Nhưng, nói một cách nghiêm túc, tôi dường như chưa từng hát. Giọng nói của tôi rất dễ nghe, rất trong trẻo, thanh thoát, như tiếng suối róc rách, nhưng khi vừa cất lên, âm vực lại the thé lạ kỳ, chỉ có thể lẩm nhẩm vài câu ở cung bậc trung hữu hạn, khi gặp âm vực cao hoặc thấp, thì không sao phô diễn nổi, cuối cùng đành lực bất tòng tâm, tắc nghẹn lại. Cho nên, trong ấn tượng, tôi lớn bằng ngần này mà vẫn chưa một lần hát trọn vẹn một bài nào. Điều đó khiến tôi rất buồn rầu, có lúc tôi hoài nghi cuống họng của mình phải chăng cũng có khuyết điểm đối ứng với bộ phận khác trên thể xác, cũng gặp những phiền phức như vậy...
Nhưng tôi rất thích Thường Đạo hát. Tuy giọng hát của anh rất nghiệp dư, rất riêng, âm sắc cũng thiếu sự gọt rũa cần có, có lúc thậm chí còn hát sai nhạc, nhưng rốt cục bài ca nào anh cũng có thể hát hoàn chỉnh, âm vực rộng, âm sắc trong sáng, truyền cảm. Có một số bài anh hát thậm chí còn truyền đạt được ý cảnh núi cao tuyết trắng, thảo nguyên bao la.
Khi tôi từ Trung Quốc trở lại Mỹ, Thường Đạo đến sân bay đón tôi. Trên đường về, anh vừa lái xe vừa mở cassette, sau đó anh cứ nhẩm đi nhẩm lại bài Nỗi nhớ quê nổi tiếng của nhạc sĩ Lý Cốc:
Giọng nói của em
Tiếng hát của em
Mãi mãi còn thiết tha
Trong tim tôi
Ngày hôm qua đã trôi đi
Chia phôi khó ngày gặp lại
Chỉ còn gió
Mang tình cảm sâu xa của tôi
Giọng anh trầm trầm, giàu sức cuốn hút, rất truyền cảm. Nhưng lúc đó tôi không thể hiểu nổi tại sao anh lại cứ hát một bài hát này để đón tôi trở về. Bởi vì, trên thực tế đây là một trong những bài hát mà tôi yêu thích nhất, khi mỗi nốt nhạc hay khẽ dấy lên gợn sóng trong lòng tôi, tận sâu thẳm trong tâm linh tôi luôn trỗi dậy nỗi nhớ Ngô Nguyên da diết...
- Chắc anh đang yêu phải không? Sau tôi nửa đùa nửa thật chọc ghẹo anh.
- Đâu có. Anh sững người giây lát rồi lại lặng im, một lúc lâu sau mới nói: - Em gái anh rất thích bài hát này.
Từ sau bữa đó tôi mới thực sự hiểu được vị trí của em gái anh trong lòng anh ấy.
Tôi cũng đã nghĩ, theo cách nói của anh trong thư viết cho tôi, Hải Lam em của anh rất giống tôi. Nhưng vận mệnh của chúng tôi há có điểm tương tự ư? Một hồng nhan bạc phận, một số phận không may... ai có thể dám nói chắc, giữa chúng tôi ai bất hạnh hơn ai?
Nghĩ đến em gái Thường Đạo, nghĩ đến Hải Lam, tôi không nén được hỏi:
- Anh có ảnh của em gái không?
- Có.
Thường Đạo vội đáp, anh bỏ bàn tay đang đặt trên vô lăng lần rút chiếc ví nhét trong túi quần ra đưa cho tôi:
- Đây, tấm ảnh đó.
Tấm ảnh màu đã ố vàng mà bốn góc đều quăn lại. Hình Hải Lam trong tấm ảnh gần như chiếm nửa tấm ảnh. Cô mặc chiếc áo jacket màu xanh lơ, ngồi xoay nghiêng trên tảng đá bên bờ biển, đối mặt với mặt biển xanh thẫm, vẻ trầm tư ưu uất không phù hợp với lứa tuổi của nó. Rất dễ dàng nhận ra làn da trắng trẻo và nét xinh đẹp của Hải Lam... đặc biệt là cái trán, cái mũi và cái cằm, thoạt nhìn, trông thật giống như em gái sinh đôi với tôi.
Giây phút đó, tôi cầm tấm ảnh của Hải Lam, không kìm được quay sang chăm chú nhìn Thường Đạo đang chuyên tâm lái xe, trong lòng bất giác rung động: hoá ra tôi và con người trước mặt đây, cũng như người em gái đã qua đời của anh, thực sự trong cõi thẳm sâu có một sợi dây liên hệ nào đó. Nhưng nơi nào mới là đường về của tôi? Hải Lam đã đi rồi, mộng hồn có lẽ tiêu tán trong biển cả bao la mà cô luôn mong mỏi hướng tới. Nhưng tôi, kết cục cuối cùng của tôi sẽ là gì? Nếu như chúng tôi đích thực là chị em sinh đôi trên ý nghĩa đặc thù, như vậy, linh hồn của chúng tôi tương lai sẽ cùng gặp gỡ, cùng hội ngộ, cùng hò hẹn và cùng sum họp trong thế giới không cần ngôn ngữ và văn tự để biểu đạt đó? Ôi, em gái, em gái Hải Lam, em đã đi rồi, có lẽ cũng là điều hạnh phúc, không giống chị vẫn còn gắng gượng vô vọng trong bể nhân sinh này...
...........
