“Cái tình chi?
Mượn màu son phấn ra đi . . .”
( Khúc ca Nam Bình )
Khi chào mẹ để đi ra biển, lúc ấy nào tôi có biết rằng biển ở đâu?
Mẹ tôi bảo: “Chương ơi, thế con bỏ mẹ đi à? Bỏ các em con đi à?”. Tôi không trả lời, tôi vụt ra ngõ như chạy. Tôi biết nếu tôi dừng lại lúc này thì tôi sẽ không bao giờ đi nữa. Tôi sẽ quay lại công việc của mười năm trước, tôi sẽ cứ như thế cho đến rốt đời: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột nan đan mũ. Tôi sẽ kéo mòn kiếp sống của tôi như thế. Như thể bố tôi, như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn, như những người dân hiền lành, lam lũ của quê hương tôi.
Tôi đi. . . Tôi nhắm phía mặt trời mọc mà đi. Tôi không mang theo một thứ đồ đạc nào cả trên người, trừ con dao sắc lịm mà tôi cất công sang tận Ðoài Hạ để thử. Con dao này rèn từ nhíp ô-tô, mũi nhọn, nước thép xanh biếc.
ý nghĩ về Mẹ Cả, về Gian-na Ðoàn Thị Phượng ám ảnh tôi. Con gái thủy thần, nếu tôi tìm thấy nàng thì tôi sẽ không hối tiếc gì về cuộc sống. Không hiểu vì sao tôi lại nghĩ nàng ở đấy, ở ngoài xa kia, ở biển. . .
Tôi đi qua rất nhiều làng mạc, vừa đi vừa làm thuê kiếm ăn. Những làng quê mà tôi đi qua đều buồn tẻ, tiêu điều. Quanh quẩn chỉ từng ấy cây: cây lúa, cây ngô, cây khoai lang, vài thứ rau quen thuộc. Quanh quẩn từng ấy công việc: cày lúa, cấy hái, vun trồng.
Sáng sáng, tôi tìm đến đứng ở đầu thôn xóm mà tôi đã đi qua, dưới gốc si hoặc cái quán xiêu vẹo, cũng có khi ở một chợ cóc ven đường. Có nhiều người như tôi, cả đàn ông, cả đàn bà. Học là những người dân quê phiêu tán hoặc những người nghèo trong thôn xóm. Những chợ người này họp từ gà gáy. . . Những người thuê mướn cầm đuốc soi mặt chúng tôi, nắn tay nắn chân từng người. Họ hỏi: “Có biết làm việc này không? Làm việc kia không? “. Họ và chúng tôi thỏa thuận giá cả, thưởng công lao động một ngày rất thấp, nếu làm thợ đấu thì quy ra thóc chỉ độ hai cân rưỡi đến ba cân một ngày, thợ cấy ít hơn: chỉ độ một cân hai đến một cân tám. Tôi hay nhận những việc đồng áng: cấy, gặt, gieo mạ, bón phân. Tôi không thích nhận việc trong nhà. ở ngoài đồng, không khí thoáng đãng hơn, trên đầu tôi là bầu trời tự do, tôi không vướng những mối liên hệ nào đấy với con người. Những người thuê mướn tôi cũng chẳng giàu có gì, họ cũng phải làm quần quật, đôi khi họ phải nhịn ăn để dành trả công cho thợ.
Không khí u uất, tù đọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót. Mọi người rối rít, cuống cuồng để kiếm miếng ăn. Những định kiến, tập tục thật nặng nề. Tôi đã thấy tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số phận con người. Tôi cũng thấy những ngộ nhận giới tính giết chết vẻ diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ. Rất ít thanh niên, ngoài đồng chỉ có các ông bà già, phụ nữ, và trẻ em thất học làm việc.
Sang tháng Ba, việc đồng áng vãn bớt, tôi không có việc làm thường xuyên. Có nhiều ngày tôi phải nhịn đói. Tôi đi trong đám sương mù bàng bạc dọc bờ đê. Những hạt bụi nước li ti giăng ở trước mặt, ở bên phải, bên trái, ở sau lưng. Gió hun hút thổi: “Cái đói cái rét bằng nhau”. Người xưa nói thật, chẳng ngoa tí nào. Một lần tôi nhìn thấy có ông lão ăn mày chết đói ở bên vệ đê. Một nỗi lo sợ mơ hồ thoáng dậy trong tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến cái chết, điều mà trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Ðói. Rét. Nỗi cô đơn như gió quất vào mặt. Lòng tôi cồn cào, đau đau một nổi khắc khoải hướng về Mẹ Cả, con gái thủy thần. Nàng là ai? Nàng xấu hay đẹp? Nàng ở đâu, góc biển chân trời nào?
Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện ra rực rỡ. Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú, quả cảm. Thoạt nhìn, nàng thậm chí đen đúa và lãnh cảm. Nàng không đẹp. Khoảng cách của tôi và nàng là thứ khoảng cách của hai vật thể tự do, vừa đối nghịch, vừa bao trùm. Cả tôi và nàng đều không thừa nhận sở hữu, trong khi đó chúng tôi lại muốn có nhau. Nàng muốn bao trùm tôi và tôi cũng thế. Cả tôi và nàng đều cùng tranh đấu tìm cách giải thoát sự bao trùm đó tiến tới tự do. Khi tự do là lúc nàng mất tôi và tôi mất nàng. Ðể có nàng, tôi buộc phải sống kiếp sống của kẻ khổ sai lưu đày, tôi buộc phải vắt kiệt tôi đến chết. Tâm hồn nàng ăn uống thứ thức ăn thật man rợ: đấy là từng miếng sống tươi rói của cuộc đời tôi. Tôi hình dung nàng xé xác tôi bằng bàn tay thon nhỏ, móng sắc. Nàng nhai từng miếng thịt và lè đầu lưỡi nhọn hoắt liếm những giọt máu ứa ra.
Những ý nghĩ không phải đến ngay với tôi khi ấy, khi tôi đói khát lang thang trên đường mà mãi sau này tôi mới hiểu ra. Thời tôi đang kể là thời tôi còn mụ mị, đầy những thành kiến ngộ nhận. Tôi là một thanh niên nông dân ngu độn, trong lòng đầy thứ tình cảm thương người vụn vặt, vừa duy tâm, vừa siêu hình, lại tầm thường nữa. Tôi chưa biết khinh rẽ bản thân, cũng chưa biết khinh rẽ học vấn. Tôi chưa biết cách thương mình. Những vấn vương của tôi vè mái nhà, về tình cảm xóm làng bao bọc dưới màu sắc lãng mạng huyền thoại cũng là một thứ văn hóa thấp kém, có sức trì kéo. Tôi chưa giác ngộ về lẽ tồn tại cá nhân, cũng như của cả bầy người.
