy máu để nếm thử! Cao lão cau mày tư lự:
- Đúng là Quỷ Nấm đã trưng hòa được độc tính của tinh huyết Bạch Thủy Xà Vương. Hiện nay, trong máu của Nhương Thư không hề có độc. Tuy nhiên, chẳng hiểu vì sao mà dược lực chẳng thể phát tán để làm tăng tiến chân khí như y kinh đã nói?
Nhương Thư mỉm cười:
- Không biến thành độc nhân là may lắm rồi ! Tại hạ chẳng cần thu lợi !
Cao Trường Toàn lắc đầu:
- Có thu lợi rồi đấy chứ! Giờ đây, không có chất độc nào trên đời có thể làm hại ngươi được nữa!
VÔ ưu Cái hoan hỉ vỗ đùi:
- Hay lắm! Quả là trời đã giúp chúng ta!
Thấy Nhương Thư ngơ ngác, Hầu bang chủ giải thích:
- Số là thế này! Lão phu và Cao Trường Toàn đến đây tìm Tần hiền đệ vì một việc có liên quan đến ân oán của Phật Đăng sư bá, cũng là an nguy của võ lâm! Hơn hai mươi năm trước, Độc Biển Thước Tả Nho Quan đất Tứ Xuyên, một cao thủ độc môn khét tiếng tàn ác, đã bị Thượng Nhân và hai vị tiền bối võ lâm nữa khống chế, bắt lão ta suốt đời quy ẩn ở Thái Hoàng Sơn. Cái Bang có tránh nhiệm giám sát Độc Biển Thước suốt mấy chục năm qua, hơn nửa tháng trước đã phát hiện người của Tứ Phạn Thiên Cung và Chính Khí Trang đến tìm kiếm họ Tả. Dường như hai phe này đã phong thanh biết Tả Nho Quan ẩn cư ở tại núi Thái Hoàng, nhưng chưa rõ vị trí chính xác Nếu để họ lôi kéo được Độc Biển Thước thì võ lâm nguy mất. Vì vậy, Tần hiền đệ phải đi ngay đến đấy ngăn chặn!
Nhương Thư lấy làm lạ:
- Tại sao phải là tiểu đệ?
VÔ ưu Cái mỉm cười:
- Vì họ Tả chỉ khâm phục có mình sư phụ ngươi, tất sẽ nể mặt ngươi mà nghe lời khuyến cáo! Kỳ dư, bất cứ cao thủ bạch đạo nào vào Hắc ưng Cốc cũng đều bị giết!
Nhương Thư trầm tư hỏi lại:
- Nhưng nếu lỡ Độc Biển Thước quyết tâm tái xuất để hành ác thì sao?
VÔ ưu Cái nghiêm giọng:
- Lúc ấy, hiền đệ phải vì đại cục giang hồ mà trừ khủ họ Tả. Nếu không nỡ giết chết thì hãy phế võ công của lão ta!
Nhương Thư chấn động:
- Chẳng lẽ Độc Biển Thước lại đáng sợ đến thế sao?
Bất Trí Thư Sinh lên tiếng:
- Công tử không biết đấy thôi! Năm xưa, chỉ trong ba ngày, họ Tả đã phóng độc giết sạch hơn sáu trăm nhân thủ của Môn Sơn Trại. May mà đám nạn nhân đều là cường đạo nên võ lâm mới nương tay với Độc Biển Thước!
Lão rùng mình nói tiếp:
- Ngày ấy, bách tính gần đấy phải di tản vì mùi hôi thối của xác chết bốc lên c ả tháng trời vẫn chưa hết !
Nhương Thư nổi da gà nhăn mặt:
- Nghe kể sơ sơ cũng đã biết sự lợi hại của họ Tả! Tiểu đệ nối chí ân sư tất phải lĩnh tránh nhiệm này!
VÔ ưu Cái mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Bọn lão phu sẽ đưa hiền đệ đến Hắc ưng Cốc!
Bàn bạc thêm một hồi lâu, Nhương Thư trở lại tiểu viện. Ba nàng nghe kể liền nằng nặc đòi theo! Chẳng lẽ mới gặp lại bắt họ phải xa, Nhương Thư đành nhượng bộ, nhưng chỉ cho phép ba nàng đi đến An Dương, rồi ở đấy chờ đợi, để mình chàng nhập cốc!
Gần cuối tháng mười một, bọn Nhương Thư tiến vào thành An Dương từ của Bắc, họ ngạc nhiên khi nhìn thấy nơi đây tràn ngập khách giang hồ, hắc bạch đều có đủ.
VÔ ưu Cái liền ngoắc một gã ăn mày lại để hỏi. Tên này báo cáo:
- Bẩm bang chủ! Gần đây xuất hiện một tin đồn rằng Thần Quang Chân Nhân Công Tôn Khuê thực ra đã tọa hóa ở Thái Hoàng Sơn chứ chẳng phải Thái Sơn! Có kẻ còn khẳng định rằng đã nhìn thấy con lươn lông trắng, chấm đỏ của Chân Nhân gặm cỏ tại bìa rừng chân núi Mộc Sơn!
Thế là bao hào kiệt các phủ lân cận đổ về như thác lũ! Các phái bạch đạo cũng không dám không tin!
VÔ ưu Cái bứt râu than trời:
- Thôi chết rồi! Độc Biển Thước hiện nay ở Mộc Sơn, quần hùng mà đến đấy xâm phạm Hắc ưng Cốc thì khó mà toàn mạng!
Bất Trí Thư Sinh tư lự:
- Có le Tứ Phạn Thiên Cung hoặc Chính Khí Trang đã bày ra chuyện này.
Tuy nhiên, thật là khó đoán dụng ý của họ!
Điền Uyển Xuân hồ hởi nói:
- Trăm nghe không bằng một thấy!
