Tôi hoàn toàn kiệt quệ sức lực và tinh thần, không còn dám nhìn thẳng vào những di vật của cô để lại.
Một số bộ quần áo cũ mà khi nhỏ tôi đã từng mặc đều được cô xếp gọn lại. Có mấy chiếc áo sơ mi hoa màu xanh và chiếc váy xoè do chính tay cô cắt khâu cho tôi... một góc ngăn tủ cất mấy đôi giầy vải cô may cho (cô luôn nói, đi giầy vải thoải mái, vừa nhẹ chân lại không bị lạnh)...
Thể xác cô đã lìa xa, nhưng hơi thở của cô vẫn còn ở trong căn phòng này, gương mặt nụ cười của cô vẫn ánh lên từng góc tường, từng đồ vật.
Khi tôi cố gắng xử lý một số đồ vật, mới phát hiện trong ngăn tủ nhỏ trước giường của cô có một chiếc tráp nhỏ, chiếc tráp đó được khoá bằng chiếc khoá đồng nho nhỏ. Tôi đã nhìn thấy trên đầu giường của cô một chùm chìa khoá, bèn lấy ra mở thử. Sau khi mở ra, tôi phát hiện ở trên cùng là mấy cuốn sổ tiết kiệm và tấm bìa hộ khẩu.
Tôi xem lướt qua, mới biết cô chẳng hề động vào một xu số tiền tôi đã gửi về biếu cô, tất cả đều dồn gửi tiết kiệm; ngoài ra còn mấy cuốn sổ tiết kiệm bằng đồng nhân dân tệ, cộng lại có đến tám chín nghìn. Tôi lại lật xuống phía dưới, đó là mấy tờ hoá đơn ố vàng, rồi lại là mấy tờ giấy viết thư đã được gập ngay ngắn. Tôi cho rằng đây chỉ là những vật phẩm đơn thuần hoặc là hoá đơn gì đó. Đến khi giở ra mới phát hiện đó là bức thư mà cô đã viết cho tôi cách đấy chưa lâu. Tôi tựa vào thành giường, lặng lẽ đọc thư:
Tiểu Ngọc:
Cô cũng chẳng biết bây giờ ở chỗ con đang là mấy giờ. Con đang ngủ hay đi làm thuê? Mấy ngày hôm nay cô thấy rất đau đầu, khi nằm trên giường cô bỗng lo sợ và thường thấy bố con đang vẫy gọi cô. Cô là một người tin theo Phật, cô không sợ chết. Cái chết nói thẳng ra, nó cũng chẳng khác người thay quần áo hay chuyển nhà là bao. Nhưng cô vẫn còn chút lo lắng, bởi cô đi rồi mà vẫn còn một số việc chưa kịp nói lại cho con biết. Cho nên, cô nghĩ cần phải viết lại cho con bức thư này.
Mùa xuân năm ngoái cô về quê, có gặp lại bà Tư. Bà ấy nói với cô, con đã từng tìm đến để thăm dò thân phận của mình. Bà Tư nói bà đã không dám nói điều gì với con và càng cảm thấy không còn mặt mũi nào để gặp lại con. Nhưng, cô biết, con thông minh như vậy, ắt hẳn con đã hiểu, cô Mỹ Hoa con gái bà Tư đó chính là mẹ đẻ của con. Không sai, cô ấy đích xác là mẹ đẻ của con. Trước đây cô không chịu nói cho con biết, vì cha con đã căn dặn cô phải làm như vậy, cần phải giữ bí mật về thân phận của con. Cha con gửi cô chăm nuôi con cũng là hy vọng con rời xa mảnh đất đầy đau thương nơi con đã sinh ra, không để cho xuất thân đó ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh về tinh thần và tiền đồ sau này của con. Bấy giờ cô đồng ý yêu cầu của cha con, nhưng cô không hề biết lúc đó cha con đã nói lời vĩnh biệt.
Thực ra trong lòng cô luôn thấp thỏm, đặc biệt là khi mỗi ngày con lại lớn khôn, khi con ngày càng mẫn cảm về thân thế của mình. Mặc dù cô không muốn để con nghe được từ miệng cô rằng mẹ đẻ của con là ai, nhưng cô lại càng không muốn sau này khi con nghe những bịa đặt tổn hại đến cha và mẹ con từ miệng của người đời mà không thể phân biệt trái sai. Cho nên, cô quyết định phải nói sự thật về thân thế của con. Con đã được sinh ra trên cõi đời này thì con phải có quyền biết về thân thế của mình. Đặc biệt từ sau khi cô biết bà Tư đã qua đời vào tháng Chạp vừa rồi, cô càng cảm thấy mình cần phải nói lại cho con biết mọi chuyện.