Cuối tháng Bảy, tôi nhận đóng gạch cho một bà cụ người Sơn Tây. Bà cụ 80 tuổi, có người con trai đi bộ đội đóng quân ở Campodia. Bà cụ có người con gái năm nay 42 tuổi, lấy chồng ở tận làng xa, tên là Thời, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ được một buổi chiều, sấp ngữa dọn dẹp chốc lát rồi lại ra đi. Bà cụ ở một mình giữa khu vườn hoang rộng hơn sào đất. Ngồi nhà lợp ra, vách trát đứng, giỏi lắm trụ được qua hai mùa mưa là đổ. Người con trai làm đại đội trưởng công binh, tên là Thế, chưa có vợ. Bà cụ cho tôi xem những bức thư của anh viết ở Công-pông Xom, chữ rất thoáng, lời lẽ rõ ràng là của người con có hiếu.
“U ơi, xin u nương nhẹ thân mình, dầu chỉ để cho con đỡ khổ. Con hứa sang năm con sẽ về phép, con sẽ làm nhà, lấy vợ. U cứ dạm cho con một cô ở làng, mặt rỗ cũng được, góa chồng cũng được, miễn là người ta yêu thương mình. Chỉ 10 ngày phép là xong mọi việc, u sẽ mát lòng mát dạ ở dưới suối vàng. Còn con, con khỏe lắm, được mọi người yêu mến. Con luôn nhớ về u, nỗi nhớ như gai đâm ruột. . .”.
Tôi đào đất, đóng gạch ở ngay trong vườn. Công đóng một viên gạch mộc là năm hào, bà cụ nấu cơm ba bữa cho tôi ăn, trừ tiền gạo với tiền thức ăn, công thực tế chỉ còn bà hào rưỡi. Bà cụ bảo: “Tôi chỉ mong đốt cho nó được sáu vạn gạch. Nó xây nhà hết bốn vạn, còn hai vạn thì xây cái bếp. Chú tính, nếu tôi thuê chú cả vào lò, cả ra lò, chú có làm xong trước tiết Ðông chí không? “. Tôi bảo: “Ðược”. Bà cụ bảo: “Tôi vụng tính quá. Sao tôi lại đi thuê đóng gạch vào mùa mưa. Thế có khổ không? Trước tôi cứ nấn ná. Tại con mẹ Thời cả, tôi đã bảo nó bán cho tôi đôi hoa tai, nó cứ nói dối không bán được. Cũng may gặp chú, chú thương tôi, làm thuê mà như làm cho nhà mình. Cũng cái số của tôi, để phúc lại được cho con. . .”. Tôi cay xè cả mắt, tôi muốn gào lên, cho thấu trời xanh. Tôi muốn làm cho dứt hợp đồng để lại lên đường. Khốn nỗi trời cứ mưa tầm tã, đóng được vài trăm viên thì lại phải khuân vát, che chắn. Tôi đói. Tôi không có việc nào khác. Tôi bắt buộc phải nhận công việc chết rấp này, công việc có cơ khiến tôi trắng tay.
Tôi sẽ không kể lại tôi đã làm việc ra sao. Bà cụ dậy từ gà gáy, đi bòn những lá rau khoai lang, rau dền, rau mảnh cộng trong vườn để nấu canh mắm cua. Thức ăn mặn thường là tép rang, muối vừng, cua dặm. Cơm nấu trong cái nồi đất. Bà cụ nấu cơm khéo, cơm dẻo, không bao giờ nát, cháy cơm mềm chứ không khô, không lại gạo. Tất cả tâm lực bà cụ hướng về sáu vạn viên gạch. Tôi ước ao tâm lực của tôi hướng về một thứ vật chất cụ thể như thế! Nếu như thế được, mà nếu được như thế. . .
Sang tháng Mười, tôi đã đóng xong đủ sáu vạn viên, chuẩn bị đốt một lúc hai lò gạch. Trông đám gạch mộc chất cao mà sướng mắt. Bà cụ nhỏ bé, gầy yếu đứng lọt thỏm trong đống gạch tấm tức khóc. Tôi bảo: “Nếu mà đốt lò, mấy cây khế, cây chuối trong vườn chết hết cả đấ, cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Chết thì chết”, tôi bảo: “Nếu hết củi thì phải dỡ nhà mà đốt đấỵ cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Thì dỡ đi chứ! Sang năm con tôi có nhà mới rồi”.
Tôi nổi lửa đốt hai lò gạch, đốt kiểu lò dã chiến, đúng trong ngày Ðông chí, rét buốt ruột. Mâm cỗ đốt lò có chai rượu trắng với cái chân giò luộc chấm tương. Tôi uống hết nửa chai rượu, chửi tục một câu rồi kéo mái gianh nhen lửa. Bà cụ nằm trên chõng đắp chiếc chăn dạ cũ. Bà cụ đang ốm. Tôi dỡ nửa cái mái nhà mới nhen được lửa. Hai lò gạch cháy bùng, đỏ rực. Nóng như thiêu. Trời rét mà tôi đánh độc một cái quần đùi, mồ hôi túa ra như tắm. Lò đốt ba ngày ba đêm. Cây cối trong vườn xém rụi hết. Ðến đêm thứ ba thì bà cụ mất. Bà cụ mất rất nhẹ nhàng, không giối giăng gì. Tôi ôm xác bà cụ trên tay đi vòng quanh hai lò gạch như kẻ mộng du. Sáu vạn viên gạch, thế là bà cụ nợ tôi hai trăm mười nghìn đồng.
Sáng hôm sau, chị Thời con gái bà cụ dắt theo đàn con buộc khăn tang trắng chạy về. Chị Thời lần bên xác mẹ, lấy ra đôi hoa tai vàng trả công cho tôi. Tôi giắt đôi hoa tai vàng vào túi áo bỏ đi khi người ta đóng quan tài cho bà cụ. Tiếng khóc ai oán vọng sau lưng tôi. Tôi đã mất gần nữa năm làm việc ở đấy. Biển còn xa lắc. . .
Tôi gõ cửa một tiệm vàng ở thị trấn H. lúc sáng tinh mơ. Bộ dạng tôic hắc kinh khủng lắm: một nửa năm trời tôi không cắt tóc, bộ quần áo mặc từ ngày bỏ nhà ra đi đã sờn rách cả, đồ đạc trên người có mỗi con dao nhọn lưỡi.
Tôi xòe đôi hoa tai vàng dạm bán. Chủ tiệm vàng đi chân đất, quỳ xuống lạy như tế sao: “Làm gì có thứ hoa tai thế này hả cậu? Ðây là thứ đồ chơi con nít bán đầy ở chợ? Mới sáng dọn hàng xin cậu thương tôi. . .”
