Sau gần bốn năm ly biệt, tôi lại quay trở về mảnh đất quê hương, lại đặt chân lên mảnh vườn xưa.
Khi chiếc xe ba bánh chở tôi và hai chiếc va ly lăn tới đầu ngõ nhà mình, tôi đã cảm thấy tim mình đập rung lên “thình thịch thình thịch”. Cô như cũng đã linh cảm được, đứng ôm con mèo chờ ngay cổng nhà, thấy tôi cô lật đật chạy tới đón.
- Cô - Tôi hét lên, dòng nước mắt nóng hổi ứa tràn, không đợi chiếc xe dừng hẳn tôi đã nhảy xuống, chạy tới ôm choàng lấy cô.
Cô cũng khóc, nước mắt nhạt nhoà khuôn mặt, nhỏ ướt đầm vai tôi. Tôi biết, đây là những giọt nước mặt hạnh phúc và vui sướng. Bởi vì đứa con khổ đau cùng nương dựa, bầu bạn sớm chiều với cô từ chân trời góc bể, từ nửa bên kia địa cầu đã trở về trong vòng tay cô.
Cô phấn khởi và xúc động khó tả bằng lời. Ngay từ hôm đầu tiên tôi trở về nhà, cô đã moi rỗng tâm tư, rồi làm các món đặc sản quê hương cho tôi ăn. Tuy cô chủ yếu ăn chay nhưng vẫn làm thêm nhiều món mặn, như nấm chân kim xào thịt, đầu sư tử sốt, cá chép chua ngọt dành riêng cho tôi. Sau đó cô lại bận rộn gói bánh chưng, làm bánh ngọt tết, nặn bánh trôi... khi ngồi nhìn tôi nhóp nhép thưởng thức, cô tươi cười, sốt sắng hỏi:
- Ngon không? Thấy tôi gật đầu lia lịa, cô giục: - Ăn nữa đi. Muốn ăn gì thì bảo để cô mua cho, cô làm cho.
Tôi nói:
- Ở Los Angeles nhiều nhà hàng Trung Quốc lắm, cái gì cũng có.
Cô vội vã chặn lời tôi:
- Nó chẳng được như thế này, phong vị quê hương mới đậm đà...
- Nhưng cứ ăn thế này, chẳng đầy một tuần con sẽ béo tròn ra mà xem. Bây giờ người ta cho là gầy mới đẹp, đặc biệt là con gái, càng phải mảnh khảnh.
Cô phẩy tay nói:
- Mặc kệ họ. Người Trung Quốc mình chẳng béo đâu. Hơn nữa, theo cô, con gái phải béo một chút mới đẹp, đẫy đà...
- Nhưng cô cứ bận túi bụi, quá vất vả. Hơn nữa sức khoẻ cô cũng không được tốt.
- Không sao. Cô chẳng đã nói với con rồi à, con về lần này bệnh của cô đã bớt nếu không nói mười thì cũng tới chín phần. Thật đấy, bây giờ đầu cũng không đau nữa, tinh thần cũng tốt hơn nhiều. Xem ra, người già cứ phải động chân động tay mới được.
Tôi cũng chẳng tranh cãi nữa. Đặc biệt là thấy tinh thần của cô, sắc mặt của cô rất tốt, có thể nói đã có sắc hồng tôi cũng yên tâm phần nào. Tôi nghĩ, tật đau đầu có lẽ bởi vì suy nghĩ nhiều về tôi mà ra. Nhưng để cẩn thận, tôi vẫn không quên nói:
- Dù thế nào, mấy ngày nữa con sẽ đưa cô đi Thượng Hải để kiểm tra một lượt.
Tôi cứ đóng cửa ở nhà tận tình ăn uống như vậy, thỏa sức tận hưởng sự chăm bẵm và tình yêu của người mẹ ở cô. Tôi rất ít ra cửa để cố gắng tránh gặp người quen, uổng phí lời giải thích thuyết minh về hành tung và bước đi của mình. Nhưng, cái quan trọng hơn là từ cô tôi đã hiểu tất cả, rất nhiều người trong thành phố nhỏ của chúng tôi đã bằng con đường nào đó biết được tôi là một người con gái mang tính chất khác biệt gì đó. Cho nên, tôi càng không muốn gặp gỡ bất cứ người quen hoặc bạn học nào, kiêng kỵ những ánh mắt họ nhìn vào tôi dẫu đó là thiện ý.
Nhưng có một nơi tôi thực sự muốn đến, đó chính là “Thuỷ phảng viên”. Nó dường như đã trở thành một nơi ngọt ngào duy nhất trong ký ức tôi. Nhưng sau đó tôi lại từ bỏ, sợ trong khoảnh khắc bước vào cổng vườn chạm trổ đó, tôi sẽ mất hết dũng khí. Nhìn vật nhớ người, cảnh sắc trong công viên vẫn như xưa, mà người thưởng hoa ngoạn cảnh giờ đã khác, chỉ uổng mang thêm một niềm thương cảm và thê lương mà thôi.
