Tôi với cô đi dọc bờ kênh giữa cánh đồng.
Tôi mặc chiếc áo vải tốt màu trắng cộc tay, váy hoa xoè nền xanh, đi đôi giầy da đen láng, đầu đội chiếc mũ mềm rộng vành, tay xách chiếc ví vải hoa xanh nhạt; cô cầm chiếc ô che nắng màu xanh, mặc chiếc áo cánh vải trắng và chiếc quần lụa đen rộng thùng thình…
Lúc này vào tầm giữa buổi, nắng chưa gắt, những cây dâu thưa thớt bên bờ mương vẫn còn che được nắng, trong khoảng thời gian này, cũng có thể tận hưởng từng làn gió mát phả lên mặt.
Theo sau chúng tôi là tiếng “phạch phạch phạch” đều đều của những chiếc công nông đang nhả khói đen cuồn cuộn. Trong thùng công nông có khi đầy gạch ngói, có khi đầy ắp một toán nông dân đội nón, nam nữ, già trẻ đều có. Khi xe vượt qua, họ ngoái lại nhìn chúng tôi bằng ánh mắt hiếu kỳ, dò xét.
Bên kia bờ mương là ruộng lúa, mạ non đã cao hơn nửa tấc, xanh mơn mởn, trông lướt qua, chúng giống như những khóm hẹ. Bên này bờ mương cũng chính là con dốc dẫn xuống bờ ruộng chúng tôi đang hướng tới là những ruộng ngô ngút tầm mắt. Thân ngô cao vút hơn đầu người, mang dáng vẻ của những người đàn bà từng trải. Nhưng nhìn kỹ, lại giống như những người đàn bà chửa xếp hàng, ưỡn vú phơi bụng để đón nhận sự kiểm duyệt của ánh mặt trời và gió sớm. Những bắp ngô kia, một số đã căng no –– ở góc vỏ áo bó sát thân bị nứt ra đã lộ những hạt ngô trắng hoặc vàng ươm, giống như bầu vú trẻ trung mới phát tiết, lại giống như đứa trẻ đang đói đòi bú… Trong đó, có cây một bắp, có cây hai bắp, có cây ba bắp…
Lúc học cấp III, tôi đã từng được học những tri thức thực vật thụ tinh qua phấn hoa, hơn nữa còn có thể tự thụ thai, bấy giờ tôi cảm thấy rất thần bí. Nhưng bây giờ trước ruộng ngô ngút tầm này, tưởng tượng cảnh những người nông dân bắt đầu chuẩn bị thu hoạch, tôi đã lĩnh hội được sự thần bí của chúa tể tạo vật và vũ trụ vô cùng vô tận, trong lòng chợt cảm khái vô cùng.
Giới thực vật có thể tự thụ phấn hoa, còn động vật, loài người vì sao cứ buộc phải một bố một mẹ, một trống một mái, một nam một nữ góp lại mới xong? Nếu con người giống như thực vật, giống như loài ngô kia thì tốt xiết bao! Sinh sản vô tính, cũng chẳng yêu đương, chẳng cần cưới xin, vẫn có thể sinh con, vẫn có thể truyền đời nối dõi tổ tông…
Cho dù không thể sinh, hoặc không muốn sinh, cũng có thể trở thành một cây mía, đứng trong rừng những người đàn bà chửa, cùng chia sẻ niềm vui của đồng loại mang thai, cùng hưởng niềm hân hoan sinh đẻ, sau đó chắt chiu nước ngọt, nhuộm ngấm vào thể xác, để ngọt đến tận cùng…
- Tiểu Ngọc, con nghĩ gì thế? Mau lên.
Tiếng cô cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.
- Không, con không nghĩ gì.
Tôi quay người lại, cắm cúi bám theo cô ở phía trước.
- Đến thôn xóm cần phải chào hỏi, đừng có ngây ra như gỗ nhé.
Cô lại dặn dò.
- Vâng, con biết rồi. Lúc con còn nhỏ đã được nhắc đến mấy trăm lượt rồi.
