Sau khi gắng gượng đứng dậy từ trong nỗi đau đớn mất người thân, tôi bèn thu dọn di sản của cô để lại, cái gì có thể bán thì bán, cái gì không thể bán thì cho. Còn chút ít kỷ vật có ý nghĩa tôi thu nhặt cất cả vào va li, chuẩn bị đem về Mỹ. Về nhà cửa, đó vốn là nhà công, khi nào chính quyền muốn thu hồi thì họ cứ việc lấy.
Tôi cũng quay về quê hương một chuyến, đem lọ tro hài cốt cô về mai táng ở sau ngôi nhà tổ bên cạnh nấm mồ của ông bà và cha tôi theo lời dặn của cô. Như vậy, có thể xem như họ đã được đoàn tụ ở cõi bên kia.
Sau đó, tôi lại đến đắp thêm ít đất lên nấm mồ của mẹ và bà ngoại tôi. Hai con người đáng thương này, nhưng nghiệp chướng của họ đã tiêu trừ, đã được lên Tây thiên tịnh thổ.
Khi đứng dậy, tôi thấy sây sẩm mặt mày, vội víu lấy cành đào, bỗng một cơn gió u ám nổi lên, tiếp đó, dường như hồn ma của mẹ tôi từ trong nấm mồ hiện ra, chẳng nói chẳng rằng gỡ tay tôi ra, vội vã kéo tôi chạy đến sân đập lúa mì cạnh nhà bà ngoại.
Đống cỏ vẫn như cũ, phía dưới sát với lớp đất bùn ẩm ướt bốc mùi thối rữa.
Trụ đá buộc trâu xiêu xiêu vẹo vẹo bên góc đông bắc sân đập lúa, phía trên buộc mấy sợi dây điện cũ màu đen. Xung quanh chân cột, mấy con giun quằn quại bò, và chiếc cày dính chặt bùn đất...
Chuồng trâu chuồng lợn cũng đã chẳng còn sử dụng nữa, chỉ còn lại mấy gian nhà đất rách nát, xiêu vẹo trong gió hắt hiu như chứng kiến những năm tháng tang thương...
Lẽ nào mẹ lại muốn tôi đến xem nơi mẹ đã từng chịu đau khổ?
Tôi không thể kìm nổi mình đá mạnh vào chiếc cột đá.
Điều khiến tôi cảm thán là, rất chân thực gần gũi, đây cũng chính là chỗ mà tôi đã bị luân phiên hãm hiếp trong giấc mộng.
Xem ra, thời khắc gặp gỡ mơ hồ giữa mẹ và tôi dường như đã để lại ấn tượng khắc cốt ghi tâm tại mảnh đất này, và sau đó, cảm nhận sự tuyệt vọng sau đớn đau kia lại trở thành ký ức chung của mẹ và tôi... điều khác nhau là tôi bị giày xéo trong ác mộng bởi một toán người nước ngoài, còn mẹ bị giày xéo trong hiện thực bởi một lũ người khác họ...
Tôi leo lên bờ đê cao nhìn mãi tận xa xa, ánh mắt tôi dừng lại khoảng mái ngói và lùm cây thâm thẫm.
Tôi không muốn tìm kiếm điều gì, mà muốn ghi nhớ: nơi đó có tổ tiên của tôi.
Nhưng tôi vĩnh viễn không đến nơi đó nhận tổ nhận tông. Tôi khinh miệt tổ tông này, đặc biệt là khinh bỉ lũ “ông bố tạp chủng” đã từng cưỡng ép gieo giống tôi, họ là nguồn căn tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời tôi...
Tôi dần mất đi sự quyến luyến đối với mảnh đất đã nuôi dưỡng tôi.
Tôi mệt mỏi, cơm ăn ngày càng ít, dáng vóc ngày càng gầy, quần đã rộng ra ít nhất là một tấc.
Trong ngôi nhà vắng bóng dáng người cô, nơi nào cũng phảng phất không khí vắng lặng. Ngay đến con mèo cô luôn ấp ủ cũng đột nhiên bỏ đi mất tung tích. Dù tôi nằm trên giường vẫn luôn thấy bồng bềnh như trên mây, không sao lấy lại được tinh thần, nói cũng chẳng ra hơi, suốt ngày chỉ thấy những cơn ác mộng...