Tôi ngồi phệt xuống nền gạch đá hoa. Chủ tiệm vàng lấy ra các đồ nữ trang trong tủ giải thích cho tôi thế nào là vàng tây, vàng ta, thế nào là vàng bảy, vàng mười, thế nào là đồng, là bạch kim, là saphia. Tôi nghe như vịt nghe sấm. Chủ tiệm vàng dắt tôi qua quầy hàng xén bên đường, chỉ cho tôi xem những thứ hoa tai, nhẫn vàng dùng làm đồ chơi trẻ con. Ðôi hoa tai bà cụ trả công tôi y hệt thứ ấy, có thể bẻ vụn như bẻ bánh đa.
Tôi chào ông chủ tiệm vàng tốt bụng mà nhút nhát, rồi bỏ đi. Tôi đứng ở ngã ba đường. Sương mù rất dày. Xung quanh tôi vắng ngắt. Tôi rút dao ra và quyết sẽ đâm chết người đầu tiên đi qua ở trước mặt tôi lúc này để lấy một nghìn đồng đi ăn bát phở. Tôi đói. Tôi đói như một con hắc tinh tinh. Tôi đói như một con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục. Tôi đói đã nữa năm nay. Nửa năm tôi ăn độc một thứ rau khoai lang, rau dền, rau mảnh cộng, toàn thứ rau dễ mất máu.
Tôi đứng một lúc rất lâu. Sương tan dần. Một đám các cô các bà đi chợ gánh gồng đi đến. Một giọng phụ nữ rất chua khúc khích cười: “Phượng ơi, có người chờ để gánh thuê cho mày đi chợ kia kìa!”. Ðám người dừng trước mặt tôi. Tôi sững sờ nhận ra khuôn mặt người con gái có tên là Phượng, khuôn mặt đã ám ảnh tôi trong bao giấc mơ. Vẫn khuôn mặt ấy, những đường nét dứt khoát và quả cảm, vừa hồn nhiên vừa lãnh cảm. Cô Phượng cười: “Này anh kia, có gánh thuê không?”. Tôi bảo: “Có”. Cô Phượng trao gánh cho tôi. Cô Phượng bảo: “Anh gánh gạo cho tôi lên chợ, rồi tôi cho tiền mà cắt tóc”. Mọi người cười, họ vỗ vai, thụi vào ngực tôi. Tôi gánh gạo đi theo họ như việc phải làm. Tôi không hiểu vì sao như thế. Cô Phượng đi bên cạnh tôi, đung đưa cái túi xắc giả da màu đỏ.
Phiên chợ giáp Tết đông như trẩy hội. Cô Phượng bán loáng cái đã xong. Cô Phượng bảo tôi: “Tôi với anh đi ăn bún riêu. Ðợi tôi đi mua ít hàng, rồi anh gánh về cho tôi với nhé”. Tôi gật đầu. Tôi đi theo cô Phượng vào quán bún riêu. Tôi húp soạt hai lần xong bát bún. Cô Phượng phì cười, gọi thêm một bát bún nữa. Cô Phượng hỏi tôi: “Anh đói đã mấy ngày rồi?”. Tôi nói, nước mắt tự dưng ứa ra: “Tôi đói đã sáu tháng nay rồi”. Mọi người trong quán im bặt, lặng lẽ nhìn tôi. Chắc chẳng ai tin lời tôi nói. Cô Phượng không nói năng gì, bỏ dở bát bún ngồi nhìn tôi ăn. Tôi ăn xong, cô Phượng lại hỏi: “Anh có ăn bánh đúc không?”. Tôi gật đầu. Cô Phượng gọi thêm cho tôi nửa mẹt bánh đúc. Thú thực, cả đời tôi, tôi chưa bao giờ ăn uống ngon lành như thế.
Tôi gánh hàng đi theo cô Phượng về nhà. Hàng toàn vôi với sơn, tôi không biết mua để làm gì. Nhà cô Phượng ở vùng đất bãi, giống hệt quê tôi, chỉ khác ở đây có nhà thờ đạo Thiên Chúa. Cô Phượng ở với bố, một người cô mù không biết tên thật là gì, chỉ thất mọi người gọi bà là Maria. Cô Phượng có hai cô em gái, một cô tên là Thủy, một cô tên là Liên. Khi đưa tôi về, cô Phượng nói với mọi người: “Tôi nhặt được ông mãnh này ở ngã ba đường. Có vẻ dân lao động chứ không phải lưu manh bụi đường”. Bố cô Phượng hỏi: “Này anh kia, tên là gì? Có vướng trộm cắp gì không?”. Tôi bảo: “Tôi là Chương. Tôi không trộm cắp vặt”. Bố cô Phượng cười: “Tôi biết rồi, tướng anh là tướng người trộm cướp lớn chứ không phải người trộm cắp vặt. Cái *** tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Chán đời hay sao mà cánh bèo trôi dạt đến đây thế này?”. Tôi bảo: “Phận tôi nó thế”. Bà Maria lấy tay sờ mặt tôi, thốt lên: “Giê-su-ma! Chúa ơi! Người đâu mà chẳng thất thịt chỉ thấy toàn đất là đất thế này”.
Tôi ở nhà cô Phượng. Người ta hứa nuôi tôi một tháng. Bố cô Phượng là trùm xứ đạo. Công việc của tôi là sơn, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ. Công việc khó khăn nhất là phải tô sơn lại bức tượng Chúa đứng trên nóc gác chuông, bức tượng cao ba mét tám, tạc hình Chúa Giê su mặc áo choàng đỏ, dang hai tay ra, chân đứng trên quả cầu tròn. Ðây là điểm cao nhất của nóc gác chuông, hoàn toàn không có mặt để dựng giàn giáo. Muốn tô sơn lại bức tượng, tôi chỉ còn cách buộc thừng vào thân tượng. Hợp đồng công việc của tôi không có bảo hiểm. Bố cô Phượng bảo: “Xứ đạo chúng tôi nuôi anh ba bữa, anh chết thì chúng tôi chôn. Làm xong anh được hai trăm mười nghìn đồng”. Tôi nhớ đến khoản tiền công đóng gạch cho bà cụ người Sơn Tây mà cười ra nước mắt. Cô Phượng bảo tôi: “Anh nghĩ lại đi. Bức tượng làm cách đây hai trăm năm rồi, vôi vữa không khéo đã mục, leo lên đấy nhỡ chết thì sao?”. Tôi bảo: “Chúa giúp tôi. Nếu không thì chẳng có Chúa”. Bà Maria bảo: “Chúa ở nơi tim ta. Cũng ở nơi mắt ta”.