Chúng ta cứ đến đấy xem sê rõ ! Nhương Thư nhíu mày:
- Chốn thị phi, nguy hiểm ấy đâu phải chỗ của các nàng?
Uyển Xuân nũng nịu:
- Công tử! Tình thế đã đổi khác, giờ nơi ấy có cả ngàn người, lẽ nào bọn tiểu muội không thể đến?
Điền Bạch Cúc mỉm cười:
- Công tử không cho tháp tùng thì bọn tiểu muội đi riêng cũng được!
Nhương Thư ngao ngán:
- Thôi được ! Ta chịu thua các nàng rồi !
Ba ả mừng rỡ cười khanh khách, thúc giục đám nam nhân đi vào phạn điếm gần đấy để dùng cơm trưa! Hồng Xương Đại Tửu Điếm nổi danh với những món ăn Quảng Đông, tuy chỉ có một tầng nhưng lại rộng mênh mông, bày được cỡ trăm bàn!
Giờ đây, hào khách võ lâm ngồi chật cứng khiến kẻ mới vào ngại chẳng có bàn. Quần hào xôn xao khi thấy có bóng hồng xuất hiện, và xuýt xoa ganh ty với diễm phúc của Nhương Thư, có kẻ thì nói bâng quơ:
- Gã họ Tần này tốt số thật! Song làm thân kiếm khách mà lúc nào cũng kè kè mỹ nữ thì còn gì chí khí trượng phu nữa?
Hắn nói rất lớn nên ai cũng nghe thấy, chú mục nhìn về phía ấy. Thì ra là một hán tử tuổi độ ba mươi sáu, tướng mạo nghiêm trang, oai võ và đoan chính. Có người nhận ra lai lịch vội nói lớn lên để khoe khoang:
- Chính Tâm Kiếm Khách Đường Khả Toại!
Đường Khả Toại là con út của Đường Gia Tứ Xuyên, nổi danh quân tử đất Thục, thường trừ gian giết bạo, xem kẻ ác như cừu nhân! Võ công của gã rất lợi hại, nhờ có ám khí tuyệt độc của Đường Môn.
Nhương Thư không biết gã là ai, và cũng chẳng hề giận, thản nhiên cùng năm người kia an tọa. Nhưng Uyển Xuân thì không nhịn nổi, hậm hực nghe người xung quanh xầm xì. Có kẻ khen Nhương Thư rộng lượng, người bảo chàng sợ ám khí nhà họ Đường. Nàng ghé tai Bất Trí Thư Sinh hỏi nhỏ:
- Cao tiền bối! Chẳng hay gã Đường Khả Toại kia đã lập gia thất hay chưa vậy?
Cao Trường Toàn cười đáp:
- Chưa ! Thực ra, gã chỉ là kẻ nguy quân tử, cố che dấu bản chất tiểu nhân bằng những hành động anh hùng hiệp nghĩa! Đường Khả Toại vốn hiếu sắc, trác táng từ năm mười sáu, đến tuổi hai mươi ngoài thì bị liệt dương, vì thế mới đóng vai đạo mạo!
Uyển Xuân cười khúc khích:
- Vì sao tiền bối lại kể rõ nhược điểm của gã như thế, phải chăng người muốn xuân Nhi trát bùn lên mặt họ Đường?
Bất Trí Thư Sinh gật đầu:
- Phong hóa suy đồi cũng bởi những tên đạo đức giả! Chúng còn đáng sợ hơn những kẻ ác thực thụ! Tuy nhiên, gây oán với lũ tiểu nhân là việc chẳng nên!
Đường Môn mà trở thành kẻ thù của Nhương Thư thì rất tai hại, Xuân Nhi hãy bỏ qua việc này!
Điền Mã Lan ngồi sát bên em gái nghe được liền nhỏ nhẹ:
- Cao tiền bối dạy rất phải! Tứ muội hãy vì tướng công mà nhẫn nhục !
Uyển Xuân giận dỗi:
- Tiểu muội xin nghe lời, nhưng nếu gã chó chết ấy còn mở miệng ra lần nữa thì tiểu muội sẽ ra tay đấy!
Cơm rượn được dọn lên, sáu người ăn uống vui vẻ vì ba nữ nhân tranh nhau gắp cho Nhương Thư. Tiếng cười rúc rích của họ khiến đám lão hán xao xuyến, thầm trách tổ tiên mình ăn ở kém đức nên con cháu không được như Tần Nhương Thư!
Có vài người vì ngưỡng mộ mà đứng lên nâng chung mời Nhương Thư cạn chén ! Chàng ngượng ngùng đáp :
- Cảm tạ túc hạ ! Thư này không quen uống rượn, xin được phép nhấp môi!
Như thế cũng đủ vui, đám hào khách nhao nhao mời rượn chàng hiệp sĩ lừng danh và luôn khiêm tốn. Chính Tâm Kiếm Khách cũng làm thế, nhưng lại kèm theo một câu nói đùa:
- Tại hạ ghen với cảnh "chuột sa hũ nếp" của công tử đấy!
Đường Khả Toại cười khanh khách song toàn trường lại lạnh gáy, chờ đợi phản ứng của Nhương Thư! Nào ngờ, chàng trai họ Tần chẳng hề có sắc giận, ngượng ngùng cười đáp:
- Có lẽ nhờ kiếp trước dày công tu hành nên kiếp này Tần mỗ mới được thế này!
Uyển Xuân giận dỗi đỏ mặt, định phát tác thì bị Mã Lan giữ lại. Nhưng tiểu thơ Điền Bạch Cúc đã đứng dậy, nghiêm nghị noi:
- Đường Khả Toại! Tướng công của bọn ta rộng lượng không chấp tiếng sủa của chó điên, chứ không phải vì sợ hãi Đường Môn! Ngươi tự xưng là bậc quân tử sao lại mở miệng khích bác, xúc phạm người khác như vậy?