ở một ?ý nghĩa nào đó, tấm ảnh đã rút ngắn khoảng cách giữa tôi và Thường Đạo. Thậm chí tôi đã ngầm tự chúc mình may mắn, đã gặp được người anh trai chỉ biết chăm lo bảo vệ cho tôi mà không hề đòi hỏi. Nếu thực sự mọi việc đều như những điều anh nghĩ anh nói thì những mệt mỏi về thể xác và tinh thần của tôi từ nay về sau đã có thể có nơi nương dựa, vườn xưa đầy mưa gió của tôi ít nhất cũng có thể hưởng được chút nắng chan hoà...
Cho nên, khi anh bỗng nhìn tôi nhếch mép cười, tôi cũng đã định bụng –– tôi cần phải xứng đáng một người em gái thực sự không giả dối, tình cảm sâu sắc.
Đấy không phải là sự giả dối hay khoa trương. Từ sau lần đó, dường như chẳng cần sự gắng gượng nào, tôi và Thường Đạo dường như rất tự nhiên sắm đúng vai của mình. Tuy vẫn xưng hô bằng tên nhưng trong lòng đã sớm xem nhau là anh em. Anh rất khéo tay, cho nên nếu chiếc xe cũ của tôi có vấn đề gì, hoặc giả đường ống nước hay bệ xí trong phòng tôi có hư hại gì, chỉ cần gọi một cú điện thoại, anh sẽ có mặt trong khoảng thời gian ngắn nhất, giúp tôi xử lý mọi việc. Còn tôi, để báo đáp, trong những ngày nghỉ ngơi cũng thường xuyên đến chỗ anh, giúp anh giặt giũ chăn chiếu và quần áo, hay bày biện nấu nướng những món mới học. Anh thích được nghe nhạc nhẹ khi ăn và cũng ưa thích sau bữa ăn đi vài đường quyền để giúp tiêu hoá. Anh đặc biệt thích nói chuyện khôi hài, một số chuyện là anh nghe người ta nói lại, một số do anh bịa ra, những chuyện đó khiến tôi có được những trận cười sảng khoái, có khi còn phì cả cơm...
Bởi là một nhà báo nên anh quen biết rất nhiều người. Dưới sự hướng dẫn của anh, tôi cũng bắt đầu xâm nhập, quan hệ với xã hội người Hoa, có lúc cũng tham gia những vũ hội do bạn bè anh tổ chức tại nhà. Tôi hát không hay, nhưng nhảy thì tạm được, nhịp điệu cũng khá đẹp, chachacha, rumba, bibop, tango, disco mỗi thứ đều biết một ít. Tôi khiêu vũ có đặc điểm là rất chuyên tâm, quên mình, thực sự hưởng thụ sự hưng phấn. Vào những lúc này, Thường Đạo luôn ở bên lặng lẽ cầm túi cho tôi, lúc tôi mệt, anh kéo ghế cho ngồi; tôi khát, anh rót một cốc trà nóng đưa tôi; tôi toát mồ hôi, anh tìm khăn cho tôi lau. Có lúc tôi giật túi xách trong tay anh nói:
- Anh cũng phải nhảy một chút đi.
Nhưng anh không chịu, nói:
- Anh không biết. Rồi anh lại nói: - Nhìn em nhảy thôi. Em nhảy quá đẹp, xem cũng là một cách hưởng thụ.
Có mấy lần, anh hứng chí bừng bừng đã dùng hình thức thơ cổ để ghi và miêu tả tư thế nhảy của tôi. Trong đó có một bài như sau:
Ngọn đèn xanh vừa sáng rọi cánh tay ngọc
Uyển chuyển xoay tròn
Người từ trên trời xuống múa ca
Một khoảng rốn đầy ý thơ
Tôi rất thích bài thơ này, chỉ có hai chữ “khoảng rốn” hơi yếu một chút. Anh biện bạch rằng:
- Anh hoàn toàn tả thực đấy.
Tôi nói:
- Nhưng em cảm thấy hai chữ này hơi thô.
Anh lại cười nói:
- Thực ra em không hiểu, những thứ càng thô thì lại càng nhã. Nếu không, vì sao em lại chọn mặc chiếc áo cánh hở cả sườn cả rốn? Nghĩ kỹ mà xem, hai chữ “khoảng rốn” bất kể là đặt trong bài thơ hay trong tư thế nhảy của em đều như điểm mắt rồng vậy.
Anh nói rồi cười tít, rồi lại chọc tôi:
- Thật đấy, không lừa em đâu, rốn của em cũng biết cười, biết nói mà.
Gương mặt tôi cảm thấy nóng bừng. Tuy tôi tin tưởng trong mắt Thường Đạo rằng rốn của tôi rất đẹp, thậm chí còn biết cười... nhưng bằng sự mẫn cảm tôi bỗng liên tưởng đến một cái nơi tương tự phía dưới thân của tôi, nơi đó lại không thể...
Tinh thần tôi đang vui vẻ, thoải mái, tâm tình dịu dàng, bỗng chốc lại có đám mây sầu thảm ập đến chụp lên tôi.
Tôi còn nhớ rất rõ, sau buổi tối hôm đó khi trở về nhà, tôi cảm thấy mình mẩy rã rời, thẫn thờ. Khi tắm rửa xong xuôi, tôi loã lồ thể xác chải chuốt trước gương, lần đầu tiên tôi cảm thấy hoài nghi thậm chí là căm ghét đối với xác thịt mình. Tiếp đó, tôi cũng chẳng động tay động chân vuốt ve nó như thường lệ...