Từ cô, tôi cũng đã chứng thực được việc Ngô Nguyên đã kết hôn, hiện đang công tác ở Trung ương đoàn tại Bắc Kinh, có thể nói là xuân phong đắc ý, tiền đồ như gấm. Trước khi cưới cũng như sau khi cưới anh đều bảo em gái đến gặp cô để thăm hỏi tình hình của tôi. Nhưng cô sợ ảnh hưởng đến tâm tình của tôi, trong thư cô không hề nhắc đến nửa chữ về Ngô Nguyên, và cũng chẳng để lại địa chỉ của anh cho tôi.
Tôi bỗng rất nhớ anh. Ý nghĩ này vừa chợt loé lên tôi liền quyết định đi Bắc Kinh một chuyến.
Tôi đã lớn thế này, ở trong nước, ngoài chuyến đi Quảng Châu làm visa ra thì cơ bản chưa hề bước ra khỏi ngõ. Còn về Bắc Kinh, đó là nơi từ nhỏ tôi đã luôn mong ngóng. Hơn nữa, nơi đó còn có một người thân nhất của tôi.
Cho nên, một buổi tối sau khi trở về nhà được bốn năm hôm, khi cô cháu tôi ngồi tựa trước cổng chuyện vãn, tôi trịnh trọng đề xuất:
- Cô, tiết trời cũng đã ấm lên rồi, đúng mùa du lịch. Con thấy cô gần đây cũng khoẻ ra, con định đưa cô đi chơi một chuyến, cô thấy thế nào?
Cô nghe tôi nói hơi sững người, hỏi lại:
- Chơi? Đi đâu?
Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời:
- Đi Bắc Kinh, đấy là thủ đô, lại rất nhiều di tích. Trường Thành này, Cố Cung này, lại còn cả Thiên An Môn nữa, từ nhỏ con đã luôn nằm mơ được đến đó.
- Con đã muốn đi thì cứ đi đi. Nhưng đừng có lôi kéo cô, con còn trẻ chạy nhảy không biết mệt, cô thì gân cốt già rồi, chẳng còn hơi sức đâu. Hơn nữa còn phải tiêu rất nhiều tiền, cô không muốn mất tiền vô ích...
- Sao lại vô ích chứ? Tôi vội cắt lời cô: - Cô yên tâm, nhất định con không để cô phải chen chúc xe buýt. Chúng ta phải ở khách sạn tốt, thậm chí có thể thuê cả chiếc xe hơi để đưa đón cô con mình... Tóm lại, con để cô thảnh thơi ngắm cảnh, hưởng phúc đời mình.
- Nhưng phải tiêu nhiều tiền lắm!
Cô không nén được ngáp một cái.
- Xem kìa, cô lại bận tâm ba cái vặt vãnh! Tôi ngáp theo rồi nói tiếp: - Con đã nói với cô bao lượt rồi, con mang ngân phiếu về, gửi cả ở ngân hàng, con bảo đảm cô cả đời này kiếp này ăn tiêu không hết. Hơn nữa, con cũng đã muốn đưa cô đi Thượng Hải để kiểm tra sức khoẻ. Nay đổi đi Bắc Kinh, bệnh viện nơi đó tốt hơn...
Cô nghe tôi nói vậy, dường như nhớ đến lần này về nước tôi đã mang đến hai mươi nghìn đô la (ở thành phố nhỏ của chúng tôi, đây là con số trên trời), vậy là vui vẻ gật đầu:
- Được. Con cứ bố trí đi, ta cũng phải học bà Lưu vào Đại Quan viên, dạo khắp hoàng cung chứ.
Nói xong cô bỗng cảm thấy mệt mỏi, lại như muốn nôn oẹ. Tôi cho rằng ngồi trước cửa có gió lạnh, bèn khuyên cô về phòng nghỉ ngơi. Nhưng khi tay cô vịn vào thành ghế muốn đứng dậy thì đầu lại chúi xuống, người nhào về phía trước, tôi chưa kịp đỡ thì cô đã ngã lộn xuống đất.
Tôi hoảng hồn, hốt hoảng hét lên:
- Cô! Cô! Cô có sao không?
Nói rồi tôi vội vã cố vực cô dậy. Chẳng ngờ khi vừa chạm vào quần của cô thì phát hiện ra một mảng ướt dầm dề. Đến khi tôi đưa cô vào nằm trên chiếc giường trúc trong phòng, phát hiện ra ngay cả đại tiện của cô cũng không còn điều khiển được, đồng thời mồm miệng méo xệch, thần sắc xám ngoét. Tôi biết cô rất sạch sẽ, bèn hớt hải ra ngoài lấy chậu rửa, giúp cô gột sạch phần dưới, thay quần áo rồi mới chạy ra cổng nhờ hàng xóm gọi chiếc xe ba bánh có động cơ mau chóng đưa cô đến bệnh viện Nhân dân huyện.
Hoá ra cô bị tai biến mạch máu não.
Tôi được biết từ bác sĩ ở phòng cấp cứu: chứng đau đầu cũng như sắc mặt của cô chợt đỏ lên chính là triệu chứng của của bệnh tai biến mạch máu não.
- Bác sĩ, có chữa được không?