Khi giận dữ, mặt nàng đỏ hồng, mắt phượng long lanh, uy nghiêm như mẹ chửi con, khiến quần hào phục lăn, vỗ tay tán thưởng! Đường Khả Toại nhục nhã đến tái mặt, song vẫn điềm tĩnh đáp:
- Ta chỉ đùa không ngờ lại bị hiểu lầm!
Bậc trượng phu chẳng chấp nữ nhi, nhưng Tần Nhương Thư phải đứng ra tạ lỗi, nếu không thì máu sẽ đổ!
VÔ ưu Cái cau mày nói nhỏ:
- Lạ thực ! Dường như hắn cố tình khiêu chiến Nhương Thư! Tần hiền đệ hãy cẩn thận!
Điền Uyển Xuân nổi tam bành, ong óng mắng họ Đường:
- Nữ nhi không đáng trọng sao? Mẹ ngươi cũng là đàn bà đấy thôi, hay ngươi chui từ lỗ nẻ ra?
Thực khác phá lên cười hô hố, chế giễu họ Đường. Thế mà gã vẫn không nao núng, đốc thúc Nhương Thư:
- Tần công tử tính sao?
Bất Trí Thư Sinh nãy giờ quan sát sáu người ngồi chung bàn với Chính Tâm Kiếm Khách, chợt nhận ra một lão già bảy mươi, có vẻ quen quen. Quá khứ hiện về trong ký ức, Cao Trường Toán đã biết lão mũi ưng có vành tai trái cụt mất thùy châu kia là ai. Bất Trí Thư Sinh run giọng bảo:
- Thì ra Đường Khả Toại là người của Báo ứng Hội!
Nhương Thư giật bắn mình, lòng ngập tràn sát khí Sau lần chạm trán Trác Thiên Lộc, chàng đã biết kẻ giết cha mình là Báo ứng Hội! VÔ ưu Cái vội nhắc nhở:
- Hãy bình tâm mà đối phó! Ngươi quên mình là đệ tử của ai rồi sao?
Nhương Thư tỉnh ngộ, gật đầu để trấn an lão rồi đứng lên:
- Đường túc hạ cố tình khiêu chiến, Tần mỗ chẳng thể chối từ được! Xin mời ra vườn cho rộng chỗ!
Vườn sau của Hồng Xương Đại Phạn Điếm tuy rất rộng rãi nhưng lại chẳng hề được chăm sóc, chỉ là chỗ cho thực khách thả ngựa! Giờ đây, mặt cỏ úa loang lổ vì tuyết đọng từng mảng. Mấy trăm hào kiệt đã kéo cả ra để xem đấu võ khiến lão chưởng quỷ bối rối vì chưa ai tính tiền cơm. Nếu họ hỗn chiến rồi bỏ chạy thì xem như quán lỗ vốn to !
Hai đấu thủ đứng cách nhau hơn trượng, mặt mũi hiền hòa chẳng có chút sát khí Đường Khả Toại tươi cười, vòng tay nói:
- Gia mẫu luôn luôn nhắc đến lệnh sư với lòng tôn kính vô vàn, nay tại hạ phải so tài với công tử cũng là điều bất đắc dĩ.
Việc này cũng là do lỗi của tại hạ đã lắm lời, chỉ xin lĩnh giáo trăm chiêu rồi rút lui ngay!
Nhương Thư cười đáp lễ:
- Tại hạ cũng từng nghe tiên sư tán dương gia phong Đường Môn Tứ Xuyên, quyết chẳng phụ lòng Đường Lão Thái !
Đường Khả Toại không hiểu rõ câu nói ấy, chỉ đoán rằng đối phương sẽ không quá quyết liệt Nhương Thư nói tiếp:
- Tại hạ kém tuổi, xin được phép xuất thủ trước!
Giọng chàng hơi run nhưng chỉ người thân mới biết vì sao! Nhương Thư dựng kiếm trước ngực, chậm rãi tiến lên bốn bước rồi bất ngờ hóa thành luồng kiếm quang, bốc lên cao rồi xa xuống đầu đối thủ.
Đòn chớp mắt này đã vượt ngoài dự liệu của Đường Khả Toại. Gã kinh hoàng múa kiếm chống cự, còn tay tả xuất hiện vũ khí lừng danh là Hỏa Lân Đồng. Một tiếng nổ đinh tai phát ra, và chiếc ống thép dài gần gang kia phun luồng lửa đỏ rực, trùm lấy Nhương Thư. Trong lưới lửa ấy còn ngầm chứa mấy trăm mũi độc châm nhỏ như lông bò, có khả năng xuyên thủng bất cứ luồng chân khí nào, kể cả lớp da bền chắc của những người luyện Thiết BỐ Sam.
ám khí tuyệt độc này là vật chí bảo của Đường Môn Tứ Xuyên, chỉ mình Đường Lão Thái được quyền sừ dụng trong trường hợp cấp bách. Thế mà giờ đây, Đường Khả Toại mang theo trong người, chứng tỏ gã quyết tâm hạ sát Nhương Thư. Nếu song phương giao đấu bình thường, chắc chắn Nhương Thư khó thoát chết dưới đòn ám tập của loại vũ khí khủng khiếp này.
Bọn Báo ứng Hội đã tính toán rất chu đáo khi sừ dụng Đường Khả Toại, do mối giao tình giữa Đường Gia Tứ Xuyên và Phật đăng thượng Nhân. Nghĩa là Nhương Thư dù bị khiêu khích cũng không dám nặng tay với Đường Ngũ C ông Tử !
May thay, bên cạnh Nhương Thư lại có Bất Trí Thư Sinh, và lão này đã nhận ra một cao thủ của Báo ứng Hội. Thù cha đã khiến Tần Nhương Thư thi triển phép ngự kiếm ngay trong chiêu đầu. Chàng nóng lòng kết liễu Đường Khả Toại sớm để còn hỏi tội lão nhân bị đứt thùy châu kia.