Tiểu Ngọc, con yêu của cô, con hãy nghe đây, dòng nước đục đã mang con đến cõi đời này vào một ngày đông năm đầu tiên của cuộc Đại cách mạng văn hoá, nơi nơi chẳng chút yên ổn, làng trên xóm dưới đấu đá loạn xạ, chia bè kéo cánh. Người họ Triệu ở Tây Trang vốn có oán thù với nhà họ Thạch ta, lúc này lại bởi bất đồng quan điểm, bè cánh tranh cãi nhau, hai bên lần lượt ra tay. Mới đầu, họ Triệu bị thua đau. Điều đó càng khiến họ càng tức tối, một đêm chúng tập trung mấy đứa côn đồ thừa đêm lén đến tập kích thôn ta. Chẳng may, đêm đó người mẹ mất trí của con bị mộng du lang thang gần sân đập lúa, lũ người táng tận lương tâm này túm lấy mẹ con thay nhau hãm hiếp... sau bữa đó, con đã ra đời...
Khi ông bà ngoại con phát hiện mẹ con có thai thì cái thai đã được hơn sáu tháng. Họ mời cha con đến bắt mạch, đồng thời cũng muốn nhờ cha con tống khứ cái thai ra ngoài. Căn bệnh của mẹ con từ nhỏ đã luôn phải mời cha con chữa trị, bởi vậy họ rất tin tưởng vào y đức và y thuật của cha con. Cha con nói với họ, hiện nay đã quá muộn để đẩy cái thai ra ngoài và còn rất nguy hiểm cả cho người mẹ... Như vậy, ông ngoại con đã làm bà đỡ đón con chào đời. Nhưng khi con vừa lọt lòng, ông ngoại con tàn nhẫn muốn dìm chết con trong chậu nước tiểu, nói con là nghiệt chủng. Nhưng bà ngoại con không chịu, cố sống cố chết giữ con lại, nhưng bà không cưỡng lại nổi ông, cuối cùng, hai người thoả hiệp, bà ngoại con quấn tã rồi đặt con vào chiếc chậu gỗ thả trôi sông. Theo cách nghĩ của bà ngoại con, nếu như ông trời còn thương xót đến con, ắt sẽ có người nhặt con lên, giữ lại mạng sống cho con. Khi ấy, trời đã đổ mưa liền mấy ngày đêm vẫn chưa hề ngớt, bà ngoại con đem con đến bờ sông, nhìn dòng nước ngầu đỏ, trong lòng không yên tâm, bèn ngắt một tàu lá sen chụp phía trên chiếc chậu gỗ... con đã phiêu bạt tới cõi loài người như thế, sau đó may mắn gặp được cha con.
Còn về việc cha con đã vớt con lên như thế nào, con đã biết rõ, cô cũng không nói dài dòng. Nhưng có điều cô cần phải nói cho con biết rằng: chính vì vớt con lên mà ông đã phải đánh đổi cả mạng sống của mình.
Mới đầu ông không hề nghĩ rằng con là con của người đàn bà mất trí đó, đến khi hiểu rõ thì đã có tình cảm sâu nặng với con. Ông cũng muốn trả lại con cho ông bà ngoại con nhưng quyến luyến không nỡ rời xa, và cũng lo sợ con sẽ bị họ vứt bỏ một lần nữa, nên ông quyết định giữ con lại. Sau đó, người trong thôn lờ mờ biết được lai lịch của con. Mọi người nghi ngờ rằng con thực sự không phải do cha con vớt lên từ dòng nước đục mà là được đón trực tiếp từ nhà ông bà ngoại con về. Đến khi phê Lâm đả Khổng(1), yêu cầu cần phải nắm lấy điển hình, lũ quân hiếu sự bèn nhằm thẳng vào cha con, nói rằng trong cả đại đội sản xuất chỉ mình cha con thích đọc lời của Khổng Tử, là con hiền cháu thảo của Khổng lão nhị, lại là hạng trộm cắp ** điếm, lợi dụng cơ hội nom bệnh để gian dâm ô uế một người đàn bà mất trí có thân phận nghèo hèn thuộc tầng lớp bần cố nông.
Bấy giờ ông ngoại con đã qua đời, bà ngoại con muốn đứng ra thanh minh cho cha con, nhưng lại bị cán bộ đại đội xỉ vả một hồi, dọa dẫm sẽ cắt lương thực của bà ấy, bà ngoại đành phải câm lặng như con ve sầu mùa đông. Thể tạng của cha con vốn yếu mềm, ông không thể chịu nổi những lời ô miệt và dèm pha như vậy, cuối cùng... mặc dù mẹ con là người đàn bà mất trí nhưng lại rất đa tình, khi biết cha con đã vì mình mà chết thì cũng đã trẫm mình xuống sông...
