Chiếc Boeing 747 lại một lần nữa ném tôi lên độ cao mười nghìn mét.
Tôi dán khuôn mặt của mình lên ô cửa sổ máy bay.
Biển xanh đã không còn nhìn thấy, đất liền lốm đốm rồi mất hút. Cuối tận tầm mắt vẫn chỉ là mây trắng như bông nối liền vô tận. Thế giới trở thành một ruộng bông mênh mông, tôi là người trông ruộng bông tạm thời đó.
Tôi chợt có một nguyện vọng, một nguyện vọng như mộng du –– muốn bước ra khỏi khoang máy bay, ở ruộng bông này, lang thang trong biển mây này...
Cuộc sống không quá rõ ràng.
Đó hoặc là mộng cảnh, mộng cảnh của con người trên cõi trời. Nhưng đầu kia của mộng cảnh là một con người cưỡi trên chiếc môtô cũ rách đến sân bay tiễn tôi. Đôi mắt của anh, ánh mắt của anh dường như ẩn náu trong “ruộng bông” bát ngát này và luôn luôn theo sát tôi.
Đó là Thường Đạo.
Bây giờ tôi nghi ngờ mình có phải cần thiết cho anh số điện thoại không.
Tóm lại, ngay hôm sau, anh đã mất hơn nửa tiếng đồng hồ lái xe đến thăm tôi, đợi tôi trước bãi đỗ xe của khách sạn. Tôi cũng không muốn nói gì, cũng không muốn làm anh mất hứng, làm anh phật ý nên đành cùng anh lặng lẽ ngồi trong một quán cà phê đêm một lát.
Dường như Thường Đạo có chút gì căng thẳng và bất an, vừa ngồi xuống anh đã nói:
- Anh đến để xin em lượng thứ. Đêm qua anh đã không ngủ, anh sợ những lời trên bãi biển tối qua gây phản cảm và khiến em không vui. Đó chẳng phải là ý của anh. Lúc ấy có thể anh có chút mạo muội, có chút xốc nổi, chỉ muốn thổ lộ cho thanh thản...
- Không phải nói thế. Tôi xua tay: - Quý nhân hữu tự trí minh.
Anh nói những chuyện cười cười cợt cợt, nịnh nọt tâng bốc tôi còn có thể, chứ cứ như thế, tôi thật không chịu nổi.
Anh ta lại có chút hốt hoảng, nói chẳng lựa lời:
- Em vẫn còn hiểu sai anh. Thật sự anh chẳng biết phải nói thế nào để em tin anh. Anh luôn nghĩ, em đã trải qua những ác mộng, trong lòng nhất định rất tuyệt vọng, rất cô độc, rất cần một người bạn, một người bạn trên ý nghĩa thật sự, một người có thể tán gẫu, có thể đùa vui, có thể dốc lòng thổ lộ, một người bạn vượt qua ý thức giới tính...
Lúc nói những lời này, thái độ Thường Đạo rất chân thành, giọng nói rất thành khẩn, ánh mắt thành thật.
Tôi chợt rung động trong lòng.
Thực ra, tôi nào không muốn có một người bạn có thể dốc lòng cởi dạ, nói những chuyện vui chuyện buồn? Trong lòng tôi luôn bị dồn nén, bực tức trong cảnh khốn quẫn và cô độc đã quá lâu rồi, có lúc thực sự muốn có một lồng ngực rộng để có thể dựa vào đó mà khóc u u... nhưng, tôi chỉ có Dabruce là bạn, tuy anh đáng tin tưởng, nhưng sự khác biệt về văn hoá, cách trở về ngôn ngữ, khác nhau về bối cảnh sinh tồn khiến cho giữa chúng tôi mãi mãi hình thành một vách chắn vô hình.
Còn mấy chị em cùng làm thuê với nhau, cùng lắm cũng chỉ có thể chọc cười ha hả. Một đối tượng mà tôi có thể thực sự dốc lòng cởi dạ là cô tôi. Nhưng cách xa đại dương, chỉ có thể liên hệ hữu hạn bằng điện thoại, cho dù thương yêu nhưng giữa chúng tôi yêu thương cũng không thể giúp đỡ... Câu sau cùng anh vẫn khiến tôi còn đầy nghi ngờ: “Thật sự sẽ có “tình bạn vượt qua giới tính” giữa nam và nữ sao?”
Trong lòng tôi nghĩ như vậy, không kiềm chế nổi lắc đầu:
- Cám ơn, tấm lòng của anh em đã hiểu. Nhưng em muốn cuộc sống một mình yên tĩnh.
