3
Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của đội anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu uý, liền chụp lên đầu cái kết ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong.
- Sao, coi giống chưa? Tấn nói:
- Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc! Tới và Trọng khoác mỗi người một khẩu tôm - xông, Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lảy đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng. Anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc. Ngạn nói:
- Đi thôi! Bốn người mở cửa ra khỏi nhà. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. Vào gần tới đầu xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba người ngồi đợi, để anh vào bám. Ba người ngồi được một chốc thì Tấn trở ra, thì thào:
- ????????, đi đi! Bốn người lại đi. Tấn dắt mọi người đi men ra bờ sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước sông đang đổ ra biển, réo lên ở những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo:
- Đêm nay đáy nó không đóng?
Lệ thường đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ. ánh đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn:
- Nó có ở nhà?
- Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi đây! Dứt lời, Ngạn và Tới, Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm, Ngạn đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ độp độp vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ cửa một lần nữa và khẽ gọi:
- ạng Ba có nhà không? Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc:
- Ai kêu cửa đó?
- Tụi tôi đây, mở cửa đi! Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút "soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây đèn trai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá răm liếc nhìn Ngạn. Ngạn chưa hề gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh hỏi:
- Có ông Ba ở nhà không? Đôi con mắt lá răm của mụ đàn bà chợt nháy sáng:
- Có, có. Mời mấy ông vô nhà. Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ nói khẽ. Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và Trọng cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại. Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông trạc chừng năm mươi tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y:
- ạng là ông Ba Phi? Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực:
- Thưa phải! Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu đã xuôi lọt. Anh bảo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy ở đại đội ông Xăm. Trung uý phái tôi tới gặp ông... Anh giơ tay chỉ bao quát phía sau lưng nhà:
- Tụi tôi mới ở chi khu vô tới.
- Biết rồi, biết rồi... Xin mời quý ông vô trong này! Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói:
- ạng ở đây sung sướng quá hả? Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên như ông đâu... Việt cộng lóng rày phá rối dữ lắm! Tên chủ trại đáp lại cung kính:
- Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về, đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo:
- Này, nấu nước đi! Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài:
- Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả?
- Ừ.
- Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá! Kế đó y chửi tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng:
- Đ. mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây, tụi Việt cộng nó lộng lắm, thiếu uý. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi! Ngạn gật đầu:
- Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó.
- Được, được.
Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru - bi. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần Ngạn, híp mắt hỏi:
- Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không? Ngạn đáp:
- Lâu. Chi vậy? Đuôi mắt lá răm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng:
- Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không? Nghe mụ ta hỏi, Ngạn nghĩ:
“Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với mụ, chân nhịp nhịp:
- Có tôm cua gì không?
- Chà, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!... Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ quay vào bếp khiển chồng:
- ạng ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!... Thằng chồng đang đứng coi lửa ở trong đáp:
- Ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi! Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời mọi người uống. Y cũng hớp vội một chun, khà khà rồi để ba người ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống. Tiếng vịt kêu cạp cạp. Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy nhiêu. Anh nghĩ bụng:
“Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực". Bầy vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta liền thộp chéo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn. Bắt vịt rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái xà - rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y:
- ạng Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công chuyện một chút!
- Dạ, được!
- ạng có bản đồ vùng này chớ?
Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay y, tháo ra. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để t‘ấm bản đồ đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li: nhà cửa, vườn cây, và những khoanh tròn như trôn ốc mà anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi. Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy giờ. Ngạn nói:
- Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. ạng cứ việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn...
- Tôi biết... Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà - rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ:
- Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo. Thiếu úy chú ý nghen! Ngạn lập lại:
- Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi! Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay cái, cũng cáu bẩn như ngón trỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy:
- Ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ đó, tôi có báo cáo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được. Nghe tên điệp nói, Ngạn nghĩ thầm:
“Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết một con chó! " Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y.
- Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng được lãnh tiền thưởng. Quay vào bếp, Ngạn vui vẻ cất tiếng:
- Sao, có gì nhậu được chưa, bà chủ trại đáy?