Tôi chuẩn bị quay về Mỹ.
Khi thu dọn hành lí, tôi vô tình nhìn thấy một tấm ảnh nhỏ chụp Ngô Nguyên đã nhiều năm trước kẹp trong cuốn sổ cũ, hình như anh chụp hồi mới tốt nghiệp trung học. Tấm ảnh đen trắng đã ố vàng, nhưng hàm răng anh vẫn còn trắng tinh, nụ cười rất thuần khiết, ý khí rất phong độ...
Tôi bỗng nhớ hơn lúc nào hết người đã từng cho tôi tình yêu ngọt ngào và thân ái chân thành. Tôi cũng nhớ đến bờ vai rắn chắc và lồng ngực nở nang của anh, đã từng là niềm an ủi tốt đẹp nhất cho tôi mỗi khi mệt mỏi. Anh không sai, chưa bao giờ sai. Chính tôi đã rời bỏ anh, tôi đã quyết định rời xa anh. Nhưng vì sao tôi phải cắt bỏ tình hữu nghị chân thành của anh? Anh có khoẻ không? Hôn nhân có tốt đẹp không? Hạnh phúc không? Hoạn lộ có hanh thông không?...
Nỗi đau lớn mất đi người cô đã từng loại bỏ ý nghĩ đi Bắc Kinh của tôi. Nhưng bây giờ, trong kế hoạch cần phải lập tức trở về Mỹ thì ý nghĩ đó lại một lần trỗi dậy và bùng cháy...
Bắc Kinh vẫy gọi tôi, Ngô Nguyên đang vẫy gọi tôi.
Để cho lòng thảnh thơi, tôi cũng cần phải đi lại, thả lòng thanh thản - Tôi nghĩ.
Đêm tối mịt mùng, cuối cùng tôi cũng đã lên chuyến tàu du lịch từ ga Tây Nam Kinh đi Bắc Kinh.
Khi tàu qua Từ Châu, tôi tra được ga lớn tiếp sau là Duyễn Châu từ tấm bản đồ mới mua, lại thấy nó kề ngay Khúc Phụ, bỗng nghĩ đến đây chính là quê hương của đức thánh Khổng, quốc đô của nước Lỗ xưa, bỗng nhiên mắt tôi sáng lên, trong lòng bùng lên một ý nghĩ: Cha tôi đã từng bị phê phán là con hiền cháu thảo của Khổng Tử, Ngô Nguyên cũng rất sùng bái tinh thần Tân Nho gia, toàn bộ lịch sử Trung Quốc, lật dở từng trang có chỗ nào xa rời Khổng Tử và các phương cách trị nước của ông... và tôi hiện nay lại đang ngang qua cửa nhà Khổng Tử, sao không thuận xuống chiêm ngưỡng di tích của vị thánh sư hơn hai ngàn năm trước?
Tôi xuống tàu ở Duyễn Châu, rồi lên chuyến xe sớm đi Khúc Phụ.
Chưa đầy nửa tiếng sau, trong khoảnh khắc giao thời giữa đêm và sáng, khi mặt trời đỏ ối bắt đầu nhô lên thì tôi đã có mặt ở bến xe Khúc Phụ. Tôi tìm một khách sạn tương đối sạch sẽ trong thành phố trọ lại, dùng xong bữa sáng, cất hành lí (thực ra chỉ là một chiếc va li kéo), rồi theo lời chỉ dẫn của người phục vụ khách sạn, đi trước tới miếu thờ và phủ Khổng Tử ngay cạnh đó.