Tôi quét vôi nhà thờ gần một tháng. Ðầu tiên tôi cạo hết lớp vôi cũ rồi phủ lên hai lớp vôi trắng. Ngoài cùng tôi quét vôi vàng. Giúp việc cho tôi là cô Thủy, cô Liên. Bố cô Phượng xem xét công việc. Ông bảo tôi: “Chú em ạ, tôi chỉ tiếc chú em là kẻ vô đạo. Nếu không, tôi có ba con gái, tôi gả cho chú cả ba”. Tôi đỏ bừng mặt. Tôi cười đau đớn. Tôi đâu phải chó *** đi tìm chó cái. Trái tim tôi đã thuộc về nàng, thuộc về Mẹ Cả, thuộc về con gái Thủy Thần. Nàng là ai? Nàng ở đâu? Góc biển, chân trời nào?
Sau khi quét vôi xong và sơn lại toàn bộ cửa kính nhà thờ, tôi bắt tay vào việc tô tượng Chúa. Trước ngày tôi trèo lên gác chuông, cô Phượng nấu cho tôi một nồi nước lá hương nhu bảo tôi tắm gội. Mọi người trong nhà cô Phượng đều quan tâm săn sóc đến tôi. Họ biết có thể đến ngày mai tôi không còn ở trên cõi đời này nữa. Ông trùm đạo có vẻ bồn chồn. Nửa đêm ông kéo tôi dậy, pha một ấm trà đặc mời tôi. Ông bảo: “Cậu Chương này, hay thôi đừng tô tượng nữa. Tôi cứ lo lắng thế nào”. Tôi bảo: “Bác mặc tôi.Công việc nó thế”. Ông cụ thở dài: “ừ. Phải thế đấy. Nếu mệnh hệ nào, cậu có oán tôi không?” Tôi bảo: “Không”. Ông cụ nghĩ một lúc rồi lưỡng lự hỏi: “Cậu Chương này, cậu có giối giăng gì không?”. Tôi cười: “Nước ta có sáu mươi triệu người thì năm mươi tám triệu cười vào mũi lời giối giăng của tôi”. Ông cụ bảo: “Tôi hiểu. Cậu đi ngủ đi”.
Tôi đi ngủ. Quả thực tôi chẳng lo lắng gì. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi rất ít khi nghĩ ngợi về mình. Những khao khát của tôi nhấc tôi lên khỏi mặt đất. Những ý nghĩ của tôi không gắn gì với cuộc sống và sự tồn tại hôm nay của bản thân tôi. Hôm nay tôi sống như một con vật hay một ông hoàng có gì quan trọng? Trái tim tôi đã khô héo và cằn cỗi. Tôi biết tất cả những thiện cảm mà cô Phượng con gái ông trùm đạo dành cho tôi, thậm chí cả những thiện cảm của cô Thủy, cô Liên dành cho tôi nữa. Tôi biết hết. Tôi không có quyền gắn sinh mạng tôi với họ, bởi như thế, rốt cuộc tôi cũng lại sống như ông Nhiễu, ông Hai Thìn hoặc những người dân hiền lành lam lũ ở quê hương tôi hay ở xứ đạo này. Một mái nhà với ba bốn trái tim vàng là hết nước. Cô Phượng tôi gặp ở lớp kế toán dạo nào hay cô Phượng con ông trùm đạo ở đây cũng chỉ là một mảnh của nàng, con gái thủy thần, người tôi ước ao gặp gỡ. Nếu như số phận kỳ quặc để tôi một lúc lấy cả mấy người làm vợ, điều ấy có cần thiết gì cho bản thân tôi?
Sáng hôm sau, tôi trèo lên nóc gác chuông. Tôi lấy một sợi dây thừng để buộc thòng lọng rồi tròng lên cổ chúa Giê-su làm tựa. Tôi buộc sợi thừng vào quanh người tôi rồi vừa đánh đu, vừa làm việc. Cả xứ đạo đứng tụm ở dước gác chuông nín thở theo dõi công việc của tôi. Chỉ sơ xuất, sợi thừng đứt hoặc tôi bị mất thăng bằng, tôi sẽ rơi trên cao ba mươi hai mét xuống nền sân đá.
Tôi mê mải làm việc. Không biết bao nhiều thời gian trôi qua. Trong ống tay áo Giê su có một tổ chim. Những cọng rơm của tổ chim chẳng khác những sợi vàng ròng.
Ðến cuối ngày, tôi đã tô xong bức tượng. Một niềm hân hoan khiến tôi nghẹt thở. Phút cuối cùng, không hiểu sao, tôi đã không kìm được ý thích ngông cuồng là được ký tên lên vầng trán thanh thản của Chúa. Lần vào mái tóc xõa, tôi dùng con dao nhọn lưỡi vạch tên tôi lên đấy. Về việc này, đến sau này tôi phải trả một giá rất đắt, tôi không lường được.
Tôi đứng trên vai bức tượng mắt nhìn về xa. Mặt biển dâng trước mắt tôi, căng như sợi chỉ. Tôi nghe thấy tiếng sóng như tiếng người thở dốc. Những tia hào quang lấp lánh ở một góc biển và không hiểu sao tôi nghĩ đấy là nơi con gái thủy thần trú ẩn.
Tôi xuống sân nhà thờ trong sự hân hoan của toàn xứ đạo. Tôi thấy xây xẩm, bải hoải toàn thân. Tôi nằm xấp xuống bậc đá ngất đi. Tôi thấy hồn tôi nhẹ như sợi khói. Hồn tôi bay là là trên các bậc thềm nhà thờ, lên các mái gianh, mái rạ, lên các ngỏ nhỏ, các vườn chuối. Hồn tôi bay trên các cánh đồng khô nẻ. . . Tôi không biết mọi người đưa tôi về nhà từ khi nào nữa.
Nghỉ ngơi dăm hôm, tôi lại lên đường. Tôi mặc bộ quần áo nâu nhuộm đỏ, dắt bên lưng con dao nhọn lưỡi. Cả nhà cô Phượng lưu luyến tiễn tôi. Ông trùm đạo, bà Maria, cô Thủy, cô Liên tiễn tôi đến cuối vườn chuối thì dừng lại. Bà Maria quàng vào cổ tôi sợi dây đeo thánh giá rồi làm dấu trên ngực tôi. Cô Phượng đưa tiễn tôi thêm một quãng ngắn nưa. Cô Phượng bảo tôi: “Anh Chương này, thế anh đi thực à?” Tôi gật đầu, tôi bảo: “Thôi em về đi. Em nhớ cầu nguyện cho anh”. Cô Phượng gục đầu vào ngực tôi nức nở: “Thôi anh đi đi, chân cứng đá mềm. Em chẳng giữ được. . . Xin anh nương nhẹ thân mình, dù chỉ cho em đỡ khổ”.
Tôi vùng bỏ đi như chạy. Trước mặt tôi là dòng sông. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển. . . Thế mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000. . .
Tôi cứ đi. . . Phía trước mặt tôi còn biết bao điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần? Là tình chi? Con gái thủy thần? Ðể tôi mượn màu son phấn ra đi. . .