Nhờ Ngự Kiếm Thuật mà luồng kiếm quang quanh thân chàng dày đặc, kín đáo và kiên cố như tường đồng vách sắt, xem thường cả lửa hồng lẫn độc châm.
Nhương Thư dũng mãnh vượt qua vũ khí trấn môn của Đường Môn, ập xuống như lôi thần chính Tâm Kiếm Khách lại thành danh chẳng phải nhờ kiếm nên cũng chống đỡ một cách tuyệt vọng. Song Nhương Thư nhớ lời sư phụ nên không giết con cháu họ Đường, chỉ chặt đứt cánh tay tả của gã, và điểm vào huyệt BỘ Lang trên sườn trái.
Sau tiếng rú thảm khốc của Đường Khả Toại là tiếng quát sang sảng của VÔ ưu Cái:
- Bắt lấy sáu tên Báo ứng Hội !
Uyển Xuân tiếp lời ngay:
- Môi tên trị giá ngàn lượng bạc!
Thế là bọn hào khách mừng rỡ rút vũ khí lao vào sáu tùy tùng của Đường Khả Toại. Mật ít ruồi nhiều, ai cũng sợ mất phần nên tranh giành nhau mà tấn công, chỉ tổ vướng tay vướng chân. Vì thế sáu sát thủ lão luyện kia chẳng hề nao núng, sát cánh chống cự.
Kiếm pháp của Báo ứng Hội không hoa mỹ, đẹp mắt, nhưng lại vô cùng chuẩn xác và độc ác. Tay tả của họ lại liên tiếp bắn ra những mũi độc châm đả thương liền bảy tám hảo hán giang hồ.
Quần hào động nộ, vét túi trút hết ám khí thủ thân vào sáu gã cứng đầu kia.
ám khí vốn là công phu tiểu xảo, rất dễ luyện và cũng rất hữu dụng. Do vậy, trừ những kẻ tay chân quá vụng về hoặc mắt kém, hầu hết khách giang hồ đều cố luyện nghề ám khí. Dễ nhất là phi tiêu, tụ tiễn. Nhờ có cánh ở đuôi nên luôn bay thẳng, còn khó nhất chính là liễu diệp phi đao và độc châm.
Trong số ngoại lệ phải kể đến những bậc đại hiệp chính phái, xem ám khí kém phần quang minh nên không thèm luyện.
Thật ra, ám khí rất hữu dụng trong cả đơn đấu lẫn loạn chiến. Ngay bản thân Nhương Thư cũng rèn luyện thủ pháp phóng hạt thiết bồ đề, song chàng lại chẳng bao giờ mang theo!
Quay lại với đấu trường, ta sẽ thấy một trận mưa ám khí đủ loại bao phủ sáu gã sát thủ Báo ứng Hội. Bọn hảo hán đã lùi xa nên không còn sợ độc châm nữa, và những ám khí nặng của họ phát huy được uy lực! Rốt cuộc có năm cái bia bị hạ gục, chỉ còn lại mình lão già áo đen mũi ưng Quần hào mừng rỡ reo hò:
- Năm ngàn lượng !
Và ai cũng nhận rằng chính ám khí của mình đã chạm đích đầu tiên! Nhương Thư bước vào, lạnh lùng hỏi lão cụt tai:
- Phải chăng chính Báo ứng Hội đã giết cha ta hồi hai mươi mốt năm trước?
Lão hắc y căm hờn rít lên:
- Đúng vậy! Cha ngươi, Tần Tử Chính, đã phản bội bổn hội, cướp lấy báu vật nhà họ Mao! Ngươi muốn được yên thân thì hãy hoàn trả lại vật ấy cho bổn hội !
Quần hào không ngờ Nhương Thư lại là con của một tên đạo tặc, xầm xì bàn tán, chẳng xem trọng chàng nữa! Ba ả họ Điền không vui khi nhận ra thái độ chê bai của bọn hảo hán kia!
Dù xã hội Trung Hoa không phân biệt giai cấp rõ rệt như ấn Độ, người thuộc hạng cùng đinh mà có tài thì cũng vẫn có thể trở thành quan to hay bậc danh sĩ. Tuy nhiên, tâm lý quần chúng vẫn mang nặng vấn đề dòng dõi, xem trọng những ai xuất thân từ thế gia vọng tộc. Nhương Thư lại có cha là ăn cướp thì quả là nhục nhã cho chàng và các nàng dâu!
Nhương Thư tu hành từ nhỏ, hiểu rõ nghiệp quả, nhân duyên nên chẳng hổ thẹn vì phụ thân, điềm đạm đáp:
- Tần mỗ hiện dang giữ vật ấy! Túc hạ hãy về bảo quý hội chủ mang đầu của Trác Thiên Lộc đến núi Xáp Vân, đúng ngày đầu tháng hai tới mà đổi lấy!
Lão nhân mũi ưng biết mình thoát chết thở phào nói:
- Được ! Họ Trác hiện đang ở tổng đàn của bổn hội nên việc giết lão chẳng hề khó! Mong công tử giữ lời hứa!
Nói xong lão quăng ra một lọ sành đựng thuốc giải để chữa trị cho những người trứng độc châm. Nhờ vậy vòng vây mới dán ra, chừa sinh lộ cho lão ta mang Đường Khả Toại đi!
Chủ quán đã báo quan nên bọn công sai kéo đến. Gặp VÔ ưu Cái họ chẳng dám hạch sách, chỉ làm án văn qua loa rồi đưa năm xác chết đi! Không chờ bị đòi nợ, Uyển Xuân mau mắn lấy ra sáu ngàn lượng bạch ngân bằng ngân phiếu, vui vẻ trao cho bọn hào khách để họ chia nhau.
Vị chi, mỗi người cũng được hai ba chục lượng, ai nấy hớn hở nói lời cảm tạ!