- Có, có... Món lòng xào rồi đây! Mụ chủ nói và đảo chiếc vá xúc chạm đáy chảo nghe xoang xoảng. Rồi mụ lạch bạch bưng ra một đĩa lòng vịt xào hành. Lòng của hai con vịt đầy vun một đĩa, coi rất sum sê. Thằng chồng ghé mũi xuống đĩa lòng đó, hít hít rồi dón chân lỏn vào buồng trong cắp ra một chai rượu "Rồng xanh" thứ lớn, đồng thời bốn ngón tay y kẹp theo bốn cái ly. Y kề chai rượu "Rồng xanh" lên miệng, cắn nhá cái vỏ nút bằng nhựa đỏ, phun phèo phèo. Ngạn ngó đĩa lòng xào, đột nhiên nhìn thẳng vào mặt tên chủ trại đáy, hỏi:
- Nè, ông Ba có lần nào nếm thịt người ta chưa? Tên chủ trại đáy nghe hỏi liền đặt chai rượu xuống ván, ngó Ngạn, lắc đầu:
- Cha cha... thưa thiếu uý, cái món đó thì tôi chưa dám. Tôi nghe nói nhiều ông ăn khen ngon... Còn tôi, tôi hơi ngán! Ngạn cười, hỏi tiếp, nửa giỡn, nửa thật:
- Vậy làm cái nghề chỉ chọc này ông không ngán sao?
- Có gì đâu mà ngán, thưa thiếu úy. Cái chánh là phải kỹ... Tôi không phải là thằng dại, tôi đâu có chường mặt... Nói thế xong, tên chủ trại đáy thu hai tay vào bụng, ghé miệng sát tai Ngạn hỏi:
- Thiếu úy à, thiếu úy có nếm qua cái món đó chưa?
- Món đó là món nào?
- Thịt... thịt người ta ấy mà!
- À... Ngạn đưa mắt nhìn về phía Tới và Trọng, bảo:
- Hai thằng này thì có nếm. Còn tôi, tôi không ăn. Thịt người thì có thiếu gì, tại tôi không ăn... Tôi chỉ ăn gan thôi. Với lại tôi khoái mật. Mật người pha rượu uống khỏi sợ ho lao. Nói thế rồi Ngạn hỏi ngược lại y:
- Còn ông, nói giả tỷ nếu có, ông dám ăn không? Tên chủ trại đáy lặng im. Lát sau, y ngúc ngoắc cái đầu sói, cười khè:
- Thiệt tình là ghê quá... Nhưng giả tỷ có, tôi cũng nếm thử coi nó ra làm sao mà mấy ổng khen ngon dữ quá!
- Được, mai tôi sẽ cho ông một hai ki - lô. Thế nào mai cũng có! Rồi vờ như sực nhớ ra điều gì. Ngạn hỏi:
- À, tôi quên... Còn mấy người làm chung công chuyện với ông thì sao?
- Mấy người làm đáy cho tôi à? Ngạn lắc đầu. Tên Ba Phi hiểu ra, bèn nói:
- Ạ, ạ... không, tôi không làm chung với ai ở đây hết. Tôi sợ làm chung với nhiều người lắm. Hai vợ chồng tôi đủ rồi. Tới đây, Ngạn thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt nháy Tới và Trọng. hai người nheo mắt đáp lại. Ngạn vỗ nhẹ vào vai tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly:
- Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. - Đang nói, Ngạn đứng phắt lên quát:
- Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu chưa? Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm - xông vào ngực tên chủ trại đáy. Y chỏi tay, la:
- ?????, ê... đừng giỡn!
- Không giỡn đâu! Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên. Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng.
4
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100
- Anh đâu rồi?
- Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được. Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy! Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn.
Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh.
Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối:
- Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê! Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cá Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông. Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói:
- Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói:
- Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36 thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau. Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ, ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có lần anh tâm sự với Ngạn:
- Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi. Chợt Thẩm hỏi:
- Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười:
- Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp:
- Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo của ai vậy?
- Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không?
- Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói:
- Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt. Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong, nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới la:
- Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi! Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói:
- Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh nói:
- Tụi nó đông nghe!
- Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói:
- Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm:
- Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi:
- Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta?
- Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ công sự.
- Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe!
- Ba Rèn bảo Ngạn.
- Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ súng thì để tôi nổ trước!
- Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh tới để trước mặt anh Hai Thép, nói:
- "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo:
- "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa:
- "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu:
“tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế, Hai Thép đứng lên:
- "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu:
- "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông, không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn, anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ - ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng nói:
“Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng:
“Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré lên:
- Nó sụp chông rồi!
- Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt - chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng:
“Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền.
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp:
- Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe! Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ:
“Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy.