Tôi ra khỏi trường gọi điện thoại cho dì Doãn Hoa bằng lời lẽ kín đáo thông báo tin dữ với cô nơi đó đã “hợp long”. Cô ấy nghe dường như cũng rất thất vọng hoặc rất ân hận, một lúc lâu không nói được lời nào. Sau đó, giọng dì Doãn Hoa từ đầu bên kia ngập ngừng: “… quả thật, dì rất tiếc, đây cũng điều dì lo lắng nhất. Nếu rỗi, cháu hãy đến Nam Kinh đi, dì sẽ giúp cháu kiểm tra lại. Nếu có thể, lại làm một lần nữa…”
Tôi còn biết nói gì?
Tôi nói: “Vâng, cháu cám ơn”. Rồi chẳng thể nói được gì nữa.
Mãi đến khi nghe được tiếng “tút tút tút” trong điện thoại, tôi mới biết người đầu dây bên kia đã gác máy trước tôi.
Tôi như người mất hồn mất vía thất thểu bước trở về, đến đầu đường suýt va phải một chiếc xe đạp, tôi giật mình lùi lại, lại vấp phải gánh hàng rong.
- Cô mù à? Tâm thần chắc? Người bán hàng lớn tiếng mắng chửi. Tôi còn chẳng kịp nói lời “xin lỗi”, thì một bọn hiếu sự vây kín xung quanh. Tôi vừa cẩn thận xin lỗi, vừa lặng lẽ quỳ xuống nhặt những quả táo lăn khắp khoảng đất dưới những con mắt tò mò chòng chọc. Chẳng hiểu sao, nước mắt tôi cứ trào ra.
- Hay lắm mà khóc? Cô khóc chắc tôi không khóc! Cô làm dập nát hết táo thử hỏi tôi còn bán được cho ai?
Người bán hàng lại la lối.
Tôi không dám lên tiếng, không biết tiếp theo ông ta sẽ hoạnh hoẹ mình những gì, đành phó thác mặc trời.
Lúc này trong đám người đó có kẻ lên tiếng:
- Anh vội bán làm gì, không trông thấy tấm thẻ trên người cô ta sao? Sinh viên trường đại học nổi tiếng, sao mà đẹp thế, lại có văn hoá, có tri thức, sao lại không bắt đền cô ta?
- Đền? Đền thế nào? Anh đi mà bảo cô ta! Người bán hàng vẫn gào lên.
- Quá dễ, bảo cô ta nhặt xong rồi cân lên, mua về mà chia cho bạn học không được à?
Có người đưa ra ý kiến coi như là hiển nhiên.
- Cô ấy mang về làm sao được? Như có người lo lắng cho tôi.
- Không phải lo, tiểu thư, nếu tiểu thư đồng ý, tôi sẽ giúp tiểu thư mang về. Miễn phí luôn.
Khẳng định là một kẻ hiếu sự, bởi vì anh ta vừa nói xong thì đám người xung quanh cười rộ lên.
Lại có người đứng ngay sau lên tiếng:
- Anh làm sao biết người ta là “tiểu thư”? Nói có sách mách có chứng, không được xưng hô bừa bãi…
Tôi dường như bị rơi vào vực thẳm khốn cùng, quỳ trên đất mà không dám ngửng đầu lên, cũng chẳng dám lên tiếng, sợ lại gây ra những lời bàn tán càng khó nghe.
Quả táo cuối cùng cũng đã nhặt xong, tôi đứng dậy, hướng về người bán hàng –– một người đàn ông có đôi mắt trắng dã –– khiếp sợ nói:
- … Bác, cháu nhặt xong rồi. Bác xem ––.
- Xem, xem, xem cái đít. Như thế này còn bán cho ai?
- Thế –– Bác bảo phải làm thế nào?
- Còn làm thế nào? Cô không nghe thấy à? Mang về đi, bán tất cho cô đấy, chúng ta chẳng ai nợ ai.
Ông ta nói rồi nhấc cả thúng táo lên cân, liếc nhìn vạch số trên cán cân: - Bốn mươi hai cân ba lạng, trừ hai cân bì, còn bốn mươi cân ba. Tôi tính là bốn mươi cân. Bốn một là bốn, bốn ba mười hai, năm mươi hai đồng. Thôi, tôi chịu lỗ một chút, không tính số lẻ, tôi lấy cô năm mươi đồng chẵn.
- Năm mươi đồng?
Suýt soát nửa tháng tiền ăn của tôi. Lòng nặng trĩu, tôi chẳng biết phải làm thế nào. Nhưng tôi vẫn cố thử móc số tiền lẻ trong túi ra đếm, tất cả được chín đồng sáu hào bảy xu.
Xung quanh tôi lúc đó lại rộ tiếng xì xào.
Đang trong lúc khó khăn đó, bỗng có người gọi tên tôi:
- Thạch Ngọc, có cần giúp đỡ không?
Tôi vội vã ngoái đầu lại.
Hoá ra là Dabruce. Người Mỹ này đã từng gọi tôi là “Thạch nữ”. Từ sau đó, mấy lần gặp nhau ở sân trường, anh ta rất muốn chào hỏi tôi, nhưng tôi chẳng thèm nhìn mà ngoảnh đi nơi khác… đó không chỉ vì tôi sợ anh ta lại gọi nhầm tôi là “Thạch nữ”, cái quan trọng hơn là tôi cảm thấy đôi mắt xanh không cùng chủng tộc với tôi dường như đã nhìn thấu những bí mật trong thể xác tôi, và hơn nữa, anh ta là một thủ phạm trong cơn ác mộng “vụ án luân phiên hãm hiếp tôi”… Tóm lại, đối với con người này tôi có một kiểu đề phòng là tránh tiếp xúc và kính nhi viên chi bản năng…
Nhưng, trong giây phút gay cấn này, trường hợp khốn quẫn này, người Mỹ này lại xuất hiện giúp đỡ tôi…
Ngay lúc đó, tôi chẳng biết phải trả lời cho phải.
Cần phải biết rằng, những người vây lớp trước lớp sau quanh tôi đều là đồng bào đồng chủng, đồng tộc, đồng văn với tôi, nhưng phần lớn trong số họ ngoài việc dậu đổ bìm leo, thực chất họ cũng đang muốn chứng kiến một trò cười tiếp theo của tôi…
- … Anh, anh có thể cho vay tiền được không? Tôi ấp úng hỏi.
- Không vấn đề gì. Anh ta khảng khái nói, hạ ba lô xuống bên tôi, chiếc ví đã ở trong tay từ lúc nào: - Cần bao nhiêu?
Dabruce hỏi lại.
- Năm mươi đồng, có không?
Tôi không yên tâm hỏi.
- Có.
Anh ta nói, ngón tay thô kệch vụng về lôi từ ví ra mấy tờ tiền mười đồng.
- Về trường sẽ trả anh.
Tôi nói.
- Không cần, giỏ –– táo này –– tôi –– bán (mua)(1) rồi.
Anh ta nói, khẽ nhấc nhấc giỏ táo rồi hơi dồn sức, đặt lên vai.
Chúng tôi xoay người sắp bước đi, bỗng nghe tiếng người bán hàng hét lớn:
- Không được, cái thúng này tôi cũng tính tiền!
- Bao nhiêu?
Dabruce ngoái lại hỏi.
- Năm đồng.
- Chẳng phải anh vừa ăn hiếp một cô gái, giờ lại muốn ăn hiếp một người nước ngoài nữa à, cái giỏ này –– ờ, không đúng, cái thúng, chỉ đáng một đồng.
- Ba đồng. Không thể ít hơn. Nếu không, anh túm áo mà mang về.
- Được, tôi cho anh. Dabruce lại lôi ra ba đồng xu một tệ. Nhưng khi người bán hàng chìa tay đón lấy, Dabruce giật lại, gằn giọng: - Nhưng, tôi cần –– phải nói cho sư cô (anh), hành vi của sư cô hôm nay, rất giống một tên côn đồ năm (vô) lại(2).
Nói xong, anh ta quăng mấy đồng xu vào hộp gỗ trước mặt người bán hàng.
Đám đông bấy giờ mới giãn ra nhường lối cho chúng tôi.
Nhưng, tôi vẫn còn nghe người bán hàng làu bàu phía sau:
- … Biết trước có Tây trả tiền thì mình đã chẳng đưa ra cái giá này.
Tôi im lặng bước theo Dabruce.
Lòng tôi rối bời.
Dù không có nước mắt, nhưng trong lòng đang khóc, đau đớn khóc, lặng lẽ khóc.
Dabruce vác thúng quả có vẻ hơi mệt, anh ta đặt xuống nghỉ một lát.
Hiện tại, anh ta là ân nhân của tôi. Tôi muốn tìm lời nào đó trong cõi lòng khô héo của mình nói với Dabruce. Nhưng tôi không thể tìm nổi, không thể nói nổi một lời. Tôi chỉ đành lặp đi lặp lại mấy câu rằng: “Cám ơn”, “Thật sự xin lỗi”.
Nghe vậy, Dabruce lại nói:
- Tôi cũng xin lỗi, trước đây tôi luôn không gọi đúng tên em, là “Thạch Ngư”(1), đúng không?
Tôi sửa lại thanh thứ tư cho anh ta, gật gật đầu, và cố gắng mỉm cười.
- Hình như em không khoẻ? Dabruce quan tâm hỏi.
- Không. Tôi ngẫm nghĩ rồi lại nói: - Em còn chút việc phải làm...
- Vậy em đi đi, mình tôi cũng có thể mang về được.
Anh ta nói, mỉm cười nhún vai, sau đó khom người nhặt mấy quả táo nhét vào túi của tôi. Tôi từ chối mãi không được, đành nhận hai quả.
- Nếu có chuyện gì cần giúp, hãy nói với tôi nhé, nhất định tôi sẽ cố gắng.
Anh ta lại nhấc thúng táo lên vai, nghẹo đầu nói với tôi.
- Cám ơn.
Tôi gật đầu, trong lòng không nén nổi chuỗi cười đau khổ –– “ngoài việc chẳng mong muốn hôm nay ra, còn việc gì phải cần sự giúp đỡ của người ngoại quốc như anh? Việc tôi đang cần giúp đỡ liệu anh có giúp được không?”
Dabruce dần dần mất hút.
Tôi rẽ sang một ngả khác.
Tôi không biết mình sẽ đi đâu, nhưng tạm thời tôi chưa muốn quay về trường.
Tôi đã thấm mệt, bỗng muốn tìm một nơi yên tĩnh để ngồi. Nhưng Thượng Hải rộng lớn thế này, có nơi nào yên tĩnh đây? Tôi đã đứng ở bến xe buýt, chỉ cần vài bến là có thể ra ngoài bãi. Nhưng ngẫm nghĩ kỹ tôi lại từ bỏ ý định đó.
Nhưng thực tại tôi chẳng thể nghĩ ra nơi cần phải đi. Hơn nữa, trong túi tôi có thứ cần phải xử lý. Cho nên, khi tôi thấy một chiếc xe khác dừng trước mặt, trên xe lại rất thưa người, tôi bèn bước lên.
Độ khoảng nửa giờ sau, tôi đã thả bộ trên bờ đê chắn sóng ngoài bãi.
Trời đã nhá nhem, nhưng trên đê người vẫn đông như mắc cửi. May chẳng ai biết ai, họ đều là khách vãng lai.
Tôi ngồi trên chiếc ghế đá nơi khá vắng vẻ, muốn chôn vùi tâm sự của mình bên dòng sông, dưới ánh sáng đèn đường và bên cạnh những con người lạ lẫm này, nhưng tôi không sao có thể tập trung nổi ý nghĩ của mình. Đó chẳng phải vì tôi đố kỵ với những đôi tình nhân khoác vai nhau, cũng chẳng phải vì xe cộ tấp nập trên đường Trung Sơn, giờ đây, trong lòng tôi đang rối bời.
Tôi đặt túi lên trước đùi, lục tìm quả táo ra định gọt vỏ bỗng chạm phải cái thứ đó đặt ở ngăn khác. Tôi lại cất quả táo vào và lôi cái vật đó ra. Vật đã chứng kiến sự khuất nhục cuộc đời tôi giờ vẫn nằm trong miếng lụa trắng, mặc dù nó đã từng mang lại cho tôi những khoái cảm tạm thời, nhưng hiện giờ nhìn thấy nó càng khiến tôi cảm thấy thất vọng nặng nề. Tôi cầm lên, đi về phía hàng rào phòng hộ ven sông.
Gió sông thốc lên, tóc tôi loà xoà, vết thương của cuộc đời tôi như càng rách hoác ra...
Tôi vung tay, ném vật kia đi. Lúc đầu, nó còn có một đốm trắng, sau đó dường như ngần ngừ ở lưng chừng, bỗng dòng nước cuồn cuộn cuốn trôi... Tôi chăm chú nhìn dòng nước, mặt sông lấp loáng bỗng trở thành thứ ma lực quyến rũ, không ngừng hướng về tôi vẫy gọi, nháy mắt khiến tôi không thể nào kháng cự...
Một ý nghĩ của trăm ngàn ?ý định, một mệnh lệnh buộc tôi phải lao theo vật kia, tiếng huyên náo như ve hè trong đầu...
Nhưng tôi bỗng nhìn thấy bóng đèn đường chập chờn nơi đầu ngõ nhà tôi... đó chẳng phải là ánh mắt của cô mong mỏi tôi sao?
Tôi lập tức tỉnh lại. Chút nữa tôi đã làm việc ngu xuẩn. Nếu như... cô...
Tôi giật lùi.
Tôi cũng không đừng được ngửa mặt nhìn trời.
Nhưng xác thực tôi lại nhìn thấy tấm lụa trắng đó cùng tám chữ quen thuộc:
Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá.
“Nhưng cha ơi, rốt cục đó là gì? Thật sự cha muốn dặn dò con chăng? Nhưng vì sao cha không nói rõ ra với con, đừng để con phải mò đoán? Nói với con đi, thật sự có chiếc chìa khoá ư? Bây giờ nó đang ở đâu?”