Tôi nhíu mày ra vẻ không vui, trề môi nói.
- Con cho rằng mình là sinh viên đại học, là người lớn rồi à? Nói thực, dù con có làm người mẹ, trong mắt cô, con vẫn là trẻ con.
Cô vui vẻ lẩm nhẩm.
Tôi cũng chẳng để ý, lại ngoái đầu lại nhìn ruộng ngô, hy vọng có thể tiếp tục được mạch giả tưởng và những suy nghĩ thầm kín của mình.
Hình bóng Ngô Nguyên bỗng xuất hiện, anh đang chạy như bị ma đuổi trong ruộng ngô…
Nhưng đấy chỉ là ảo giác, một dạng ảo ảnh.
Tôi biết anh vẫn còn ở lại trường, đang tham gia hội nghị và viết tài liệu. Có lẽ “Quả quýt”, chiến hữu trên cùng một chiến tuyến chính trị của anh, đã học được cách “ép sát kèm người” từ sân chơi bóng rổ, hiện giờ cũng đang ngồi bên anh, cẩn thận miệt mài giúp anh cất những bản thảo viết tay (tôi rất lấy làm lạ vì sao cứ khi nghĩ đến Ngô Nguyên là rất tự nhiên nghĩ đến “Quả quýt” với dung mạo chẳng lấy làm đẹp đẽ, có lẽ tôi đã bị ma ám chăng. Cô ta đáng để tôi ghen ư? Là một người con gái, tôi tin rằng, cô ta chẳng có gì hấp dẫn Ngô Nguyên. Vấn đề là họ thường xuyên ở bên nhau… có lẽ, đây là mấu chốt của vấn đề… có lẽ, cũng không có lẽ… có lẽ cô ta đích xác là người đàn bà được thượng đế phái xuống để giúp đỡ Ngô Nguyên thành công… Tôi thề, từ nay về sau tôi sẽ nhất định cố gắng không ghen với cô ta nữa)… hơn nữa, tối qua, Ngô Nguyên đã nhờ em gái tới nhà tôi (nhà anh vừa mới lắp điện thoại), đưa cho tôi một phong bì, trong đó là năm nghìn năm trăm Nhân dân tệ. Nhắn lại rằng hội nghị thành đoàn có thể kéo dài một tuần, ngầm bảo rằng anh có thể nuốt lời, khi phẫu thuật sẽ không ở bên tôi, xin tôi tha thứ. Tôi tuy có chút thất vọng, nhưng nói thực, cái tôi cần thực ra là tấm lòng của anh, chứ không nhất thiết anh phải ở bên tôi. Hơn nữa, đây chẳng phải sinh con đẻ cái,… càng quan trọng hơn là, lời hứa giúp đỡ tiền cho tôi cũng đã đủ như hẹn,… nhưng trong lòng tôi còn một gánh nặng khác –– chẳng phải cô nàng “Quả quýt” xấu cùi bùi hột kia níu kéo anh ở lại sao?
Nhưng cuối cùng tôi cũng tỉnh ngộ ra một điều –– đó là ngày trước anh cứu vớt tôi từ vũng lầy khổ ải ra, nay chính anh lại là nguồn căn khổ muộn và phiền não trong tôi.
Đúng thế, nếu như khi xưa tôi đừng yêu Ngô Nguyên, tinh thần và những phiền toái về thể xác của tôi liệu có trở thành nỗi ám ảnh tôi không?
“Thực vật, ngô, sinh sản vô tính, vô tính, Ngô Nguyên, vô…” Tôi nghĩ.
Lại một chiếc công nông phành phạch chạy qua, cuốn theo bụi đất.
Tôi vội kéo sụp chiếc mũ xuống, bịt mũi.
Nhưng chiếc công nông chạy qua chúng tôi, bỗng phanh kít lại.
- Bà Hai đấy ư? Đầu tiên là người lái công nông –– một thanh niên để trần bắp tay, nhễ nhại mồ hôi –– ngoảnh đầu lại, chào to. Tiếp đó, mấy người ngồi trên thùng xe phía sau cũng nhảy cả xuống, vây lấy “cô Hai”, “bà Hai” luôn mồm chào hỏi. Cô tôi vừa trả lời, vừa luôn miệng giục tôi chào lúc thì “thím Ba”, “chú Tư”, lúc thì “bác Cả”, “dì Hai”.
- A, Thạch Ngọc đấy à! Sao mà cao lớn thế này? Đẹp như tranh ấy. Nếu cô chẳng nói, cháu còn cho là tiên nữ giáng trần cơ. A, a, thật là….
Thím Ba có mấy chiếc răng hàm dưới cứ chìa ra bỗng kêu lên kinh ngạc, mắt trân trân nhìn tôi, hai tay không ngừng nắn nắn trước ngực, sau đó lại hỏi:
- Từ khi cháu lên thành phố đến giờ mới trở lại quê? Cô hai cháu, thím còn gặp đôi lần.
- Có về hai lần, lúc cha cháu mất được năm mười năm, nhưng mãi sẩm tối mới về rồi lại đi ngay.
Tôi trả lời làm cho thím Ba có vẻ áy náy.
- à, ra thế, cha cháu mất được mười mấy năm rồi nhỉ?
- Hôm nay là tròn mười ba năm.
- Hoá ra hai cô cháu về tảo mộ?
Tôi gật đầu.
- Người tốt thật, cha cháu đúng là người tốt, nhưng lại bị oan.
Lúc này, một người phụ nữ luống tuổi đứng cạnh thím ba chen vào.
- Ông bị oan điều gì?
Tôi vội vã hỏi.
- ừ, điều này…
Cô ta bỗng chốc ấp a ấp úng.
- Thôi, Tiểu Ngọc, mau đi nào.
Cô bỗng kéo nhẹ cánh tay tôi.
“ở lại mấy ngày!” “Rỗi rãi tới nhà tôi chơi nhé!”… Mọi người mồm năm miệng bảy khách khí mời chào, rồi lần lượt quay trở lại thùng công nông không có mui che.
Chiếc công nông rùng mình, tiếp là tiếng nổ “phành phạch” động trời, lắc lư chạy tiếp.
Tôi ngước mắt nhìn ra xa xa, mái ngói xanh xám, cây dải quạt cao cao thẳng vút phía sau những ngôi nhà của ngôi làng cũ đã hiện ra lờ mờ.
- Cô, mỗi lần con hỏi chuyện về cha con, sao cô cứ luôn đánh trống lảng thế?
Tôi nhìn theo chiếc công nông, không chịu được vặn hỏi.
- Cô đánh trống lảng lúc nào?
Cô vội vã phủ nhận.
- Cái gì là không đánh trống lảng. Lần nào cô chẳng thế. Bình thường hỏi đến cô, cô chẳng chịu nói. Về đến nhà cũ, muốn hỏi, cô lại chặn lại. Chẳng lẽ bố con đã làm việc gì mờ ám không dám nhìn mặt người ta nữa?
- Thạch Ngọc, cô không cho phép con nghĩ về cha con như vậy.
Nét mặt cô bỗng trở nên nghiêm nghị.
- Thế cô hãy nói, rốt cục chuyện của cha con như thế nào. Vừa nãy thím kia nói là oan, điều này con tin, khi còn sống cha con nói là ông đã sai, ông không nên đi học nghề y làm gì. Nó có ý nghĩa gì? Cô, thật mà, việc này, con cảm thấy cô đang giấu con điều gì đó. Con đã lớn rồi, con biết phân biệt phải trái mà.
Cô cúi đầu không nói. Chỉ nghe tiếng bước chân cô lạo xạo trên cát.
Lát sau, cô mới ngoảnh đầu về phía tôi, mắt đỏ hoe, nói:
- Không phải cô không muốn cho con biết, cũng chẳng phải cô giấu con. Sau này con khắc tự hiểu, con sẽ hiểu được dụng ý của cô. Cha con đúng là một người tốt, ông bị oan, đó là điều con không được phép nghi ngờ. Nhưng ông bị oan thế nào, vì sao bị oan lại liên quan tới rất nhiều người, thậm chí có người còn rất gần gũi với con nữa. Cho nên, con đừng có dò hỏi. Điều này tốt cho cả con. Hiểu chưa? Con cần phải nhớ lấy.