Bạch Cúc còn bảo em gái thanh toán hết chi phí ăn nhậu của quần hào, càng thu phụ được nhân tâm! Đúng là giàu vì bạn, sang vì vợ, thái độ hào phóng, cởi mở của ba nữ nhân đã khiến mọi người quên ngay gốc gác của Nhương Thư, xin tháp tùng bọn chàng đi Thái Hoàng Sơn.
Chiều hôm sau, đoàn người rầm rộ tiến vào Trấn Sơn Hòa, cách chân núi Mộc Sơn vài dặm. Những tên tiểu cái ở đây đã dễ dàng tìm ra chỗ trọ cho bang chủ, trong nhà một phú hộ họ Trang.
Trang nhị giàu có và nhân hậu, thường bố thí cho kẻ khốn cùng. Trái lại, bọn khất cái đã quanh quẩn gần Trang gia trang để bảo vệ, khiến cho bọn đạo chích không dám bén mảng! Nay được chúa ăn mày giá lâm, Trang nhị hân hoan đón tiếp, bố trí ba phòng đẹp nhất, và mở tiệc thịnh soạn mà đãi đằng.
Tối hôm ấy, VÔ ưu Cái và Bất Trí Thư Sinh đến phòng Nhương Thư. Hầu lão nghiêm giọng:
- Nay gốc gác ngươi đã bị tiết lộ, và đương nhiên phe tà ma sẽ khai thác việc ấy để khiến ngươi nhụt chí, rơi vào cảnh thân bại danh liệt. Nhưng ngươi lại là cột trụ chống đỡ võ lâm, quyết không được vì những lời nhục mạ, chê bai của thiên hạ in à suy sụp !
Nhương Thư cười buồn:
- Cha ăn mặn con khát nước là chuyện thường tình! Tiểu đệ sẽ cố nhẫn nhịn, giả điếc là xong!
Bất Trí Thư Sinh nhấp hớp trà, nhăn vầng trán dô thông tuệ, tư lự bảo:
- Tần hiền đệ thử cho bọn lão phu xem di vật mà lệnh tôn đã để lại!
Nhương Thư vội tháo sợi dây tơ treo đồng tiền trên cổ xuống, đưa cho lão Cao Trường Toán. Lão căng mắt nhìn những hoa văn ở mặt đồng tiền, lắc đầu chịu thua, về phòng lấy dụng cụ. Đấy là một mảnh pha lê trong suốt, dạng bán cầu, có tắc dụng phóng to những hình ảnh đặt phía dưới, Bất Trí Thư Sinh vừa xem vừa vẽ lại ra giấy, với kích thước lớn hơn nhiều lần.
Ba người sửng sốt khi nhận ra một ngọn núi có mây vờn quanh, và rải rác những chữ của hai câu thơ:
Huynh đệ tương tàn tâm toái hếu Ly sơn cố thổ vinh nan hồi!
Dịch:
Anh em chém giết lòng tan vờ Đất cũ Ly Sơn chẳng dám về!
VÔ ưu Cái thảng thốt nói:
- Đây đâu phải họa đồ đưa đến mộ phần của Thần Quang Chân Quân, mà chỉ là chút tâm sự của Tần Tử Chính ký thác cho Nhương Thư mà thôi !
Bất Trí Thư Sinh thì phân vân:
- Nhưng năm xưa Tần Tử Chính bị giết chết trên đường đưa Nhương Thư về thăm quên nội mà?
Rồi lão hỏi lại:
- Tần hiền đệ! Lệnh đường có nói về xuất xứ của đồng tiền hay hay không?
Nhương Thư gật đầu:
- Gia mẫu kể rằng vật ấy có trên cổ của tiên phụ từ lúc họ mới quen nhau. Sau khi tiểu đệ ra đời thì tiên phụ mới đeo vào cổ Ĩ hư này !
Cao Trường Toán nhíu mày suy nghĩ, ngón tay nhịp đều trên một chiếc bàn. Lát sau lão kết luận:
- Lão phu đã cân nhắc mọi lẽ, chọn ra giả thuyết là Tần Tử Chính còn một người anh em trai nữa, và nhà ở gần núi Ly Sơn, Thiểm Tây! Sau khi Tần Tử Chính ám toán Trác Thiên Lộc, liền chạy về Ly Sơn. Anh em họ đã đánh nhau và một trong hai người táng mạng, Người còn sống hối hận bỏ nhà đi, lưu lạc đến Trường Sa, lấy mẹ của Nhương Thư!
Nhưng khi có con trai, ông ta lại muốn nó trở thành cao thủ võ lâm nên trở lại Ly Sơn để lấy tấm bản đồ quý báu kia!
VÔ ưu Cái bác ngay:
- Không hợp lý lắm! Tần Tử Chính là sát thủ chuyên nghiệp, lòng dạ tàn nhẫn, dám ám toán cả đồng đảng là Trác Thiên Lộc để đoạt bảo, thì sao lại hối hận và để họa đồ ở lại nhà mà làm gì? Có nặng nề, cồng kềnh đâu mà không mang theo được?
Cao lão mỉm cười đắc ý:
- Hầu lão ca nói chí phải, nhưng lại không để ý tiểu đệ dùng chữ "người còn sống" chớ chẳng nêu tên Tần Tử Chính.
Nghĩa là cha của Nhương Thư lỡ tay giết chết Tần Tử Chính nên mới chôn cả họa đồ theo xác, lấy tên người chết làm tên mình để vơi bớt mặc cảm tội lỗi!
Nhương Thư nghe rất hữu lý, buộc miệng nói:
- Thế thì họ phải là anh em song sinh nên Báo ứng Hội mới không nhận ra sự khác biệt!
VÔ ưu Cái vỗ đùi khen:
- Đúng vậy! Giờ chúng ta chỉ cần đi núi Ly Sơn một chuyến, hỏi xem nhà họ Tần nào đã sinh đôi hai đứa con trai là rõ ngay!
