Thường khi phạt vào chuồng cọp, tù nhân phải cởi áo, quần dài, chỉ được mặc quần cụt để phơi nắng, phơi sương, dầm mưa suốt ngày đêm, mặc cho muỗi mòng cắn, hút máu người. Bị đưa vào đây, tù nhân chỉ được ăn một phần cơm với ít muối và mỗi ngày vài ba ca nước uống. Mỗi khi tiêu, tiểu, tù nhân phải lấy tay moi cát tại chỗ lấp lại.
Đêm lạnh, địch dội lên người trong chuồng cọp xô nước lạnh, gọi là "giải khát cho cọp hoặc để rửa chuồng". Ngày nóng, chúng dội nước muối lên người nạn nhân, gọi là "ướp cho mau lên cân". Có khi chúng cho đốt lửa sát chuồng cọp để "gợi cho cọp nhớ những trận cháy rừng ở Phú Quốc". Chỉ vài ngày ngồi chuồng cọp, da nạn nhân bị lột. Ngồi dài ngày, lớp da non bị cháy rồi lại bị lột tiếp. Hậu quả là nạn nhân chỉ còn da bọc xương. Ở chuồng cọp dài ngày, tóc nạn nhân dài ra.
Tên thượng sĩ Nhu - một tên tay sai đắc lực, tàn ác nhất nhì ở bộ máy trại giam tù binh Phú Quốc mỉm cười nham hiểm nói: "Để tao cắt tóc cho mày nghen". Rồi hắn đổ dầu hắc lên đầu nạn nhân, châm lửa đốt. Lửa cháy trên đầu, chảy xuống cùng dầu hắc làm phỏng mặt, cổ của người tù.
Một hình thức kỷ luật ngỡ êm dịu mà vô cùng khủng khiếp, đó là hình thức cho người tù ăn cơm lạt. Ông Phan Văn Nhẫn - nguyên Trưởng ban Nông thôn của Đài Phát thanh Giải phóng, một tù binh từng nếm mùi ăn cơm lạt ở Phú Quốc nói: "Nạn nhân bị khép hình thức kỷ luật ăn cơm lạt vô cùng khổ sở, khi cơ thể thiếu chất, biến chứng thành nhiều căn bệnh quái lạ. Nạn nhân thèm đủ thứ, kiệt sức nhanh chóng. Chỉ cần 2 tháng ăn cơm lạt, mắt người tù không thấy gì. Lúc ấy, có muốn vượt ngục cũng chẳng thấy đường mà đi.
Có đồng chí bị phạt ăn cơm lạt đến 5-6 tháng trời, hai mắt bị hư mù tự lúc nào. Cho đến một hôm, chỉ cần di chuyển nhẹ, hai tròng mắt của đồng chí ấy rơi xuống, bốc mùi tanh khủng khiếp!". Ở trại biệt giam ăn cơm lạt, đứng từ xa đã thấy bốc mùi tanh. Không bao giờ phái đoàn Hội Thập tự đỏ được chúng cho tham quan khu biệt giam, bởi mùi tanh rất đặc biệt ấy!
Tên thượng sĩ nhất Nhu bày ra nhiều hình thức đánh đập, hành hạ tù nhân như trò tiêu khiển. Tên đồ tể khét tiếng ấy kỳ lạ thay lại ăn chay, đêm đêm tụng kinh, lần tràng hạt. Việc tra tấn tù binh với hắn là một thói quen, một thú vui, thỉnh thoảng pha chút khôi hài. Một trong những "thú vui" của hắn là bắt tù binh lộn vỉ sắt. Hắn cho lật ngửa tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau làm "đường băng sân bay" rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài, chỉ còn chiếc quần đùi. Cứ như vậy, nạn nhân bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau. Mỗi lần bị phạt, nạn nhân phải lộn vài chục cái.
Có lúc cao hứng, hắn gọi 2-3 tù binh ra xếp vỉ sắt trước nhà hắn, bắt lộn cho hắn coi. Hắn thản nhiên nhìn những tấm lưng trần của tù binh quật xuống những mấu vỉ sắt làm rướm máu. Chỉ cần lộn vài lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
Những tên đồ tể ở Phú Quốc đặc biệt có nhiều sáng kiến tạo ra những dụng cụ tra tấn kỳ lạ. Bọn giám thị và quân cảnh cho thợ mộc làm những chiếc chày vồ bằng gỗ có cán bên hông như chày giã gạo. Chúng dùng chày vồ đánh vào các khớp xương như mắt cá, cùi chỏ, đầu gối, bả vai của tù nhân. Bị đánh bằng chày vồ, người tù lê lết cả buổi cũng chưa gượng dậy nổi.