Tôi im lặng gật đầu, nhưng vẫn không chịu được lại hỏi:
- Cô nói sẽ ảnh hưởng tới người rất thân thiết của con, người ấy là ai? Trên thế giới này ngoài cô và cha con ra, lẽ nào lại còn có người thân thiết nữa? Lẽ nào…
Một ý nghĩ chưa hề có vụt loé lên trong đầu tôi, tôi vội im bặt, không dám nói tiếp.
Cô cũng chẳng giải thích. Cô chỉ đổi chiếc ví da từ tay phải sang tay trái, rồi lại lầm lũi đi trước.
Nhưng trong lòng tôi lại có sự băn khoăn do dự chưa từng có: “… ngoài cha mẹ sinh tôi ra, còn có ai có thể là người thân thiết với tôi? Lẽ nào cái chết của cha lại liên quan tới cha mẹ đẻ của tôi? Nhưng, tôi được vớt từ dưới nước lên, chẳng có cha mẹ đẻ! Nếu có, đó nhất định phải là loại cha mẹ ác hơn cầm thú, nếu không sao họ lại nỡ vứt tôi đi trong chiếc yếm?…” Tôi nghĩ trong lòng, liếc trộm cô. Tôi quyết định mình sẽ giữ thật kín điều vừa phát hiện, không để cô biết, có cơ hội, tôi sẽ tự điều tra, tự làm sáng tỏ. Cho dù cha mẹ đẻ tôi là người thế nào, bất kể hiện tại họ sống hay chết, bất kể từ nay về sau tôi có nhận họ hay không, có thể làm rõ thân thế mơ hồ của mình là cũng đáng lắm rồi.
Nhưng những việc này chưa phải là việc cần gấp của tôi hiện giờ.
Ngày mai, tôi phải tới Nam Kinh để thực hiện ca mổ. Đấy là việc quan trọng đối với đường đời và vận mệnh của tôi.
Hôm qua, cô dắt tôi lên chùa Tuệ Giác thắp hương, cầu mong Bồ tát chúc phúc và phù hộ. Hôm nay, chúng tôi lại về tế lạy trước mộ cha tôi, nói với ông rằng tôi theo lời dặn dò của ông, đã tìm được chiếc chìa khoá chuẩn bị mở thể xác tôi –– dì Doãn Hoa, một chuyên gia phụ khoa xuất sắc, một nữ quân nhân nhiệt tình, tài năng, sẵn lòng giúp đỡ người khác, hy vọng cha có thể bằng lòng, và phù hộ cho tôi lên đường bình an…
Chúng tôi qua chiếc cầu đá, men theo bờ kênh đi về đoạn đường nhỏ, sau đó lại vòng lên hướng bắc xuống một con dốc nhỏ. Cuối cùng, ngôi nhà ngói ba gian xiêu xiêu vẹo vẹo của chúng tôi cũng hiện ra trong vạt ruộng ngô cao hơn tầm người. Chúng tôi tiến về phía trước, chỉ thấy dưới mái hiên cây cỏ um tùm, ngay đến dấu chân người cũng chẳng có. Nhìn kỹ, đầu hồi phía tây đã sụp đổ, chỉ còn bờ vách cao hơn đầu gối, gạch vỡ tứ tung. Đỉnh gian phía tây, một nửa cũng đã trống trơn –– khẳng định chẳng còn viên ngói nào nữa, rui mè hẳn cũng chẳng cam chịu cảnh tịch mịch đã phơi bày cả ra. Cánh cửa khép hờ, chúng tôi đẩy cửa bước vào, chân tường, nền nhà đã mọc đầy cỏ dại. Chỉ có gian phía đông còn nguyên vẹn như cũ, không bị “tan nát bởi thu phong”, nhưng đã trở thành gian nuôi tằm, tiếng tằm ăn rỗi rào rào. Tôi hiếu kỳ nhặt một con tằm đang gặm lá trên nong đặt vào lòng bàn tay, con tằm mềm nhũn khẽ rúm lại, rồi rất nhanh chóng thích ứng với môi trường sinh tồn mới, coi bàn tay tôi là cái nong, tiếp tục gặm lá dâu. Trong phòng mùi tanh tưởi nồng nặc, tôi chỉ chịu được một lát, rồi phải lao ra ngay.