Hôm nay nói với con những điều này, trong lòng cô tin chắc, và cũng muốn con tin tưởng chắc chắn rằng, khi con nghe bất cứ những lời đàm tiếu bịa đặt nào liên quan tới cha con thì con cũng không một mảy may hoài nghi hay dao động về phẩm chất của cha con. Cha con thực là một người cha tốt, cũng là một thầy lang giỏi. Y đức, y thuật và nhân phẩm của cha con đều đã được được ghi trong bia miệng người đời, có trời cao soi xét, thần linh chứng giám...
Cho nên, Tiểu Ngọc, nói thực, mặc dù Thạch gia chịu nhiều bất hạnh, chịu đủ đọa đày, nhưng cô cho rằng, con còn là một đứa con còn chịu đựng nhiều khổ đau hơn hết thảy. Hôm nay cô nói về thân thế của con, trong lòng cũng đầy mâu thuẫn, sợ rằng cô sẽ chà thêm muối lên vết thương của con, khiến lòng con càng đau xót và khổ sở hơn. Đúng, ai chẳng mong muốn mình có được xuất thân đàng hoàng, ai chẳng mong mình được người mẹ tài cán và xinh đẹp thông minh, ai chẳng muốn... nhưng cô cũng có cách nghĩ của riêng mình, tin rằng sau khi con đã hiểu hết về thân phận của mình, cũng có thể hiểu được điều gì đó, tăng thêm chút trí tuệ, hiểu thêm đạo lý, vận mệnh khó lường, nghiệp căn khó diệt, từ đó “cái ác không làm, điều thiện nên theo”.
Phật Tổ đã nói với chúng ta rằng, sở dĩ con người phải chịu những khổ đau hoặc có hạnh phúc đều là liên quan tới Nghiệp (lầm lỗi, tội lỗi) tạo ra từ kiếp trước. Cho nên, trong kinh Phật đã nói: “Muôn vật đều ở lại, chỉ có nghiệp theo mình”. Mỗi người hay mỗi dòng họ, bất luận là tội lỗi của kiếp nào đó tạo ra, luôn luôn có báo ứng. Thiện nghiệp có thiện báo, ác nghiệp có ác báo, không phải là không có báo ứng, mà chỉ là chưa đến lúc báo ứng đó thôi. Muốn biết Nhân kiếp trước thì người kiếp này là kẻ gánh chịu; nếu muốn biết Quả kiếp sau, thì người kiếp này là kẻ gây nên. Lục đạo luân hồi, quả báo chẳng hề sai. Nghiệp lực của chúng sinh, thì đến cả Phật tổ cũng không thể thay đổi được. Còn nhớ lời đại Phật pháp ngữ “Một chìa khoá mở một ổ khoá” năm xưa khi cô dẫn con đến chùa Tuệ Giác không? Hiện nay cô nghĩ thế này, có lẽ chỉ có chìa khoá cửa Phật mới có thể thực sự mở được cái khoá tội lỗi kiếp này kiếp trước của con. Nghiệp căn của con quá nặng, xem ra không phá nổi hồng trần, ngoài việc theo vào chốn cửa Phật không thì chẳng còn con đường nào khác. Trong Hồng lâu mộng có viết: “Hảo tiện thị liễu, liễu tiện thị hảo”. Con ơi, muốn được viên mãn thì phải từ bỏ tất cả, chỉ có từ bỏ mới có thể được viên mãn. Cho nên một sớm một chiều con đọc được những dòng chữ cô viết này con sẽ còn phải suy nghĩ, cân nhắc nhiều điều. Đương nhiên, cửa Phật cũng không phải hễ nói vào là vào được, mà còn phải tuỳ duyên chín muồi mới được.
Mấy dòng lộn xộn nghĩ đâu viết đấy, hy vọng có thể có ích cho con...
Đọc xong bức thư di chúc của cô, trong lòng tôi rối như tơ vò.
Cảm ơn cô cuối cùng đã để cho tôi hiểu rõ chân tướng thân thế của mình. Nhưng sự thực này lại khiến tôi khó có thể chấp nhận. Có một người đàn bà mất trí là mẹ đẻ của tôi đã là một việc bất hạnh. Mà người mẹ mất trí đó lại bị người ta thay nhau hãm hiếp... nói như vậy, tôi là một tạp chủng và dã chủng chẳng rõ ràng. Nhưng, tất cả, những người đã cho tôi cuộc sống trên ý nghĩa sinh lý học, rốt cục tôi cần phải gọi là bố hay gọi là kẻ hiếp dâm? Rốt cục bọn chúng là ân nhân hay là kẻ thù của tôi?