Hà Nội Tết Canh Ngọ, 1990
Nguyễn Huy Thiệp
( trích “Nguyễn Huy Thiệp -- Tác phẩm và dư luận” -- Hồng Lĩnh )
( Khúc ca Nam Bình )
Khi chào mẹ để đi ra biển, lúc ấy nào tôi có biết rằng biển ở đâu?
Mẹ tôi bảo: “Chương ơi, thế con bỏ mẹ đi à? Bỏ các em con đi à?”. Tôi không trả lời, tôi vụt ra ngõ như chạy. Tôi biết nếu tôi dừng lại lúc này thì tôi sẽ không bao giờ đi nữa. Tôi sẽ quay lại công việc của mười năm trước, tôi sẽ cứ như thế cho đến rốt đời: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột nan đan mũ. Tôi sẽ kéo mòn kiếp sống của tôi như thế. Như thể bố tôi, như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn, như những người dân hiền lành, lam lũ của quê hương tôi.
Tôi đi. . . Tôi nhắm phía mặt trời mọc mà đi. Tôi không mang theo một thứ đồ đạc nào cả trên người, trừ con dao sắc lịm mà tôi cất công sang tận Ðoài Hạ để thử. Con dao này rèn từ nhíp ô-tô, mũi nhọn, nước thép xanh biếc. ý nghĩ về Mẹ Cả, về Gian-na Ðoàn Thị Phượng ám ảnh tôi. Con gái thủy thần, nếu tôi tìm thấy nàng thì tôi sẽ không hối tiếc gì về cuộc sống. Không hiểu vì sao tôi lại nghĩ nàng ở đấy, ở ngoài xa kia, ở biển. . .
Tôi đi qua rất nhiều làng mạc, vừa đi vừa làm thuê kiếm ăn. Những làng quê mà tôi đi qua đều buồn tẻ, tiêu điều. Quanh quẩn chỉ từng ấy cây: cây lúa, cây ngô, cây khoai lang, vài thứ rau quen thuộc. Quanh quẩn từng ấy công việc: cày lúa, cấy hái, vun trồng.
Sáng sáng, tôi tìm đến đứng ở đầu thôn xóm mà tôi đã đi qua, dưới gốc si hoặc cái quán xiêu vẹo, cũng có khi ở một chợ cóc ven đường. Có nhiều người như tôi, cả đàn ông, cả đàn bà. Học là những người dân quê phiêu tán hoặc những người nghèo trong thôn xóm. Những chợ người này họp từ gà gáy. . . Những người thuê mướn cầm đuốc soi mặt chúng tôi, nắn tay nắn chân từng người. Họ hỏi: “Có biết làm việc này không? Làm việc kia không? “. Họ và chúng tôi thỏa thuận giá cả, thưởng công lao động một ngày rất thấp, nếu làm thợ đấu thì quy ra thóc chỉ độ hai cân rưỡi đến ba cân một ngày, thợ cấy ít hơn: chỉ độ một cân hai đến một cân tám. Tôi hay nhận những việc đồng áng: cấy, gặt, gieo mạ, bón phân. Tôi không thích nhận việc trong nhà. ở ngoài đồng, không khí thoáng đãng hơn, trên đầu tôi là bầu trời tự do, tôi không vướng những mối liên hệ nào đấy với con người. Những người thuê mướn tôi cũng chẳng giàu có gì, họ cũng phải làm quần quật, đôi khi họ phải nhịn ăn để dành trả công cho thợ.
Không khí u uất, tù đọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót. Mọi người rối rít, cuống cuồng để kiếm miếng ăn. Những định kiến, tập tục thật nặng nề. Tôi đã thấy tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số phận con người. Tôi cũng thấy những ngộ nhận giới tính giết chết vẻ diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ. Rất ít thanh niên, ngoài đồng chỉ có các ông bà già, phụ nữ, và trẻ em thất học làm việc.
Sang tháng Ba, việc đồng áng vãn bớt, tôi không có việc làm thường xuyên. Có nhiều ngày tôi phải nhịn đói. Tôi đi trong đám sương mù bàng bạc dọc bờ đê. Những hạt bụi nước li ti giăng ở trước mặt, ở bên phải, bên trái, ở sau lưng. Gió hun hút thổi: “Cái đói cái rét bằng nhau”. Người xưa nói thật, chẳng ngoa tí nào. Một lần tôi nhìn thấy có ông lão ăn mày chết đói ở bên vệ đê. Một nỗi lo sợ mơ hồ thoáng dậy trong tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến cái chết, điều mà trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Ðói. Rét. Nỗi cô đơn như gió quất vào mặt. Lòng tôi cồn cào, đau đau một nổi khắc khoải hướng về Mẹ Cả, con gái thủy thần. Nàng là ai? Nàng xấu hay đẹp? Nàng ở đâu, góc biển chân trời nào?
Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện ra rực rỡ. Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú, quả cảm. Thoạt nhìn, nàng thậm chí đen đúa và lãnh cảm. Nàng không đẹp. Khoảng cách của tôi và nàng là thứ khoảng cách của hai vật thể tự do, vừa đối nghịch, vừa bao trùm. Cả tôi và nàng đều không thừa nhận sở hữu, trong khi đó chúng tôi lại muốn có nhau. Nàng muốn bao trùm tôi và tôi cũng thế. Cả tôi và nàng đều cùng tranh đấu tìm cách giải thoát sự bao trùm đó tiến tới tự do. Khi tự do là lúc nàng mất tôi và tôi mất nàng. Ðể có nàng, tôi buộc phải sống kiếp sống của kẻ khổ sai lưu đày, tôi buộc phải vắt kiệt tôi đến chết. Tâm hồn nàng ăn uống thứ thức ăn thật man rợ: đấy là từng miếng sống tươi rói của cuộc đời tôi. Tôi hình dung nàng xé xác tôi bằng bàn tay thon nhỏ, móng sắc. Nàng nhai từng miếng thịt và lè đầu lưỡi nhọn hoắt liếm những giọt máu ứa ra.
Những ý nghĩ không phải đến ngay với tôi khi ấy, khi tôi đói khát lang thang trên đường mà mãi sau này tôi mới hiểu ra. Thời tôi đang kể là thời tôi còn mụ mị, đầy những thành kiến ngộ nhận. Tôi là một thanh niên nông dân ngu độn, trong lòng đầy thứ tình cảm thương người vụn vặt, vừa duy tâm, vừa siêu hình, lại tầm thường nữa. Tôi chưa biết khinh rẽ bản thân, cũng chưa biết khinh rẽ học vấn. Tôi chưa biết cách thương mình. Những vấn vương của tôi vè mái nhà, về tình cảm xóm làng bao bọc dưới màu sắc lãng mạng huyền thoại cũng là một thứ văn hóa thấp kém, có sức trì kéo. Tôi chưa giác ngộ về lẽ tồn tại cá nhân, cũng như của cả bầy người.