Thường Đạo không lên tiếng, lặng lẽ nhấp một ngụm cà phê.
- Anh có tin gì về Ngô Nguyên không?
Lát sau, tôi hỏi. Thường Đạo có chút ngạc nhiên, hỏi lại:
- Sao, bọn em không liên lạc với nhau à?
Tôi thành thực nói:
- Sau khi em đi chỉ viết cho anh ấy một bức thư.
- ừ. Thường Đạo thở dài, lại nói: - Bọn anh cũng không liên lạc với nhau. Nhưng nghe nói tốt nghiệp xong là anh ấy cưới vợ ngay.
- Lấy ai? Tôi vội hỏi.
- Một cô rất xấu. Nghe nói bố vợ là cán bộ quân đội cao cấp.
Tôi lập tức hiểu ra, không ghìm được buột miệng nói:
- Đó là “Quả quýt”.
Tôi bỗng rã rời. Tôi biết rõ sẽ có một ngày như thế, thậm chí trong mơ, tôi đã nhiều lần chúc phúc cho anh, nhưng không thể ngờ lại nhanh thế, vừa tốt nghiệp đã... tim tôi như bỗng chịu một bất ngờ, bờ môi giật giật. Tôi vội cúi thấp đầu, cầm chiếc thìa sắt khuấy khuấy loạn trong ly cà phê.
.........
Chúng tôi lại nói đến những người bạn và chuyện cũ trước đây, cũng tâm sự tình hình gần đây của chính bản thân mình, nhưng trong đầu tôi luôn chỉ xoay quanh hình bóng Ngô Nguyên. Tôi cũng luôn nhắc nhở mình – Ngô Nguyên, một con người đã từng nói với tôi biết bao lời tình yêu chân thành vậy, con người tôi đã từng hy vọng gửi gắm cuộc đời, con người mà tôi chưa bao giờ quên trong những lúc tư tưởng hỗn loạn, cuối cùng đã là chồng người khác...
Thực ra ngẫm cho kỹ, đấy chính bởi tôi đã “làm vợ” Dabruce trước.
Cuộc sống thật như giấc mộng, cõi đời luôn vô thường.
Nhưng số mệnh vì sao lại đưa Thường Đạo đến trước mặt tôi? Nếu thật như lời anh nói, tôi và anh đã có mối liên hệ nào đó ư? Nhưng đó là mối liên hệ như thế nào? Lẽ nào chỉ bởi vì anh đã từng là “bạn đồng hương đồng khói” với Ngô Nguyên.
A, Ngô Nguyên, Ngô Nguyên, Ngô Nguyên của tôi, Ngô Nguyên đã chung chăn chung gối với người khác...
Tôi bỗng nhớ nhà, rất nhớ, rất nhớ, dường như tôi nghe tiếng gọi của cô tôi...
Tôi nói với Thường Đạo:
- Cô em không khoẻ, em sẽ về nước một chuyến, mấy ngày nữa sẽ bay.
- Chẳng phải em nói mình đầu tư bị thua lỗ, lấy đâu ra tiền. Anh quan tâm hỏi tôi, rồi lại nói: - Anh tiết kiệm được hai ngàn rưỡi, nếu em cần, mai anh sẽ rút đưa cho.
- Cảm ơn, không cần. Buổi trưa nay em đã gọi điện cho Dabruce rồi, anh ấy đã đồng ý cho em vay, bảo em chiều mai qua phòng mạch lấy.
Thường Đạo đi rồi.
Nhưng Dabruce lại từ mảng thảm bông trước mặt lao tới, anh mặc chiếc áo trắng, tay cầm tờ ngân phiếu một vạn tám ngàn đô la.
– Tôi chẳng thể ngờ nổi Dabruce đã bán chiếc xe Ford mà tôi mua cho anh và đem số tiền đó gửi vào ngân hàng, dành dụm cho tôi đi học hoặc dành để chi tiêu cho việc phẫu thuật sau này của tôi. Bây giờ nghe nói tôi cần tiền, anh rút hết ra, ép tôi phải nhận...
Trong lòng tôi lúc đó thấy nao nao, một niềm cảm khái dâng tràn...
Máy bay bay vào vùng không khí loãng, lắc la lắc lư rất mạnh, cô tiếp viên hàng không vội vã nhắc mọi người thắt dây an toàn. Lúc ấy tôi mới chịu thu tầm mắt.