Hai lão về rồi, Nhương Thư còn ngơ ngẩn vì những bí ẩn trong lai lịch của phụ thân! Chàng chợt hổ thẹn khi phát hiện mình mong mỏi không phải là con của Tần Tử Chính! Thì ra việc ấy cũng đã âm thầm khiến chàng hổ thẹn! Dù sao có cha làm đạo tặc, giết mướn chẳng dễ chịu chút nào !
chàng cũng hiểu nỗi khổ tâm của ba nàng dâu kia, liền lần sang phòng họ để chia sẻ bí mật. Họ ở cách phòng chàng một vườn hoa nhỏ, giờ đây vẫn còn thức mà trò truyện! Nhương Thư định gõ cửa thì nghe nhị tiểu thư Điền Mã Lan nói:
- Tội nghiệp tướng công! Liệu chàng có chịu đựng được cái gia thế oan nghiệt ấy hay không nhỉ? Chị em ta phải gắng sức an ủi chàng mới được !
Bạch Cúc chậm rãi lên tiếng:
- Có gì mà phải bận tâm? Minh Thái TỔ Chu Nguyên Chương chẳng đã từng làm giặc đấy sao?
Nhưng điền Uyển Xuân thì lại lo lắng:
- Tiểu muội chỉ sợ cha sẽ buồn đấy mà thôi!
Câu nói này đã khiến Nhương Thư tư lự, lặng lẽ quay trở về phòng riêng!
Mờ sáng hôm sau, Nhương Thư cùng hai trăm hảo hán giang hồ tiến về núi Mộc Sơn! Quang cảnh nơi đấy cực kỳ náo nhiệt, với hàng ngàn chiếc lều vải trải suốt chiều dài của bìa cánh rừng dưới chân núi !
Khói bếp nghi ngút bốc lên hòa với màn sương tuyết lất phất, tạo nên chút sương mù hiếm hoi lúc đông về. Mọi người đang chuẩn bị cơm sáng, ăn thật no và mang theo để lót dạ buổi trưa! Phân đàn chủ Cái Bang đã túc trực nơi đây từ vài ngày trước, giờ đến báo cáo:
- Bẩm bang chủ! Quả thực là trong khu rừng rậm dưới chân núi Mộc Sơn này có xuất hiện một con lươn lông trắng, lấm tấm chấm đỏ. Nó chỉ lớn hơn con chó, song chân dài, chạy nhanh như gió, luồn lách như chồn, nên chẳng ai bắt được. Vả lại, khu rừng kia rất rậm rạp, tối tăm, đầy những bụi gai lớn bằng nửa căn nhà.
Huyết Hoa Lộc mà chui vào đấy thì có trời mới tìm ra!
VÔ ưu Cái ngắt lời thủ hạ:
- Thế đã có ai tiến sát vào chân núi Mộc Sơn chưa?
- Bẩm chưa! Quần hùng mải mê bắt lươn quý, vì trước sau gì nó cũng phải chạy về hang, khi bị đuổi quá rát!
VÔ ưu Cái thở phào:
- May thực ! Chúng ta vẫn chưa quá trễ !
à! Tình hình hai phe Tứ Phạn Thiên Cung và Chính Khí Trang ra sao?
Phân đà chủ An Dương đáp :
- Bẩm bang chủ! Hai lực lượng ấy cũng đều kéo hết cao thủ đầu não đến đây Tứ Phạn Thiên Cung do Thanh Linh Thủy Lão Đệ Nhị Đại âu Dương Lăng thống lãnh, còn Chính Khí Trang do trang chủ Lã Tập Hiền! Hai phe này giả vờ không nhìn thấy nhau, chỉ dồn sức truy bắt Huyết Hoa Lộc!
Bất Trí Thư Sinh nhăn trán:
- Lạ thực! Chẳng lẽ còn có lực lượng thứ ba, là kẻ đứng sau chiếc bẫy này!
VÔ ưu Cái gật đầu:
- Có thể lắm!
Rồi ông dặn dò thủ hạ:
- Ngươi hãy điều đệ tử bổn bang đi thông tri cho người của các phái bạch đạo rằng lão phu đã đến đây, và yêu cầu họ tập trưng lại thành một mối, tiến vào sau cùng, chờ lệnh mới được ra tay!
Sau khi gởi ngựa cho đám tiểu cái. Phe Nhương Thư tiến vào rừng. Quần hùng không hề nhận ra vì chàng mặc áo cừu, đội mũ lông rất kín đáo! Vả lại, Huyết Hoa Lộc chỉ xuất hiện khi mặt trời đã lên được hai sào, ai đi sớm cũng chỉ hoài công, để ý là quái gì!
vô ưu cái đã quá quen thuộc đường vào Hắc ưng Cốc, đưa cả đoàn tiến lên rất nhanh. Khi còn cách chân núi hơn dặm, cây cối khá thưa thớt, và Uyển Xuân là người đầu tiên thấy con lươn hiếu động, chẳng chịu ngủ Đông kia.
Nàng khẽ rú lên:
- Huyết Ho a LỘ c ! Trời ơi ! Nó đẹp và dễ thương quá !
Cả bọn vội dừng chân, nấp sau một bụi cây để ngắm nhìn, quả xứng danh là thần vật trên đời, Huyết Hoa Lộc mang bộ lông trắng muốt, điểm những chấm sao đỏ hung. Trên đầu có sừng bốn nhánh không dài. Và do nó đứng ở đầu hướng gió nên bọn Nhương Thư nghe được mùi xạ hương thơm hăng hắc, thơm thơm. Bất Trí Thư Sinh giải thích:
- Con vật này là lai giữa hươu sao và hươu xạ nên lông có đốm, đầu có sừng, và có cả túi xạ, thu đông là mùa sanh dục, con lươn này đang tỏa mùi rất mạnh để tìm bạn tình!