Cô nói trước hết cần phải đi tìm trưởng thôn, bàn bạc về chuyện sửa sang lại ngôi nhà tổ này của chúng tôi –– kể từ khi cha mất đi, ngôi nhà này đã dành cho đội sản xuất (sau đổi thành tổ) làm kho. Đến bây giờ đổ nát, chẳng ai đoái hoài. Vừa may hiện nay một đứa cháu họ xa của cô làm trưởng thôn, cô muốn tìm anh ta để bàn cách. Bất kể thế nào, theo chính sách của nhà nước hiện nay, đây vẫn thuộc một phần gia sản của Thạch gia, cô quyết định cần phải giữ gìn nó.
Nhân đây cũng nói luôn, quan hệ thu nhận nuôi dưỡng giữa tôi và cô, tuy một năm sau khi lên thành phố đã được Dân chính và các ngành liên quan phê chuẩn, nhưng hộ khẩu của tôi thực sự chuyển vào thành phố lại là chuyện của bảy tám năm sau. Trước đấy, lương thực hàng năm của tôi đều được đội sản xuất cho người đưa lên.
- Sửa hay không thì có ý nghĩa gì? Cô con mình chẳng bao giờ quay về đây ở cả.
Tôi không cho rằng cách nghĩ của cô là đúng.
- Con thì biết cái gì? Cô trừng mắt nhìn tôi: - Họ đã dùng bấy năm, chúng ta đã không lấy một cắc tiền cho thuê, giúp chúng ta sửa lại là điều nên làm.
- Nhưng cô thử nghĩ, sửa xong mà chẳng có người ở thì cũng bằng không à?
- Sao con biết không có người ở? Đến khi con lấy chồng, cô sẽ chuyển về ở đây, hương khói cho ông bà, và cha con. Không khí ở đây còn chẳng trong lành hơn thành phố ấy chứ.
- Con không tin cô sẽ chuyển về đây. Ngay đến cái hố xí cũng chẳng tiện lợi. Nếu không, cô tìm họ sửa xong rồi bán quách đi thì còn đáng.
- Bán? Thế mà được à? Còn mồ mả ông bà, cha con đều ở sau vườn…
Lúc đó tôi cứng miệng, chẳng thể nói được lời nào. Nhưng ngẫm nghĩ một lát, lại nói:
- Nhưng, con không thể cùng cô đến nhà trưởng thôn. Con ở đây đợi cô về cùng khấn, thắp hương, đốt pháo nhé.
- Được, tuỳ con.
Cô nói rồi trao cho tôi chiếc sắc, hớt hải đi theo con đường mòn phía tây.
Ngay lúc đó, tôi chẳng có việc gì phải làm, cũng chẳng có người quen nào tìm tôi. Lứa bạn hồi nhỏ của tôi, ấn tượng rất mờ nhạt, lại thêm mười ba năm đã qua, thì dù có “gặp mặt cũng chẳng biết tên”.
Tôi đứng ở chân tường phía tây một lát. Thế đất ở đây cao ráo, có chút gió phây phẩy làm bớt cái oi bức buổi giữa trưa.
Tôi lướt nhìn từ chỗ mình đứng ra xung quanh.
Cạnh hồi nhà phía tây là một vạt đất trũng kéo dài mãi từ phía nam lên mạn bắc, nay đã trồng đậu hoàng.
Nhưng trong ký ức của tôi, đây là con sông nho nhỏ chỉ có lau sậy.