Mắt hơi mỏi, tôi ấn tay vào nút dưới tay vịn, kéo ghế ngả thấp ra, định nhắm mắt một lát.
Nhưng chưa nằm được vài phút, tôi bỗng nhớ đến Thường Đạo lúc giúp tôi đẩy hành lý, đến cửa kiểm tra an toàn, anh đã dúi vào chiếc bóp da đeo trên người tôi một phong bì màu trắng và dặn khi nào lên máy bay hãy mở ra. Sau khi lên máy bay, trong lúc vội vã tôi đã cho vào chiếc bóp trên gác hành lí phía trên đầu mà quên không lấy phong thư đó ra. Tôi lại phải đứng lên, nhẫn nại đợi máy bay không còn lắc lư, tìm cách moi phong thư ra.
Sau khi mở phong thư tôi mới biết trong mấy tờ giấy viết thư màu xanh lam kia còn kẹp một tập đô la, đếm cả thảy được hai mươi tờ. Sau khi cất số tiền đó vào túi quần, tôi lặng lẽ đọc những dòng chữ viết trên trang giấy. Đó là một lá thư Thường Đạo đã viết cho tôi.
Thạch Ngọc:
Em yêu. Anh vẫn muốn gọi em bằng cái tên Trung Quốc đó, bởi vì những chữ này khiến anh liên tưởng tới từ “băng thanh ngọc khiết”. Khi lần đầu tiên nhìn thấy em ở sân trường, hình ảnh em đã để lại cho anh chính là như vậy.
Anh phải nói với em rằng, sau đó một khoảng thời gian rất dài, ánh mắt anh luôn luôn dõi tìm em trong trường. Bởi vì em rất giống một người, người đó chính là em gái Hải Lam của anh. Nét mặt hình trái xoan, đôi mắt đen sâu, nụ cười, cử chỉ, thậm chí là giọng nói của em đều mang bóng dáng của Hải Lam. Hơn nữa, anh còn chú ý, giữa mày của các em cùng có nốt ruồi nho nhỏ...
Em gái anh từ nhỏ đã rất thông minh nhanh nhẹn, xinh xắn hoạt bát, ai thấy cũng yêu, người trong thôn đều thích gọi nó là “Tiểu tiên cô”, hoặc là “Tiểu tiên nữ”. Nó nhỏ hơn anh hai tuổi, nhưng đi học sớm, rồi sau lại học vượt cấp, nên bắt đầu từ năm lớp sáu, nó đã trở thành bạn cùng lớp anh.
Trong tất cả các màu sắc, Hải Lam đặc biệt yêu màu xanh. Bởi nguyên nhân này, ngay từ năm lớp sáu, nó đã chính thức đổi tên của mình thành Hải Lam. Nó rất thích biển, bất kể là biển gầm gào tung bọt, hay biển yên lặng hiền hoà, Hải Lam luôn xem mình là đứa con của biển, màu xanh của biển cũng đã tạo cho nó cái đẹp của mộng ảnh, là màu bảo vệ cuộc sống của nó. Có một chiều hè, khi bọn anh cùng đi dạo bên bờ biển, Hải Lam đã nói:
- Anh, em muốn mình có đôi mắt màu xanh biếc như người nước ngoài ấy. Như vậy em mới xứng đáng với cái tên Hải Lam của mình.
Hải Lam rất yêu biển, nhưng cũng đặc biệt sợ biển. Nhà anh ở giữa hòn đảo nhỏ trên biển, mở cửa ra là nhìn thấy biển, trong đêm nghe tiếng ầm ào và gầm thét của biển. Có lúc, nửa đêm Hải Lam choàng tỉnh lo lắng không đầu không đũa phải chăng biển đang gầm gào... khi vào cấp hai, bọn anh thường phải chèo thuyền mất khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng để sang một hòn đảo lớn hơn theo học, chỉ khi được nghỉ học mới trở về nhà, đây là quãng đường mà Hải Lam rất sợ hãi. Vì say sóng, mỗi lần như vậy Hải Lam nôn mật xanh mật vàng, khi xuống thuyền đi còn chẳng vững, đồ đạc đều do anh xách hộ. Tuy mới học lớp sáu nhưng anh đã cao một mét bảy, lại ưa thích thể thao, lúc rỗi rãi thường xuyên chơi bóng rổ, bơi lội, chạy rồi nhảy cao, nên người rất rắn chắc, hai túi đồ có đáng kể gì.