Tôi lần thành giường đứng dậy, tay cầm lá thư của cô, đi đi lại lại trong gian phòng, trong lòng không nén nổi cười tê tái:
- Ha ha, tạp chủng, hóa ra ta là một tạp chủng. Một tạp chủng đáng thương được sinh ra bởi lũ dã man... và lũ cha khốn nạn đó bây giờ có thể vẫn sống trơ trơ trên thế gian này...
Nhưng tôi không hiểu, bọn chúng gây ra ác nghiệp vì sao lại bắt tôi gánh chịu quả báo? Lẽ nào quả báo còn có thuyết “quýt làm cam chịu”?
Đây quả thực là một thế gian đầy rẫy những xấu xa, tởm lợm...
Tôi đổ vật xuống sô pha trong gian phòng khách, trong lòng bỗng mong mỏi tất cả những lời bịa đặt liên quan về cha và mẹ mình ở làng quê kia đều là sự thật. Như vậy, tuy nhân cách của cha tôi có chút bị hoen ố, nhưng tôi còn có thể có một người cha thực sự... A, cha ơi, người cha tội nghiệp, tội lỗi của Thạch Ngọc có thể thực sự còn sâu nặng, rốt cục cha cũng đã vì con mà chết.
Tôi bỗng cảm nhận được tất cả, sống trong biển người mênh mông này, tôi xác thực là một dị loài không xác định. Tôi không chỉ chịu khổ cho mình, thậm chí cũng không thể tránh cơ hội gây ra khổ đau cho người khác.
Nhưng, theo cách nói của cô, đây là quả báo của tội lỗi từ kiếp trước, như vậy kiếp trước tôi đã làm những gì? Giết người? Đốt nhà? Hãm hiếp, cướp bóc?... nếu như giữa kiếp này kiếp trước quả thật có bức tường dầy, tôi nghĩ tôi sẽ không từ trả bất cứ giá nào để có thể phá vỡ nó, nhìn thấu bộ mặt thật của mình trong kiếp trước.
Đương nhiên, tôi cũng rất cảm ơn ý tốt của cô đã khuyên tôi nên quy y cửa Phật, “Các Pháp đều do nhân duyên sinh ra, các Pháp đều do nhân duyên mà tuyệt diệt”, nếu như quả thật sơn cùng thuỷ tận, thì đèn dầu tượng Phật cũng sẽ là nơi tôi có thể suy tính đến. Vấn đề là trong lòng tôi còn một số hoài nghi về Phật giáo, và cũng cảm thấy thuyết pháp lục đạo luân hồi hoặc thế giới cực lạc, tuy có kinh thế hãi tục nhưng chỉ là một suy luận chủ quan và áng chừng, mãi mãi chưa được chứng thực. Hơn nữa cửa Phật chốn Thiền dường như cũng quá tiêu cực...
Tóm lại, tôi còn chưa cam chịu và cũng chưa dự định vứt bỏ nó, nếu không sơn cùng thủy tận, tôi còn phải tranh đấu với vận mệnh bất công này. Tôi cũng tin rằng, trong cõi thẳm sâu, nhất định có cất giấu một chiếc chìa khoá mà có thể mở tung vận mệnh của tôi cũng như có thể mở tung cái ổ khoá thể xác của mình.
Tôi trở về phòng, gập cẩn thận lại bức thư của cô cất vào chiếc tráp nhỏ.
Sau đó, tôi chỉnh sửa lại mái tóc, khoác thêm chiếc áo gió, ra khỏi ngôi nhà u ám, lần lượt khoá cửa ngoài và cổng, bước ra con hẻm chật hẹp hướng tới đại lộ Giải Phóng phồn hoa. Tôi đứng ở đầu đường, sau đó ngược gió bước về phía tây, qua “Phong Lạc kiều”, nhằm hướng chợ rau Thiên Bình bước tới.
Thạch gia nhà cửa rụng rơi, cuối cùng chỉ còn sót lại mình tôi. Nhưng tôi cũng cần phải ăn. Cho nên không thể cứ khoá mãi cửa ở trong nhà, tôi phải nghênh đón ánh mắt của người đời, trải qua mưa gió, xem mặt nhân gian.
“Chẳng bao giờ thiên tài được đón tiếp nồng nhiệt ở quê hương”, có triết nhân đã từng nói như vậy