Cuối tháng Bảy, tôi nhận đóng gạch cho một bà cụ người Sơn Tây. Bà cụ 80 tuổi, có người con trai đi bộ đội đóng quân ở Campodia. Bà cụ có người con gái năm nay 42 tuổi, lấy chồng ở tận làng xa, tên là Thời, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ được một buổi chiều, sấp ngữa dọn dẹp chốc lát rồi lại ra đi. Bà cụ ở một mình giữa khu vườn hoang rộng hơn sào đất. Ngồi nhà lợp ra, vách trát đứng, giỏi lắm trụ được qua hai mùa mưa là đổ. Người con trai làm đại đội trưởng công binh, tên là Thế, chưa có vợ. Bà cụ cho tôi xem những bức thư của anh viết ở Công-pông Xom, chữ rất thoáng, lời lẽ rõ ràng là của người con có hiếu.
“U ơi, xin u nương nhẹ thân mình, dầu chỉ để cho con đỡ khổ. Con hứa sang năm con sẽ về phép, con sẽ làm nhà, lấy vợ. U cứ dạm cho con một cô ở làng, mặt rỗ cũng được, góa chồng cũng được, miễn là người ta yêu thương mình. Chỉ 10 ngày phép là xong mọi việc, u sẽ mát lòng mát dạ ở dưới suối vàng. Còn con, con khỏe lắm, được mọi người yêu mến. Con luôn nhớ về u, nỗi nhớ như gai đâm ruột. . .”.
Tôi đào đất, đóng gạch ở ngay trong vườn. Công đóng một viên gạch mộc là năm hào, bà cụ nấu cơm ba bữa cho tôi ăn, trừ tiền gạo với tiền thức ăn, công thực tế chỉ còn bà hào rưỡi. Bà cụ bảo: “Tôi chỉ mong đốt cho nó được sáu vạn gạch. Nó xây nhà hết bốn vạn, còn hai vạn thì xây cái bếp. Chú tính, nếu tôi thuê chú cả vào lò, cả ra lò, chú có làm xong trước tiết Ðông chí không? “. Tôi bảo: “Ðược”. Bà cụ bảo: “Tôi vụng tính quá. Sao tôi lại đi thuê đóng gạch vào mùa mưa. Thế có khổ không? Trước tôi cứ nấn ná. Tại con mẹ Thời cả, tôi đã bảo nó bán cho tôi đôi hoa tai, nó cứ nói dối không bán được. Cũng may gặp chú, chú thương tôi, làm thuê mà như làm cho nhà mình. Cũng cái số của tôi, để phúc lại được cho con. . .”. Tôi cay xè cả mắt, tôi muốn gào lên, cho thấu trời xanh. Tôi muốn làm cho dứt hợp đồng để lại lên đường. Khốn nỗi trời cứ mưa tầm tã, đóng được vài trăm viên thì lại phải khuân vát, che chắn. Tôi đói. Tôi không có việc nào khác. Tôi bắt buộc phải nhận công việc chết rấp này, công việc có cơ khiến tôi trắng tay.
Tôi sẽ không kể lại tôi đã làm việc ra sao. Bà cụ dậy từ gà gáy, đi bòn những lá rau khoai lang, rau dền, rau mảnh cộng trong vườn để nấu canh mắm cua. Thức ăn mặn thường là tép rang, muối vừng, cua dặm. Cơm nấu trong cái nồi đất. Bà cụ nấu cơm khéo, cơm dẻo, không bao giờ nát, cháy cơm mềm chứ không khô, không lại gạo. Tất cả tâm lực bà cụ hướng về sáu vạn viên gạch. Tôi ước ao tâm lực của tôi hướng về một thứ vật chất cụ thể như thế! Nếu như thế được, mà nếu được như thế. . .
Sang tháng Mười, tôi đã đóng xong đủ sáu vạn viên, chuẩn bị đốt một lúc hai lò gạch. Trông đám gạch mộc chất cao mà sướng mắt. Bà cụ nhỏ bé, gầy yếu đứng lọt thỏm trong đống gạch tấm tức khóc. Tôi bảo: “Nếu mà đốt lò, mấy cây khế, cây chuối trong vườn chết hết cả đấ, cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Chết thì chết”, tôi bảo: “Nếu hết củi thì phải dỡ nhà mà đốt đấy cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Thì dỡ đi chứ! Sang năm con tôi có nhà mới rồi”.
Tôi nổi lửa đốt hai lò gạch, đốt kiểu lò dã chiến, đúng trong ngày Ðông chí, rét buốt ruột. Mâm cỗ đốt lò có chai rượu trắng với cái chân giò luộc chấm tương. Tôi uống hết nửa chai rượu, chửi tục một câu rồi kéo mái gianh nhen lửa. Bà cụ nằm trên chõng đắp chiếc chăn dạ cũ. Bà cụ đang ốm. Tôi dỡ nửa cái mái nhà mới nhen được lửa. Hai lò gạch cháy bùng, đỏ rực. Nóng như thiêu. Trời rét mà tôi đánh độc một cái quần đùi, mồ hôi túa ra như tắm. Lò đốt ba ngày ba đêm. Cây cối trong vườn xém rụi hết. Ðến đêm thứ ba thì bà cụ mất. Bà cụ mất rất nhẹ nhàng, không giối giăng gì. Tôi ôm xác bà cụ trên tay đi vòng quanh hai lò gạch như kẻ mộng du. Sáu vạn viên gạch, thế là bà cụ nợ tôi hai trăm mười nghìn đồng.
Sáng hôm sau, chị Thời con gái bà cụ dắt theo đàn con buộc khăn tang trắng chạy về. Chị Thời lần bên xác mẹ, lấy ra đôi hoa tai vàng trả công cho tôi. Tôi giắt đôi hoa tai vàng vào túi áo bỏ đi khi người ta đóng quan tài cho bà cụ. Tiếng khóc ai oán vọng sau lưng tôi. Tôi đã mất gần nữa năm làm việc ở đấy. Biển còn xa lắc. . .
Tôi gõ cửa một tiệm vàng ở thị trấn H. lúc sáng tinh mơ. Bộ dạng tôic hắc kinh khủng lắm: một nửa năm trời tôi không cắt tóc, bộ quần áo mặc từ ngày bỏ nhà ra đi đã sờn rách cả, đồ đạc trên người có mỗi con dao nhọn lưỡi.
Tôi xòe đôi hoa tai vàng dạm bán. Chủ tiệm vàng đi chân đất, quỳ xuống lạy như tế sao: “Làm gì có thứ hoa tai thế này hả cậu? Ðây là thứ đồ chơi con nít bán đầy ở chợ? Mới sáng dọn hàng xin cậu thương tôi. . .”