Nói kể cũng lạ, khi chân của tôi bước vào phủ Khổng Tử – nơi đây được người đời tôn xưng là “Nhà của thánh nhân văn chương đạo đức”, bỗng có cảm giác như được trở về chính nhà mình, thậm chí từng cây cỏ, từng viên gạch hòn đá trong phủ cũng như rất đỗi quen thuộc. Còn khi bước vào miếu thờ Khổng Tử, ngước mắt lên nhìn toà nhà bia uy nghi, một cây bách ngàn năm tuổi, càng cảm thấy tất cả thánh hiền cổ xưa đang dõi nhìn theo tôi. Khi tôi ở đại điện ngắm nhìn bức tượng Khổng Tử, càng cảm thấy kinh ngạc bởi phát hiện ra hình dáng của Khổng Tử giống hệt như ông lão râu tóc bạc phơ trong giấc mơ của tôi! Tôi có chút hoảng hốt, tờ giấy có mấy chữ Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá lại phất phơ trước mặt tôi... Tôi nghĩ, nếu như trong giấc mơ thật sự là thánh nhân Khổng Tử đã cho tôi tờ giấy kia, rốt cục là người sẽ cho tôi lời ít ý nhiều thế nào? Quân quân thần thần, phụ phụ tử tử? Tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức? Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại(1)? Phương thuốc trị thế của người, đại khái chỉ có vậy, nếu như dùng vào việc chữa trị sự phong bế của tôi, e rằng gần như vẻ phi lí.
Nhưng xét lại cả đời của người, cuộc sống cũng chẳng dễ chịu hơn tôi là bao, chạy đông chạy tây, chu du liệt quốc, đến đâu cũng vấp thành chạm lũy, thường “mệt mỏi như con chó không nhà”, cho nên đến những năm cuối đời ông đau đớn ngửa mặt lên trời cao mà ta thán: “Đạo ta không thể thi hành, hãy cưỡi thuyền chu du ra bể”...
“Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành....”. Tôi suy nghĩ đến đây, câu nói của người bỗng như sấm sét ngang tai, gầm thét mãi không thôi, lại như có cả ánh chớp loè, rạch sáng không trung.
Ngẫm nghĩ những điều tôi vấp váp trong mấy năm nay, chẳng phải chỉ vẻn vẹn một câu “Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể” này đã lột tả một cách sinh động sao?
... Đầu tiên là trôi nổi trên một chiếc chậu gỗ con con, tiếp đó là ngồi máy bay vượt qua biển... Tôi ơi, tôi, tôi còn nói được gì? Kiếp này của tôi cũng chính bởi phần dưới “đạo không thể thi hành” mới không thể không rời bỏ quê hương... Nhưng, giấc mộng kỳ lạ mấy năm trước thực sự là chính Khổng Tử đã chỉ điểm bến mê cho tôi! Xa cách hơn hai ngàn năm, người vì sao vô cơn vô cớ quan tâm tới một cô nhi không rõ lai lịch như tôi – nói một cách nghiêm túc là một tiểu tạp chủng? Đệ tử tam thiên, hiền giả Hồi giã(1). Lẽ nào cha tôi (đương nhiên là chỉ người cha đã nuôi tôi) cũng là một môn sinh đắc ý của người sao?
“Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá” – tôi dường như lờ mờ thấy được ánh mắt sáng rực của ông lão râu trắng đang ở bầu trời xa xưa mỉm cười nhìn tôi, đồng thời cũng thấy một lũ rỗi hơi hậu thế bên cạnh không ngớt mồm ầm ĩ: “Giữ đạo trời, diệt dục vọng con người; Giữ đạo trời, diệt dục vọng con người...”
Ra khỏi miếu Khổng Tử cũng đã giữa trưa, tôi bèn dừng chân ăn qua loa mấy thứ trong quán ăn ven đường rồi lại hăm hở hướng tới rừng Khổng cách năm sáu dặm về phía bắc thành phố.