Điền Mã Lan thì thào ao ước:
- Giá mà chị em ta có được nó để nuôi?
VÔ ưu Cái phì cười:
- Ngươi muốn cả võ lâm kéo đến đốt nhà ư?
Lão cười hơn lớn nên Huyết Hoa Lộc nghe thấy, phóng đi mất dạng. Bọn Nhương Thư tiếp tục đi, nửa khắc sau tiếp cận một khoảng rừng nhỏ hình cánh cung, ôm lấy vách núi Mộc Sơn. Xa xa chợt vọng lại tiếng hắt hơi của ai đó, VÔ ưu Cái giật mình bảo:
- Có người vào! Chúng ta hãy nấp lên cây xem chúng là ai, đến đây vì tình cờ hay có chủ ý!
Năm người kia vội làm theo ý ấy! Ba nữ nhân nũng nịu bắt Nhương Thư giúp đỡ mình vì cành quá cao. Chàng mỉm cười ôm từng nàng nhảy lên, bị họ bắt phải ngồi chung trên một chạng ba chật chỗ i !
Sau mấy chục ngày xây tổ ấm với Bạch Ngọc Tiên Tử, Nhương Thư trở thành kẻ lịch duyệt chốn tình trường, quen mùi ân ái nên bạo dạn hơn xưa. Giờ đây, chàng đặt Mã Lan vào trong lòng, còn hai nàng kia thì ôm chặt vai. Hơi ấm của cơ thể và mùi phấn son, nước hoa trùm lấy Nhương Thư, mang lại cảm giác hạnh phúc ôn nhu. Chàng bất ngờ hôn vào má ba ả tố nga, khiến họ hài lòng và sửng sốt. Uyển Xuân ranh mãnh thì thầm:
- Phải chăng tướng công từng âu yếm gia tỷ như vậy?
Yù nàng ám chỉ HỔ Hồng Nhan, Nhương Thư khẽ gật đầu, ánh mắt sượng sùng vì nhớ đến trưa nào dưới suố i !
Phe đối phương đã vào đến nơi, đông đến bốn năm chục, phe võ phục vàng, phe đạo bào trắng. Lã Tập Hiền thì đã quá quen. Nhương Thư chăm chú nhìn gã đạo sĩ không râu đầu đội mũ Kim Quan, chàng đoán đấy là Thanh Linh Thủy Lão Đệ Nhị Đại âu Dương Lăng, kẻ vừa lên kế nghiệp cha!
Tuy nội gián của VÔ ưu Cái về báo rằng võ công của Tân Thủy Lão không cao, song Nhương Thư lại nghi ngờ điều ấy! Sắc diện và thần khí của âu Dương Lăng rõ ràng là của một kiếm khách thượng thừa. Là kiếm sĩ, Nhương Thư đủ kinh nghiệm để nhận ra kình địch của mình. Sĩ tốt của phe tà mà dàn hàng ngang bảo vệ vòng ngoài, chỉ còn lại đám đầu sỏ cùng nhau đối đáp.
Bọn Nhương Thư nín thở, chẳng dám gây ra bất cứ tiếng động nào, Nếu bị phát hiện, họ hoàn toàn không có cơ hội thoát thân! Đây cũng là dịp may hiếm có để họ hiểu rõ dã tâm của Lã Tập Hiền. Họ Lã lên tiếng:
- âu Dương Cung Chủ ! Nay chúng ta đã lập đàn thề thốt, nguyện chia đôi thiên hạ, vậy mong Cung Chủ tiết lộ vì sao chúng ta lại tung ra tin tức về Huyết Hoa Lộc, để cả võ lâm kéo đến đây?
âu Dương Lăng mỉm cười lạnh lẽo:
- Bổn nhân chỉ làm theo mệnh lệnh của một bậc võ lâm tiền bối! Lát nữa diện kiến, Lã túc hạ sẽ hiểu rõ nguồn cơn!
Lã Tập Hiền cau mày:
- Ai là người có thể ra lệnh cho Tứ Phạn Thiên Cung?
âu Dương Lăng chỉ vào cánh rừng có trận pháp trước Hắc ưng Cốc nghiêm nghị kể:
- Hai mươi mấy năm trước, bậc kỳ nhân của đất Tứ Xuyên là Độc Biển Thước Tả Nho Quan, đã bị Phật Đăng Thượng Nhân và hai cao thủ võ lâm nữa truy sát đến nơi này. Họ khống chế được Tả tiền bối, bắt phải ẩn cư suốt đời trong Hắc ưng Cốc, phía sau khoảnh rừng kia.
Nào ngờ, đây là nơi tọa hóa của Thần Quang Chân Quân, cao thủ số một của mọi thời đại. Với máu quý của con Huyết Hoa Lộc, Tả tiền bối đã trị lành vết thương, sở hữu đến trăm năm công lực, và còn luyện thành tuyệt học của Chân Quân!
Hai tháng trước, Tả tiền bối đã xuất cốc đến Thiên Cung, nhận bổn nhân làm đệ tử và chỉ dạy kế sách gồm thâu thiên hạ!
Lã Tập Hiền lạnh toát cả người vội ngắt lời âu Dương Lăng:
- Phải chăng những người ở đây đều đã trứng độc?
âu Dương Lăng cười đắc ý:
- Trang chủ thông minh thật ! S áu tháng sau, chất độc Tiên Trường Vụ sẽ phát tác, và bốn ngàn kẻ tham lam kia sẽ đến đây quy phục Thần Quang Giáo !
Lã Tập Hiền tái mặt giận dữ:
- chúng ta đã thề thốt liên minh, sao cung chủ lại trở mặt, bắt tay với Độc Biển Thước? Chia đôi võ lâm, mỗi người hùng cứ một phương chẳng tốt hơn làm nô lệ cho Tả Nho Quan hay sao?