Tôi ngồi phệt xuống nền gạch đá hoa. Chủ tiệm vàng lấy ra các đồ nữ trang trong tủ giải thích cho tôi thế nào là vàng tây, vàng ta, thế nào là vàng bảy, vàng mười, thế nào là đồng, là bạch kim, là saphia. Tôi nghe như vịt nghe sấm. Chủ tiệm vàng dắt tôi qua quầy hàng xén bên đường, chỉ cho tôi xem những thứ hoa tai, nhẫn vàng dùng làm đồ chơi trẻ con. Ðôi hoa tai bà cụ trả công tôi y hệt thứ ấy, có thể bẻ vụn như bẻ bánh đa.
Tôi chào ông chủ tiệm vàng tốt bụng mà nhút nhát, rồi bỏ đi. Tôi đứng ở ngã ba đường. Sương mù rất dày. Xung quanh tôi vắng ngắt. Tôi rút dao ra và quyết sẽ đâm chết người đầu tiên đi qua ở trước mặt tôi lúc này để lấy một nghìn đồng đi ăn bát phở. Tôi đói. Tôi đói như một con hắc tinh tinh. Tôi đói như một con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục. Tôi đói đã nữa năm nay. Nửa năm tôi ăn độc một thứ rau khoai lang, rau dền, rau mảnh cộng, toàn thứ rau dễ mất máu.
Tôi đứng một lúc rất lâu. Sương tan dần. Một đám các cô các bà đi chợ gánh gồng đi đến. Một giọng phụ nữ rất chua khúc khích cười: “Phượng ơi, có người chờ để gánh thuê cho mày đi chợ kia kìa!”. Ðám người dừng trước mặt tôi. Tôi sững sờ nhận ra khuôn mặt người con gái có tên là Phượng, khuôn mặt đã ám ảnh tôi trong bao giấc mơ. Vẫn khuôn mặt ấy, những đường nét dứt khoát và quả cảm, vừa hồn nhiên vừa lãnh cảm. Cô Phượng cười: “Này anh kia, có gánh thuê không?”. Tôi bảo: “Có”. Cô Phượng trao gánh cho tôi. Cô Phượng bảo: “Anh gánh gạo cho tôi lên chợ, rồi tôi cho tiền mà cắt tóc”. Mọi người cười, họ vỗ vai, thụi vào ngực tôi. Tôi gánh gạo đi theo họ như việc phải làm. Tôi không hiểu vì sao như thế. Cô Phượng đi bên cạnh tôi, đung đưa cái túi xắc giả da màu đỏ.
Phiên chợ giáp Tết đông như trẩy hội. Cô Phượng bán loáng cái đã xong. Cô Phượng bảo tôi: “Tôi với anh đi ăn bún riêu. Ðợi tôi đi mua ít hàng, rồi anh gánh về cho tôi với nhé”. Tôi gật đầu. Tôi đi theo cô Phượng vào quán bún riêu. Tôi húp soạt hai lần xong bát bún. Cô Phượng phì cười, gọi thêm một bát bún nữa. Cô Phượng hỏi tôi: “Anh đói đã mấy ngày rồi?”. Tôi nói, nước mắt tự dưng ứa ra: “Tôi đói đã sáu tháng nay rồi”. Mọi người trong quán im bặt, lặng lẽ nhìn tôi. Chắc chẳng ai tin lời tôi nói. Cô Phượng không nói năng gì, bỏ dở bát bún ngồi nhìn tôi ăn. Tôi ăn xong, cô Phượng lại hỏi: “Anh có ăn bánh đúc không?”. Tôi gật đầu. Cô Phượng gọi thêm cho tôi nửa mẹt bánh đúc. Thú thực, cả đời tôi, tôi chưa bao giờ ăn uống ngon lành như thế.
Tôi gánh hàng đi theo cô Phượng về nhà. Hàng toàn vôi với sơn, tôi không biết mua để làm gì. Nhà cô Phượng ở vùng đất bãi, giống hệt quê tôi, chỉ khác ở đây có nhà thờ đạo Thiên Chúa. Cô Phượng ở với bố, một người cô mù không biết tên thật là gì, chỉ thất mọi người gọi bà là Maria. Cô Phượng có hai cô em gái, một cô tên là Thủy, một cô tên là Liên. Khi đưa tôi về, cô Phượng nói với mọi người: “Tôi nhặt được ông mãnh này ở ngã ba đường. Có vẻ dân lao động chứ không phải lưu manh bụi đường”. Bố cô Phượng hỏi: “Này anh kia, tên là gì? Có vướng trộm cắp gì không?”. Tôi bảo: “Tôi là Chương. Tôi không trộm cắp vặt”. Bố cô Phượng cười: “Tôi biết rồi, tướng anh là tướng người trộm cướp lớn chứ không phải người trộm cắp vặt. Cái *** tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Chán đời hay sao mà cánh bèo trôi dạt đến đây thế này?”. Tôi bảo: “Phận tôi nó thế”. Bà Maria lấy tay sờ mặt tôi, thốt lên: “Giê-su-ma! Chúa ơi! Người đâu mà chẳng thất thịt chỉ thấy toàn đất là đất thế này”.
Tôi ở nhà cô Phượng. Người ta hứa nuôi tôi một tháng. Bố cô Phượng là trùm xứ đạo. Công việc của tôi là sơn, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ. Công việc khó khăn nhất là phải tô sơn lại bức tượng Chúa đứng trên nóc gác chuông, bức tượng cao ba mét tám, tạc hình Chúa Giê su mặc áo choàng đỏ, dang hai tay ra, chân đứng trên quả cầu tròn. Ðây là điểm cao nhất của nóc gác chuông, hoàn toàn không có mặt để dựng giàn giáo. Muốn tô sơn lại bức tượng, tôi chỉ còn cách buộc thừng vào thân tượng. Hợp đồng công việc của tôi không có bảo hiểm. Bố cô Phượng bảo: “Xứ đạo chúng tôi nuôi anh ba bữa, anh chết thì chúng tôi chôn. Làm xong anh được hai trăm mười nghìn đồng”. Tôi nhớ đến khoản tiền công đóng gạch cho bà cụ người Sơn Tây mà cười ra nước mắt. Cô Phượng bảo tôi: “Anh nghĩ lại đi. Bức tượng làm cách đây hai trăm năm rồi, vôi vữa không khéo đã mục, leo lên đấy nhỡ chết thì sao?”. Tôi bảo: “Chúa giúp tôi. Nếu không thì chẳng có Chúa”. Bà Maria bảo: “Chúa ở nơi tim ta. Cũng ở nơi mắt ta”.