Rừng Khổng này chính là khu vườn mộ rất lớn mai táng những người trong dòng họ Khổng hơn hai ngàn năm nay, nó còn lớn hơn cả thành phố Khúc Phụ. Tôi bước vào cửa rừng, đầu tiên chiêm ngưỡng ngôi mộ mà mọi người cho rằng đó là mộ của “Chí thánh Văn Tuyên Vương” Khổng Tử – thực ra đó cũng chỉ là một nấm đất khá lớn, rồi sau đó cứ đi thẳng vào phía trong, lang thang dưới bóng rừng, lội qua hết những bãi cỏ gò hoang, những dẫy nhà bia. Tôi bị những bia mộ lớn nhỏ, cao thấp, muôn hình vạn trạng cuốn hút, một chốc thì đọc đi đọc lại văn bia, chốc chốc lại thưởng thức nét chữ khắc, khi lại không quên phân biệt thân thế và danh tính của người nằm dưới mồ, dần dần tôi cảm giác như đang đi tìm mộ người thân. Sau đó, khi tôi ngang một gốc cây sồi lớn, bị quả trên cây rơi trúng đầu, bỗng thần hồn mê mệt, dường như bị men rượu hun say, bước chân lâng lâng. Dần dần, bụng dưới bắt đầu đau đớn, phần mẫn cảm nhất ở thân dưới lại bị co rút từng cơn... tay tôi chặn giữ bụng dưới, khom người ngồi trên đỉnh gò đất. Ngoảnh đầu nhìn xung quanh chẳng một bóng người; tôi ngẩng nhìn lên cao, cành lá sồi ken kín bao trùm khoảng rộng, chẳng để lọt một kẽ nắng; tôi không nén được quờ tay về phía sau, lại chạm phải một tấm bia đá xanh cao chừng hơn hai mét. Lúc này, tôi đã cảm thấy nghẹt thở, bụng càng đau dữ dội, vội vã quẳng chiếc túi du lịch trên vai xuống, trải mấy tờ giấy ra đất rồi từ từ tựa lưng vào tấm bia đá...
Tôi vừa kịp ngồi xuống thì bỗng nghe thấy trong người vang lên những tiếng ùng ục, tiếp đó là tiếng gầm gào của sóng biển, cứ thế cuồn cuộn rồi biến thành một đợt sóng ào ạt trào qua cửa ra nho nhỏ dưới thể xác tôi... trạng thái đó rất giống như sóng dữ đập bờ, lại giống như có trăm ngàn người trượt chân trong động tối đen như sơn, cùng quẫy đạp vươn vào cái khe nhỏ chỉ lọt một chút ánh sáng... nhưng, vách đá lạnh lẽo kia lại bắt đầu sợ hãi khép lại, co rút...
- Không!
Tôi không kìm được tiếng kêu thất thanh, tuyệt vọng giơ tay giằng xé lấy phần dưới và cố gắng hét lớn:
- Có ai không! Giúp tôi với!...
Nơi rất xa, có một thiếu nữ áo đỏ lao về phía tôi. Váy của cô không ngừng phấp phới theo bước chân, xem rất giống một bó đuốc cuồn cuộn trong cánh rừng. Bó đuốc đó cuối cùng cũng đã lao tới trước mặt tôi, tôi nhận ra đó là cô hướng dẫn viên du lịch mình đã gặp nơi cổng ra vào.
- Chị? Chị bị sao thế?
Cô gái đứng trên sườn dốc phía trước mặt tôi, hổn hển hỏi tôi.
- ... ờ. Giúp chị với, thân dưới của chị –– đau dữ dội..
.
Tôi gắng sức nói, chống tay vào đấy muốn đứng dậy, nhưng cảm thấy nặng như có ngàn cân.
- Chị bị bệnh gì thế?
Cô bé lại hỏi.
- Không, chị chỉ cảm thấy thân dưới bị co rút, trong đó dường như sông bể cuồn cuộn... ôi, mau lên giúp chị với, chị chịu không nổi..
- A, ở đây âm khí quá nặng, chị không nên ngồi trước nấm mộ thế này, chắc đã xúc phạm điều gì. Mau, em dìu chị dậy!
Cô gái nói rồi tiến lại gần, bám cánh tay tôi gắng sức kéo tôi dậy.
Tôi chầm chậm đứng thẳng người nhưng không thể đứng vững, bèn thử bám vào gáy cô gái, không muốn để chân mình nhũn ra, nhưng bàn chân trườn trượt, kéo theo cô gái xuống chân đồi. Trên thế giới này lại còn có việc xui xẻo – tôi lăn lộn mấy vòng, bộ phận phía dưới bị một gốc cây nhỏ dưới chân đồi đâm chọc vào...
Cơn đau buốt nhói tim đã khiến tôi gần như ngất đi, đồng thời cảm thấy máu nóng từ dưới thể xác trào ra, ướt đẫm cả hai đùi...