Bốn năm chục mét phía phải trước nhà tổ, trước đấy có một cái ao tròn tròn, xung quanh cũng mọc đầy lau sậy. Bờ bắc có một chỗ khuyết nhỏ, nối liền với con kênh phía dưới đầu hồi phía tây. Tôi đã từng giặt quần áo ở con sông này, đã từng học bơi trong cái ao nhỏ đó.
Nhưng cái ao đã bị lấp bằng, nay là khoảng đất trũng trồng khoai sọ. Làn gió phe phẩy, những chiếc lá khoai đung đưa khiến tôi hồi tưởng đến những chiếc lá sen che gần kín ao ngày xưa…
Còn bờ ao về hướng nam? Cũng có một chỗ khuyết nối liền với một con sông nhỏ khác. Con sông đó, là một nhánh của con sông Long Bối nổi tiếng. Ngược dòng nhánh sông này là đập Long Bối. Theo người ta nói, khi Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, từng cưỡi Bạch Long mã qua đây, Bạch Long mã khát nước, bèn vục đầu xuống kênh uống nước –– đương nhiên lúc đó con sông này chưa có tên là Long Bối. Khi Bạch Long mã uống xong, vừa ngẩng đầu lên, bỗng thấy bên kia bờ có một toán nông dân đang nóng lòng đợi thuyền qua sông, nó bèn khẽ quay mình, vung đuôi trắng mấy cái. Vậy là một con đê như lưng rồng lập tức hiện lên trên mặt nước… Từ khi có con đập, người qua lại con sông này chẳng cần thuyền bè.
Năm xưa, khi cha tôi đi nom bệnh về, đang dò dẫm qua con đập này thì gặp tôi đang trôi dạt trên mặt nước…
Nhưng đáng tiếc con đập không còn nữa, dòng Long Bối cũng đã bị san phẳng. Mọi người sợ đói, hận là không san phẳng tất cả sông hồ thành ruộng tốt dùng để cày cấy.
Quê tôi đã thay đổi như vậy.
Tôi phóng tầm mắt, bốn bề quanh tôi đều là những ngôi nhà hai tầng nhỏ, lác đác mọc lên ngôi nhà ba tầng.
Mọi người đã giầu hơn trước nhiều rồi.
Nhưng tôi có một chút thất vọng vẩn vơ –– quê tôi đã rất khó nhận ra, cũng chẳng còn vẻ đáng yêu thuần khiết như trước đây.
…
Cô tôi đi một lúc lâu rồi mới trở lại. Cô nói với tôi là đã bàn với trưởng thôn, gạch gói, gỗ lạt do thôn cung cấp, tiền công thợ do chúng tôi tự bỏ. Cần phải nói rằng đây là phương án chấp nhận được.
Chúng tôi chuẩn bị lễ cúng.
Nhưng ngôi mộ của cha tôi đã bị gạt bằng, rất khó xác định chính xác mộ nằm ở đâu, hơn nữa cho dù có thể xác định được, chúng tôi cũng không thể chen vào giữa ruộng ngô dày đặc để thắp hương. Cuối cùng, chúng tôi lựa khoảng đất trống phía bắc cạnh đầu hồi phía tây để làm đàn tế.
Cô cháu tôi đốt tiền âm phủ, vàng bạc, giấy súc mang từ thành phố về, quỳ trên chiếc túi giả da, kính cẩn hướng về phía mộ của ông bà và cha tôi phía phải cây dải quạt dập đầu. Cô tôi vừa lạy, vừa lầm rầm khấn: “… bố mẹ và bố của cháu Tiểu Ngọc, xin hãy giúp cho Tiểu Ngọc, phù hộ cháu…”
Tôi cũng nói những lời mong mỏi người thân giúp đỡ, nhưng là: “Ông, bà và cha, hãy nhận lấy tiền để tiêu, nếu không đủ hãy nói với con. Đợi khi con tốt nghiệp, có công ăn việc làm, con sẽ thường xuyên quay về đốt tiền vàng để ông bà và bố dùng…”
Sau khi đốt xong tiền vàng, chúng tôi đốt pháo.