Tôi quét vôi nhà thờ gần một tháng. Ðầu tiên tôi cạo hết lớp vôi cũ rồi phủ lên hai lớp vôi trắng. Ngoài cùng tôi quét vôi vàng. Giúp việc cho tôi là cô Thủy, cô Liên. Bố cô Phượng xem xét công việc. Ông bảo tôi: “Chú em ạ, tôi chỉ tiếc chú em là kẻ vô đạo. Nếu không, tôi có ba con gái, tôi gả cho chú cả ba”. Tôi đỏ bừng mặt. Tôi cười đau đớn. Tôi đâu phải chó *** đi tìm chó cái. Trái tim tôi đã thuộc về nàng, thuộc về Mẹ Cả, thuộc về con gái Thủy Thần. Nàng là ai? Nàng ở đâu? Góc biển, chân trời nào?
Sau khi quét vôi xong và sơn lại toàn bộ cửa kính nhà thờ, tôi bắt tay vào việc tô tượng Chúa. Trước ngày tôi trèo lên gác chuông, cô Phượng nấu cho tôi một nồi nước lá hương nhu bảo tôi tắm gội. Mọi người trong nhà cô Phượng đều quan tâm săn sóc đến tôi. Họ biết có thể đến ngày mai tôi không còn ở trên cõi đời này nữa. Ông trùm đạo có vẻ bồn chồn. Nửa đêm ông kéo tôi dậy, pha một ấm trà đặc mời tôi. Ông bảo: “Cậu Chương này, hay thôi đừng tô tượng nữa. Tôi cứ lo lắng thế nào”. Tôi bảo: “Bác mặc tôi.Công việc nó thế”. Ông cụ thở dài: “ừ. Phải thế đấy. Nếu mệnh hệ nào, cậu có oán tôi không?” Tôi bảo: “Không”. Ông cụ nghĩ một lúc rồi lưỡng lự hỏi: “Cậu Chương này, cậu có giối giăng gì không?”. Tôi cười: “Nước ta có sáu mươi triệu người thì năm mươi tám triệu cười vào mũi lời giối giăng của tôi”. Ông cụ bảo: “Tôi hiểu. Cậu đi ngủ đi”.
Tôi đi ngủ. Quả thực tôi chẳng lo lắng gì. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi rất ít khi nghĩ ngợi về mình. Những khao khát của tôi nhấc tôi lên khỏi mặt đất. Những ý nghĩ của tôi không gắn gì với cuộc sống và sự tồn tại hôm nay của bản thân tôi. Hôm nay tôi sống như một con vật hay một ông hoàng có gì quan trọng? Trái tim tôi đã khô héo và cằn cỗi. Tôi biết tất cả những thiện cảm mà cô Phượng con gái ông trùm đạo dành cho tôi, thậm chí cả những thiện cảm của cô Thủy, cô Liên dành cho tôi nữa. Tôi biết hết. Tôi không có quyền gắn sinh mạng tôi với họ, bởi như thế, rốt cuộc tôi cũng lại sống như ông Nhiễu, ông Hai Thìn hoặc những người dân hiền lành lam lũ ở quê hương tôi hay ở xứ đạo này. Một mái nhà với ba bốn trái tim vàng là hết nước. Cô Phượng tôi gặp ở lớp kế toán dạo nào hay cô Phượng con ông trùm đạo ở đây cũng chỉ là một mảnh của nàng, con gái thủy thần, người tôi ước ao gặp gỡ. Nếu như số phận kỳ quặc để tôi một lúc lấy cả mấy người làm vợ, điều ấy có cần thiết gì cho bản thân tôi?
Sáng hôm sau, tôi trèo lên nóc gác chuông. Tôi lấy một sợi dây thừng để buộc thòng lọng rồi tròng lên cổ chúa Giê-su làm tựa. Tôi buộc sợi thừng vào quanh người tôi rồi vừa đánh đu, vừa làm việc. Cả xứ đạo đứng tụm ở dước gác chuông nín thở theo dõi công việc của tôi. Chỉ sơ xuất, sợi thừng đứt hoặc tôi bị mất thăng bằng, tôi sẽ rơi trên cao ba mươi hai mét xuống nền sân đá.
Tôi mê mải làm việc. Không biết bao nhiều thời gian trôi qua. Trong ống tay áo Giê su có một tổ chim. Những cọng rơm của tổ chim chẳng khác những sợi vàng ròng.
Ðến cuối ngày, tôi đã tô xong bức tượng. Một niềm hân hoan khiến tôi nghẹt thở. Phút cuối cùng, không hiểu sao, tôi đã không kìm được ý thích ngông cuồng là được ký tên lên vầng trán thanh thản của Chúa. Lần vào mái tóc xõa, tôi dùng con dao nhọn lưỡi vạch tên tôi lên đấy. Về việc này, đến sau này tôi phải trả một giá rất đắt, tôi không lường được.
Tôi đứng trên vai bức tượng mắt nhìn về xa. Mặt biển dâng trước mắt tôi, căng như sợi chỉ. Tôi nghe thấy tiếng sóng như tiếng người thở dốc. Những tia hào quang lấp lánh ở một góc biển và không hiểu sao tôi nghĩ đấy là nơi con gái thủy thần trú ẩn.
Tôi xuống sân nhà thờ trong sự hân hoan của toàn xứ đạo. Tôi thấy xây xẩm, bải hoải toàn thân. Tôi nằm xấp xuống bậc đá ngất đi. Tôi thấy hồn tôi nhẹ như sợi khói. Hồn tôi bay là là trên các bậc thềm nhà thờ, lên các mái gianh, mái rạ, lên các ngỏ nhỏ, các vườn chuối. Hồn tôi bay trên các cánh đồng khô nẻ. . . Tôi không biết mọi người đưa tôi về nhà từ khi nào nữa.
Nghỉ ngơi dăm hôm, tôi lại lên đường. Tôi mặc bộ quần áo nâu nhuộm đỏ, dắt bên lưng con dao nhọn lưỡi. Cả nhà cô Phượng lưu luyến tiễn tôi. Ông trùm đạo, bà Maria, cô Thủy, cô Liên tiễn tôi đến cuối vườn chuối thì dừng lại. Bà Maria quàng vào cổ tôi sợi dây đeo thánh giá rồi làm dấu trên ngực tôi. Cô Phượng đưa tiễn tôi thêm một quãng ngắn nưa. Cô Phượng bảo tôi: “Anh Chương này, thế anh đi thực à?” Tôi gật đầu, tôi bảo: “Thôi em về đi. Em nhớ cầu nguyện cho anh”. Cô Phượng gục đầu vào ngực tôi nức nở: “Thôi anh đi đi, chân cứng đá mềm. Em chẳng giữ được. . . Xin anh nương nhẹ thân mình, dù chỉ cho em đỡ khổ”.
Tôi vùng bỏ đi như chạy. Trước mặt tôi là dòng sông. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển. . . Thế mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000. . .
Tôi cứ đi. . . Phía trước mặt tôi còn biết bao điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần? Là tình chi? Con gái thủy thần? Ðể tôi mượn màu son phấn ra đi. . .