Tôi sốt sắng hỏi.
- Hy vọng không nhiều, nhưng chúng tôi sẽ cố hết sức mình. Vị bác sĩ nói.
- Bác sĩ, xin anh nhất định phải gắng sức cứu chữa. Sử dụng những thứ tốt nhất, hết bao nhiêu tiền tôi cũng không ngại, chúng tôi có thể trả được.
Tôi kéo tay vị bác sĩ nọ, hốt hoảng nói, trong lòng chỉ mong sao dữ hoá lành, cô lại có thể ngồi dậy được, đứng lên được. Cả đời cô đã chịu khổ, vừa mới có thể hưởng được chút phúc lộc, tôi không thể để cô vội vã rời bỏ tôi. Tôi còn phải đưa cô đi Bắc Kinh, đưa cô dạo quanh Cố Cung, dìu cô trèo lên Trường Thành... rất có thể, còn đón cô sang Mỹ... tôi phủ phục bên giường bệnh, nắm lấy cánh tay khẳng khiu của cô, trong lòng vang lên những lời thống thiết:
- Cô, cô, nhất định cô không thể đi, nhất định cô không thể để con lại một mình. Nếu cô bỏ đi, con thực sự cô độc đáng thương trên cõi đời này, chẳng còn lấy một người thân. Hơn nữa, ơn nuôi dạy của cô, con còn chưa kịp báo đáp, sao cô có thể rời bỏ con đi được?...
Dù cho tiếng gào gọi trầm trầm của tôi, nỗ lực không biết mệt mỏi của bác sĩ vẫn không thể níu kéo bước chân cô vội vã rời bỏ cõi đời khổ ải này.
Sau khi chuyển sang phòng hồi sức cấp cứu, cô vẫn liệt nửa người và cấm khẩu nặng hơn. Có lúc cô còn gắng gượng nhận ra tôi, nhưng không thể nói được thành lời. Cho dù có phát âm được, cũng chỉ là những lời ú a ú ớ như trẻ con học nói, vả lại là những từ đơn âm tiết, không ai có thể hiểu nổi.
Tôi ngày đêm chăm sóc cô trên giường bệnh. Đến buổi chiều ngày thứ ba, tôi chợt thấy cô một lần hé mở mắt trong cơn hôn mê. Con ngươi của cô vẫn ngầu đỏ, những biểu đạt đau khổ trên gương mặt cô đã vợi đi ít nhiều, thậm chí đã có vẻ bình thản. Sau đó môi cô mấp máy. Tôi đoán cô đã nhận ra tôi, có thể muốn nói với tôi điều gì đó, bèn cúi gập người xuống. Nhưng, cô chẳng nói một điều gì, chỉ ngây ngây nhìn tôi một lát rồi mệt mỏi nhắm mắt, sau đó đầu cô ngoẹo sang một bên, lặng lẽ ra đi.
- Cô...
Tôi gào lên và ngất đi ngay bên giường bệnh của cô.
Hậu sự chủ yếu nhờ vào cơ quan cũ của cô lo liệu. Họ hàng thân thích dưới quê cũng như bạn bè của cô đều được tôi thông báo đến dự lễ truy điệu.
Trong đêm trước ngày làm lễ truy điệu, cô thác mộng cho tôi. Cô nói, vì bị cấm khẩu nên khi nằm trên giường bệnh cô có một thiếu sót lớn là không thể niệm mấy câu “A di đà Phật” trước lúc lâm chung, hy vọng có thể bổ sung. Tôi nghĩ đi ngẫm lại, để bù đắp thiếu sót lớn này, sáng sớm hôm sau tôi đã lục tìm hai bộ kinh Phật mà cô yêu thích nhất –– bộ A di đà kinh và Phổ môn kinh, vội vã mang đến nhà tang lễ, đặt vào vòng tay cô...
Tôi cũng rất cám ơn em gái Ngô Nguyên, không biết nghe được tin cô tôi qua đời từ ai, đã xin nghỉ mấy ngày để giúp đỡ tôi...
Cuối cùng, tất cả mọi việc đã lo liệu xong xuôi.
Nhưng, người đi phòng trống, khi một mình tôi lặng lẽ đối mặt với lọ tro hài cốt màu đỏ sẫm của cô đặt trước khám thờ Phật, đối mặt với ba gian nhà vắng tanh, đối mặt với khoảnh sân và cổng vắng vẻ, ôm con mèo Ba Tư đơn độc như tôi trong lòng, tôi càng không chống chọi nổi sự hoang vắng hư không.
Trên đường đời của tôi, đây là lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được nỗi lo sợ và khó hiểu khôn lường.
Tôi cũng cảm thấy hoảng hốt, sau khi tôi đi một vòng quanh trái đất, bỗng lại trở về trong chiếc chậu gỗ lẻ loi, lại trôi dạt trong dòng nước đục mênh mông...
Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ dạt đến đâu?
Vì sao tôi lại đến? Vì sao tôi phải đi?
Vì sao hồng thuỷ không cuốn trôi tôi? Vì sao nanh vuốt của những hoạn nạn không chịu rời bỏ tôi?