Chúng tôi mang về 20 quả pháo, theo cách nói của cô, là để cầu xin cho tôi mọi điều thuận lợi. Cô còn chuẩn bị một thẻ hương thơm, dùng châm pháo.
- Con làm cho.
Tôi giành lấy thẻ hương từ tay cô, hít một hơi thở sâu, nhưng bị khói làm cho cay xè, nước mắt giàn giụa. Tôi cứ để nước mắt thế mà châm vào ngòi pháo dựng đứng. Những quả pháo sau mỗi tiếng “đoàng” rồi vọt lên là mỗi lần tôi kêu ré lên, hai tay bịt chặt tai, ngóng một tiếng nổ tiếp theo trên không trung.
Hai mươi quả, mỗi quả hai tiếng nổ, nghe rất nhộn tai. Tôi và cô đều cảm thấy rất phấn khởi, cho rằng những người thân dưới âm ty đang cùng chúc phúc cho chúng tôi…
Lễ cúng hoàn tất, chúng tôi đứng dậy phát hiện ra có một lũ trẻ đã xúm quanh tự lúc nào. Theo lời cô dặn, tôi lấy viên kẹo ra phân phát cho bọn trẻ.
Chia kẹo xong, tôi bỗng nhìn thấy cô thu những tờ tiền vàng chưa đốt cất vào túi giả da.
- Sao lại không đốt hết?
Tôi ngạc nhiên hỏi.
- ừ… cô còn dùng tới.
- Còn phải đốt lần nữa à?
- ừ… đến lúc đó con tự khắc biết.
Cô buồn buồn trả lời, như cố ý giấu diếm điều gì.
Chúng tôi ăn cơm trưa ở nhà một bà già. Sau bữa nghỉ ngơi một lát, cô dẫn tôi trở về thành phố. Nhưng khi chúng tôi tới cây cầu đá, cô không lên cầu mà men theo bờ kênh đi thẳng về hướng đông.
- Đi đâu vậy cô? Không về nhà à?
Tôi thắc mắc hỏi.
- Cô bỗng muốn đi thăm cô em gái, vòng hơi xa một chút.
- Cô út? Sao con chưa từng nghe thấy cô nói qua?
- Đúng. Đừng cho rằng con lớn thế này thì chuyện gì cũng biết cả.
Cô nói, rồi bỗng thở dài.
Chúng tôi đi theo bờ kênh chừng hơn hai dặm, sau đó vượt qua cầu về hướng nam đi khoảng ba mươi lăm phút, cô ngoái trước nhìn sau, chốc đi chốc dừng, rồi rẽ vào một con ngõ nhỏ, cuối cùng dừng chân trước một ngôi nhà thấp lè tè.
- Bà Tư có nhà không?
Cô tôi gọi to, như thể trong nhà có người điếc.
- Bà tìm ai đấy?
Trong nhà một bà già lưng còng còng run rẩy bước ra. Bà ta như không chỉ điếc, mà chắc mắt cũng kèm nhèm.
- Tôi là Tiểu Lan con ông cử Thạch ở Tây Trang đây. Sao, không nhớ ra tôi à?
- Hả, bà Tiểu Lan –– Cô Hai, chẳng phải cô ở thành phố sao?
- Vâng, tôi về nhà có chút việc, tiện ghé thăm bà, bà có khoẻ không?
- Khoẻ cái nỗi gì nữa, mong chết mà không xong, chỉ nhọc người khác, còn cô gái này? Con cái nhà ai đấy?
Bà già chậm chậm quay đầu, hỏi tôi.
- Cháu gái tôi, Thạch Ngọc.
- Thạch Ngọc? Có phải con gái của em trai bà?
Ánh mắt tối tăm của bà Tư chợt sáng lên, nhìn tôi rất chăm chú. Bỗng nhiên, cánh tay bà run rẩy bấu lấy tay tôi, trong khoé mắt nước mắt chực trào ra, miệng khô đét giật giật:
- … Hả, cháu là Thạch Ngọc, con ngoan, đã –– đã lớn thế này rồi. Có phúc rồi, có một người cô tốt…
- Bà Tư, tôi hỏi bà một chút, mộ con gái bà ở đâu?