Tên Nhu thường tra tấn tù nhân bằng những dụng cụ chuyên dùng. Một trong các dụng cụ đó là những cây gậy được hắn gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như "gậy bỏ cháo", nghĩa là tù nhân bị đánh gậy này không ăn cơm nổi, mà cháo cũng không nuốt nổi; "gậy đầu sanh đầu tử" là nếu đánh bằng đầu sanh thì còn hy vọng sống, nếu đánh bằng đầu tử có thể chết hoặc phải què quặt, tàn phế. Những cây gậy này dài khoảng 1 đến 1,2m, tròn, đường kính độ 3cm. Đánh bằng gậy cũng là trò giải trí của tên đồ tể này. Hắn thường nói: "Ngày nào không đánh tụi bây là tao ăn cơm không ngon”.
Có một kiểu tra tấn mới nghe qua ngỡ nhẹ nhàng nhất nhưng vô cùng thâm độc, tàn khốc. Đó là kiểu tra tấn bằng cách gõ thùng. Bọn giám thị bắt tù binh ngồi chồm hổm, lấy thùng phuy úp lên rồi gõ vào thùng. Kiểu tra tấn này khiến tù nhân sẽ bị đau đầu khủng khiếp, sẽ bị điếc vì tiếng gõ của thùng và sức ép không khí. Cũng bằng cách gõ thùng, chúng bắt tù binh cởi áo quần ngoài, cho ngồi vào thùng phuy đổ đầy nước rồi lấy cây đánh vào hông thùng. Kiểu tra tấn này khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
Nhắc đến hình phạt đục răng và bẻ răng ai cũng phải lạnh người. Ông Phan Văn Nhẫn - cựu tù binh Phú Quốc ở Long An là một trong những người bị tên Nhu bẻ răng. Ông kể:
"Trên đảo Phú Quốc có loại "danh mộc" mình đồng, cứng, chắc và nặng như căm xe, trắc... Người địa phương gọi là gỗ "sơn trà". Các giám thị khác và Nhu chọn sơn trà làm gậy đầu sanh đầu tử, búa gỗ và đục gỗ để đục răng anh em. Vũ khí của Nhu đục răng anh em gồm hai thứ: chiếc búa gỗ có dáng dấp như búa đóng đinh, cán búa và đầu búa đều bằng gỗ. Thứ hai, là cây đục - cũng bằng gỗ - được chuốt tròn, một đầu to cỡ ngón chân cái, một đầu nhỏ (để cắm vào chân răng). Hắn cho chuốt nhỏ đầu này vừa với cái răng.
Hắn gài mũi đục vào sát chân răng, dùng búa đóng "cạch" một cái, một tiếng động khô khốc vang lên. Cái răng nạn nhân bị văng ngược ra ngoài, máu me đầy miệng. Người tù binh bị Nhu đục răng ê ẩm hết cả đầu cổ, bị choáng. Hai ngày sau khi bị đục răng, nạn nhân cứ sốt hâm hấp và ớn lạnh, không ăn cơm nổi, chỉ nuốt nước cháo...
Lần đầu, tôi bị Nhu đục một cái răng, vì tội phạm vào cái việc mà hắn cấm ngặt: vào nhà bếp lấy một miếng cơm cháy (chỗ khét đen ăn không được) đem về phòng giam, bỏ vào nước uống cho đỡ tanh. Lần sau, có lẽ nghe thông tin từ bọn mật báo, Nhu đục tôi thêm 2 cái răng nữa. Hắn buộc tôi cái tội gọi là tuyên truyền. Về kỹ thuật, Nhu đục răng thuần thục lắm.
Tôi trực tiếp biết và hỏi thăm một số bạn tù khác cũng là nạn nhân của Nhu bị đục răng, thì chưa có trường hợp nào cái răng bị đục văng ngược vào cổ họng, toàn là văng ra ngoài! Nhu không đục hai cái răng liền kề nhau mà đục cách khoảng mấy cái răng. Về sau, hai cái răng liền kề hai bên cái răng bị đục đều thâm đen và rụng luôn. Tôi bị đục 3 cái răng nhưng đã mất đi 9 cái răng!
Sau ngày trao trả tù binh năm 1973, khi được đưa đi nghỉ dưỡng, một bác sĩ cho tôi biết: Nếu địch đục liên tiếp trong 3 ngày 3 cái răng của một người thì sẽ gây chấn thương nặng vùng đầu và tim. Người bị đục răng thì bị tổn thương, vĩnh viễn đến hết đời!".
Trầm Hương