ánh mắt âu Dương Lăng loé lên những tia nhìn kỳ dị, oán độc, khiến một kẻ sảo quyệt, tinh minh như Lã Tập Hiền đoán ra ẩn tình. Họ Lã thở dài:
- Té ra Cung Chủ bị khống chế?
Ngay lúc ấy, từ cánh rừng có một bóng đen bay vút ra, chỉ cái nhoáng đã đến bên Lã Tập Hiền! Lã trang chủ thần tốc rút kiếm chém liền, song chẳng trứng vào đâu, cứ như đối phương là ảo ảnh vậy. Và Lã Tập Hiền nghe mặt mình mát rượi bởi một luồng gió có mùi hăng hắc. Lão kinh hãi lùi nhanh nhìn kẻ mới đến rồi rụng rời khi nghe nói:
- Giờ thì sanh mạng của ngươi cũng nằm trong tay lão phu rồi đấy! Hãy thử kiểm tra huyệt Ngọc Đường nơi Tâm Thất thử xem?
Lã Tập Hiền làm theo lời kẻ thù, thất sắc lẩm bẩm:
- Thế là hết !
Nhưng lão lại có một hành động khiến ai cũng bất ngờ, là quỳ ngay xuống lạy Độc Biển Thước:
- Nếu tiền bối không nhận Lã mỗ làm học trò thì đừng mong thu được thiên hạ!
Độc Biển Thước phá lên cười khanh khách:
- Xảo quyệt nhưng biết đạo tiến thoái!
Ngươi xứng đáng làm học trò của lão phu!
Lã Tập Hiền hoan hỉ dập đầu lạy chín lạy và hô hoán:
- ĐỒ nhi mừng có được minh sư!
Họ Lã đứng lên, quay lại bảo đám đồng đảng đến ra mắt Tả Nho Quan. Độc Biển Thước hoan hỉ nói:
- Tất cả các ngươi hãy vào trong Hắc ưng Cốc để nghe chỉ thị của lão phu!
Không cần phải canh gác vì đã có trận kỳ môn trấn giữ của vào !
Tà ma đi sạch, bọn Nhương Thư mới dám nhảy xuống đất, VÔ ưu Cái rầu rĩ noi:
- Không ngờ lòng từ bi của Phật Quang Thượng Nhân lại lưu lại đại họa cho đời!
Nếu năm xưa cứ giết quách Tả Nho Quan đi thì giờ này đâu xuất hiện một đại ác ma?
Bất Trí Thư Sinh cũng bùi ngùi:
- Độc thì còn có thể giải, nhưng võ công của lão ta mới đáng sợ, chỉ một chiêu đã khuất phục được Lã Tập Hiền!
Uyển Xuân thấy Nhương Thư mãi đăm chiêu không nói, liền hỏi nhỏ:
- Công tử đang nghĩ gì vậy?
Họ Tần sực tỉnh:
- Ta đang cố phá giải chiêu chưởng lúc nãy của Độc Biển Thước!
Bạch Cúc bàn ngay:
- Công tử không sợ độc, chỉ kém phần công lực! Nay gia phụ đã gởi mua Thiên Niên Tuyết Sâm ở Liêu Đông, có lẽ đã được mang đến! Chúng ta hãy về Tế Nam, tìm cách bồi bổ chân nguyên cho chàng!
Bất Trí Thư Sinh phấn khởi xen vào:
- Tuyệt lắm! Lão phu đang giữ một toa thuốc bí truyền, chỉ cần có Thiên Niên Tuyết Sâm làm vị chính là sẽ giúp Nhương Thư tăng tiến thêm vài năm công lực!
VÔ ưu Cái thở dài:
- các ngươi quên chất độc Tiên Trường Vụ rồi sao?
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười:
- Tiểu đệ đọc hàng vạn quyển sách, y thuật cũng kha khá, tin chắc sẽ tìm được thuốc giải. Lão ca cứ yên tâm lo lắng cục diện võ lâm, sáu tháng sau tụ quân tiêu diệt Thần Quang Giáo!
Hầu bang chủ vui mừng khôn xiết, vỗ vai Cao Trường Toán:
- Không ngờ lão đệ cũng là một thần y, thế mà ta không biết! Đại sự sống còn này, lão phu giao cho hiền đệ đấy!
Nhương Thư đăm chiêu nói:
- Ba nàng hãy theo Cao Thư Sinh về Tế Nam! Ta quay lại Ngũ Đài Sơn dự lễ giỗ đầu của tiên sư rối sẽ đi sau!
Bất Trí Thư Sinh cười mát:
- Tần hiền đệ mương thân cửa Phật đã nhiều năm mà còn cố chấp có với không nữa sao? Ngươi đi Tế Nam mà tâm vẫn ở Ngũ Đài Sơn tưởng niệm sư phụ là đủ rồi! Nay Lã Tập Hiền đã thành học trò của Độc Biển Thước, tất sẽ được dạy tuyệt học của Thần Quang Chân Quân, ngươi không có thêm công lực liệu có địch lại chăng?
Nhương Thư cười khổ:
- Tiểu đệ đã hai lần hưởng dụng kỳ trân dị dược, chỉ có hại chứ chẳng lợi lộc gì!
Giờ thêm Thiên Niên Tuyết Sâm vào, không chừng sẽ trẻ đi vài chục tuổi như Độc Biển Thước thì nguy to!
Uyển Xuân bật cười khanh khách:
- Đúng vậy! Tả Nho Quan đã ngoài tám mươi mà mặt mũi nhẵn nhụi, râu tóc đen mun như người b a chục ! Nếu tướng công cũng cải lão thì e rằng thành đứa tiểu hài mất!
Ba ả họ Điền xưng hô lộn xộn, lúc thì công tử, lúc thì tướng công, tùy theo tâm trạng!