Cô tôi vội vã cắt lời.
- Bà nói gì?
Bà Tư vẫn chưa nghe rõ lời cô, vén áo vạt xô quệt quệt nước mắt hỏi.
- Tôi hỏi con gái bà –– Mộ của Mĩ Hoa ở đâu?
Cô lớn tiếng hỏi lại.
- Ừ, bà Tư nói –– Mộ của Mĩ Hoa à, ở vườn rau trước mặt ấy. Quấy quả bà nghĩ đến cháu nó.
- Phiền bà chỉ cho, chúng tôi đốt cho cô ấy chút giấy tiền.
- Được, được…
Bà Tư nói, vội rút cây gậy phía sau cửa làm gậy chống, run rẩy bước ra khỏi gian phòng tối.
- Đây này, cái cây này sau khi chôn nó mới trồng, nó rất thích hoa đào.
Bà Tư dẫn chúng tôi đến góc vườn phía đông nam, chỉ gốc cây đào cong cong nói, cố gắng ngăn những giọt nước mắt tận thẳm sâu trong khoé mắt chực trào ra.
Thân cây đào sù sì, cành phía trên chõe ra, giống như chiếc ô che kín một góc vườn. Cô dọn một khoảng đất trống dưới bóng cây đào, lặp lại một lượt giống như trình tự lúc cúng tế ông bà và bố tôi, cái khác là không đốt pháo (chúng tôi đã đốt hết pháo).
- Tiểu Ngọc, con cũng lạy cho cô mấy lạy.
Tôi đang đứng sau lưng cô như người ngoài cuộc xem, thầm nghĩ đây có thể là cô em út thế nào, bỗng nghe cô nói với mình, vội vã gật đầu.
Tôi vái lấy lệ mấy cái rồi đứng dậy, chợt thấy cô nước mắt giàn giụa.
Trước mộ ông bà và bố tôi, cô chẳng hề như vậy.
…
- Vào nhà ngồi chơi chút đã.
Bà Tư nói.
- Thôi, chúng tôi đi cho kịp xe.
Cô dụi mắt nói.
- Uống chén nước rồi hẵng đi. Bà Tư lại nói.
- Không được, không thể được. Cô nói, rút tờ giấy bạc một trăm Nhân dân tệ, ấn vào tay bà Tư: - Bà phải giữ gìn sức khoẻ đấy, sau này có dịp chúng tôi lại về thăm bà.
Chúng tôi mau chóng rời khỏi nhà bà Tư, quay trở lại lối cũ.
Trên đường, tôi không đừng được hỏi:
-
Cô, cái người gọi là Mỹ Hoa rốt cục là thế nào với cô? Xem ra, trước kia các cô rất tốt với nhau, rất thân thiết, nếu không, sao cô lại khóc? Nhưng, trước đây con chưa bao giờ nghe cô nói tới cô ấy.
Cô nhìn tôi, muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi, cuối cùng cô nói:
- Sau này, sau này nhé. Sẽ có một ngày, cô sẽ nói nguồn căn mọi chuyện với con.
Tôi không đừng được ngoái đầu lại, nhìn về hướng nhà bà Tư. Vẫn thấy bà già chống gậy đứng trước ngôi nhà ảm đạm, ngây dại nhìn theo chúng tôi.
Bỗng nhiên, khi vượt qua con rạch trước cửa nhà người đàn bà ấy, dưới bóng chiều, một khoảng ruộng hẹ xanh tươi và tốp nam nữ đang phun thuốc trừ sâu đã đập vào mắt tôi. Tất cả dường như rất quen thuộc.
Tôi chợt nhớ ra, khi cha đưa tôi lên thành phố, chúng tôi đã từng đi qua con đường này.
Bỗng nhiên, trong đám ruộng đó một hình ảnh hiện ra rất rõ ràng, định rõ trên nền trời xanh thẳm:
–– Đó là người đàn mất trí