Vào năm lớp bảy, thuyền đánh cá của cha anh gặp bão biển, từ đó chẳng thấy ông trở về. Hàng ngày mẹ anh ra bờ biển thắp hương, khóc, cầu xin Bồ tát phù hộ, khóc mãi đến mù cả hai mắt. Cho nên, tất cả mọi việc trong nhà lại dồn lên đôi vai của người anh cả đã bỏ phải bỏ học từ rất sớm. Bọn anh cũng đã dự định nghỉ học, nhưng trong xóm, trong trường đều biết thành tích học tập của hai anh em đặc biệt xuất sắc nên bàn bạc tìm cách giúp đỡ gia đình và anh em bọn anh các khoản viện trợ kinh tế, anh và nó mới có thể tiếp tục được đi học.
Quan hệ giữa anh em anh cũng rất tốt, khi còn rất nhỏ, anh đã thường xuyên dẫn Hải Lam chạy trên bờ biển, bắt còng hoặc câu cá, thường xuyên cùng nhau lên núi kiếm củi, bắn chim. Ở trường, quần áo anh rách đều do Hải Lam vá; nhiệm vụ giặt giũ về cơ bản trút cho Hải Lam, anh phụ trách việc kín những gầu nước lớn từ dưới giếng sâu lên, giúp Hải Lam giũ sạch quần áo...
Tuy Hải Lam rất yêu biển, nhưng thiên tính lại rất sợ nước, mãi đến khi vào năm lớp tám mà nó vẫn chưa biết bơi. Sau đó, nhà trường tổ chức tập quân sự, yêu cầu các học sinh không phân biệt nam nữ đều phải học bơi, Hải Lam rất lo lắng, tìm anh nói:
- Anh, em phải làm thế nào bây giờ, sợ chết đi được.
Anh an ủi nó:
- Đừng lo lắng thế, anh sẽ dạy em, sẽ lo cho em biết bơi thì thôi.
Nhưng, cho dù là ở bãi nông, Hải Lam cũng chỉ cần nhìn thấy lớp sóng biển ngợp đầu người cứ dềnh lên dập xuống cũng đã hoa cả mắt mày. Anh phải mất mấy ngày mới làm cho Hải Lam đủ can đảm đi vào vùng nước ngập tới ngực. Tiếp đó, Hải Lam dần dần có được dũng khí, nhắm tịt mắt mà đập chân đập tay loạn xạ ngụp lên lặn xuống trong nước.
Anh rất vui mừng, Hải Lam cũng rất phấn khởi, cho rằng việc biết bơi chỉ là ngày một ngày hai. Có hôm, sau khi trời nổi mưa to gió lớn mấy ngày liền, cuối cùng bọn anh lại có thể xuống nước. Anh vừa thấy biển thì quá đỗi vui mừng, chạy ào xuống nước, đầu tiên là bơi tự do, tiếp đó là bơi ếch, rồi bơi ngửa, ngâm mình khoan khoái trong các đợt sóng. Bỗng anh nghe thấy tiếng loa the thé từ bờ vọng tới, rồi nhìn thấy toán người mang phao cứu sinh lao xuống biển. Anh dự cảm một điều không may đã có thể đã xảy, bèn vội vã bơi trở lại bờ. Đợi khi anh bơi đến chỗ nước nông, mới biết được vừa rồi có một nữ sinh mới học bơi đã không cẩn thận rơi vào vùng nước sâu, nhưng cô ấy vẫn cho là chỗ nước nông, muốn đứng lên nghỉ, kết quả là bị uống nước, rồi chìm xuống, bây giờ vẫn chưa tìm thấy xác đâu.
Trong lòng anh bỗng hốt hoảng, nhìn quanh quẩn tìm bóng dáng Hải Lam nhưng chẳng thấy đâu.
Đến khi anh nhìn thấy Hải Lam, nó đã bị một đám đông người vây quanh, sắc mặt Hải Lam không còn một giọt máu, nó nằm ngửa trên bãi cát bên bờ biển...
Hải Lam không còn tỉnh lại nữa.
Đấy quả tin sét đánh ngang tai, cũng là một cơn ác mộng. Cho mãi đến hôm nay, anh vẫn chưa tin rằng đấy là sự thật. Anh ân hận cực điểm, bình thường anh luôn ở bên Hải Lam, bảo vệ cho nó, thế mà hôm đó ma xui quỷ khiến thế nào lại bơi quá xa như thế. Nếu như anh luôn ở bên để che chở cho Hải Lam thì sẽ không bao giờ xảy ra...
Cho nên, rất nhiều năm nay, anh luôn sống trong sự dằn vặt đau khổ. Hải Lam luôn xuất hiện trong những giấc mộng của anh, bóng dáng thấp thoáng, bờ môi mấp máy, ánh mắt oan khuất nhìn anh, dường như trách cứ anh đã không làm hết trách nhiệm chở che cho nó. Tấm ảnh chụp Hải Lam ngồi trầm tư trên tảng đá xám xoay lưng ra bờ biển, thần thái điềm nhiên mà tĩnh lặng, phía sau là biển cả xanh ngắt và êm đềm. Anh đã luôn giữ tấm ảnh đã ố vàng này. Mỗi lần trở về nhà, anh đều ra bãi biển sau trường học của mình ngồi thật lâu. Ở nơi đó, dù nắng hay mưa, dù đêm hay ngày, dù gió thổi mưa bay anh đều nhìn thấy bóng dáng của Hải Lam ẩn hiện trên không trung đang nhìn anh, cũng dường như nghe được cả tiếng Hải Lam đang chấp chới gào khóc gọi anh:
- Anh, anh...
Vậy là anh lại nghĩ, Hải Lam vẫn chưa chết, nó chỉ mới trở về nhà thôi, Hải Lam mặc chiếc áo khoác màu xanh lam mà nó rất thích, quay trở về chốn màu xanh lam mà lòng nó luôn hướng tới.
Biển nơi anh đã từng để lại rất nhiều truyền thuyết đẹp. Nghe nói “Bát tiên” năm xưa khi vượt biển cũng bắt đầu từ nơi này, trên biển thường thường xuất hiện ảo ảnh, cho nên văn nhân từ xưa đến nay đều gọi là “Tiên sơn quỳnh các”.
Vì vậy, có lúc anh muốn tin rằng, Hải Lam vẫn chưa hề chết. Thông minh xinh đẹp như Hải Lam nhất định sẽ không thể chết. Hoặc giả thật sự Hải Lam đã thành tiên, trở thành “Tiểu tiên cô” trong truyền thuyết, sống trong hải thị thần lâu mà thỉnh thoảng anh vẫn nhìn thấy đó...
Bởi vậy, Thạch Ngọc, em cần hiểu rõ, ngay từ hôm anh mới nhìn thấy em, là anh đã ngầm cảm thấy anh và em có mối liên hệ nào đó. Anh cũng từng nghĩ, nếu như có thể, anh nhất định sẽ che chở cho em như đã từng che chở cho em gái anh, để bù đắp những thiếu sót của mình trước đây. Chính bởi nguyên nhân này, anh mới có hứng thú để phỏng vấn Ngô Nguyên, bởi vì có thể rút ngắn được khoảng cách, để thoải mái hiểu anh ta rốt cục là con người thế nào. Nói thực, anh ấy để lại cho anh ấn tượng rất tốt. Chỉ có điều anh không cho rằng tấm lòng nhiệt tình công danh của anh ấy là đúng. Có lẽ tự anh quá thanh cao, xem mặt trái của nhân gian cũng có nhiều... nhưng, nghe nói sau khi vượt qua biển cả mênh mông, anh bỗng nhiên nghĩ đến, mình thực sự có thể làm một việc tích cực và có ý nghĩa. – Đó chính là làm một người bạn vô tư trung thực trong chặng đường đời của em, một người che chở cần cù tận tuỵ, cẩn thận kỹ càng. Hải Lam đã chết trong nước biển xanh ngắt, nhưng anh quyết tâm kéo em lên từ trong cơn sóng kinh hãi của nhân thế... cho nên, những năm qua, anh mới khổ sở tìm kiếm em trong biển người mênh mông... xin em lượng thứ.
Tái bút: Hai ngàn đô la này xin chuyển đến cô em, và chúc cô tuổi già an khang, hạnh phúc, trường thọ.
Tôi đã đọc đi đọc lại lá thư này mấy lượt trên chặng đường dài mười bốn tiếng đồng hồ.
Tôi không thể không thừa nhận, đáy lòng tôi đã xúc động sâu sắc.
- Cám ơn anh, Thường Đạo. Khó có được tấm chân tình hiếm thấy trên thế gian này của anh.
Ruộng bông bên ngoài cửa sổ máy bay đã biến mất, biển cả trải ngút tầm mắt. Tôi cảm giác nơi đó chính là biển ở quê của Thường Đạo – ít nhất nước biển này cũng tương thông với biển ở quê anh.