3
Chiều hôm ấy, nước cũng không còn để nấu cháo cho anh em bị thương nữa. Anh Hai Thép đưa cả bi - đông nước của mình cho Sứ. Nước trong bi - đông là phần chia cho anh ban sáng. Anh chỉ mới uống vài hớp. Tất cả những anh em khác ai cũng mau mắn cầm bi - đông đổ trút những giọt nước cuối cùng vào cái xoong nhỏ của Sứ. Chị đã đi hết lượt mà nước trong xoong chỉ được lưng một nửa. Nhìn nước trong xoong Sứ biết trước là nồi cháo này sẽ đặc lắm. Bưng xoong nước đi gần tới bếp, chị dừng lại, sực nhớ tới nửa ca nước để dành cho con Thúy. Chị nghĩ:
“Thêm nửa ca đó thì chú Thẩm và Bé mới có chút nước húp". Nghĩ vậy, chị liền bưng cái xoong đi vào chỗ phiến đá. Con Thúy không có ở đấy. Sứ đặt xoong đi vào chỗ phiến đá, mò tay vào hốc tìm ca nước. Cầm cái ca trong đó chỉ sóng sánh có một nửa nước, chị Sứ nhìn mãi, chưa đổ vào xoong. Chị nghĩ:
“Nếu mình đổ hết chỗ nước này thì con Thúy khát, lấy đâu cho nó uống? " Cầm cái ca, chị Sứ cứ phân vân, do dự. Nghĩ đến anh em bị thương, tay chị muốn nghiêng đổ ca nước, nhưng nghĩ đến con, tình mẫu tử như níu bàn tay chị lại. Cuối cùng, chị từ từ đổ ca nước vào xoong, bưng xuống, lặng lẽ đi về phía bếp. Sứ vốc gạo bỏ vào xoong, bắc lên. Không có nước để vo, Sứ thấy bứt rứt trong lòng. Và từ đấy, ngồi coi nồi cháo, chị cứ nghĩ đến nước. Thực ra thiếu nước thì cả hang đều lo, nhưng phần chị, sao chị vẫn cảm thấy như mình chịu trách nhiệm nặng hơn. Chị không phải là người trông coi căn cứ, nhưng khi lâm vào hoàn cảnh thiếu miếng ăn miếng uống, chị cắn rứt nhiều hơn ai cả. ở chị, cái thiên chức phụ nữ bẩm sinh vốn đã thế. Trong gia đình cũng như trong anh em đồng chí, chị luôn nhường phần mình. Mà chị lấy thế làm sung sướng. ở đời, nếu có người đàn bà nào chỉ biết lấy sự thỏa mãn riêng mình làm sung sướng thì Sứ không phải là loại người đàn bà kiểu đó. Chị là người chỉ sung sướng bằng sự sung sướng của mẹ, cha, anh em, đồng chí, và khi có con, chị dành cho con tất cả những gì mình có. Từ lúc vào hang đến giờ, chị là người uống nước ít nhất. Chị uống có mỗi một ngụm từ trưa hôm qua tới nay. Việc này cũng chỉ riêng có chị biết mà thôi. Nào phải chị không khát! Chị khát lắm. Ngay bây giờ, sau khi nhai mấy vốc gạo rang, chị càng thấy thèm miếng nước. Chị mường tượng tới làn nước trong vắt ở suối Lươn, và thoáng có ý nghĩ nhân lúc ban đêm, biết đâu chừng có thể len lỏi bò ra đó múc nước được.
Có thể lắm chứ! Đâu phải khúc suối nào cũng đều có giặc gác! Sau khi xoong cháo đã sôi, Sứ rút bớt lửa. Đợi cháo nhừ, chị nhắc nồi cháo xuống. Chị múc một ca cháo đem lại đưa cho Thẩm. Còn thằng Bé thì chị đút cho nó. Bữa nay, thằng Bé đã khá. Nó ăn hết hai ca cháo đầy. Đút nó ăn xong, Sứ lấy khăn chùi miệng cho nó. Chợt thằng Bé nói:
- Chị Ba, cho em miếng nước! Sứ đành phải nói thiệt cho nó biết là không còn nước nữa, thì nó im lặng, hấp háy mắt. Hình như nó ngỡ còn nước, mà tại nó không được uống. Chị Sứ hiểu ý, liền dịu dàng vuốt tóc nó, nói:
- Hết nước thiệt rồi, em à, chị Ba không dối em đâu... Để tối, tối chị đi múc nước về nấu cháo cho em uống... Thằng Bé nói:
- Vậy chừng nào có nước chị đem liền cho em uống nghe!
- ừ, chừng nào có, chị sẽ cho em uống! Thấy Sứ sắp đi, thằng Bé nắm tay Sứ, khẩn khoản:
- Chị Ba đừng đi, ngồi đây chơi với em. Em nằm một mình buồn quá hà! Nghe thằng Bé nói thế, Sứ ngồi lại. Thằng Bé đưa mắt ngó lên vòm hang:
- Hồi trưa, nghe Bác Hồ nói chuyện, em tưởng như Bác biết mình hiện đương ở trong hang... Mà em lại cứ tưởng Bác biết em mới chặt tay vậy. Thiệt, nghe Bác nói, sao em ngờ ngợ Bác biết hết, biết mình quyết tử với tụi nó, biết mình khát nước... Sứ nghe thằng Bé nói sao giống như mình nghĩ quá, chị cầm tay nó, bảo:
- Phải, Bác Hồ biết hết, em à!... ở miền Nam mình cực khổ, đau đớn hay gan góc, Bác đều rõ, nên Bác mới nói:
“Miền Nam trải qua bảy năn đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng". Đó, em nhớ không, Bác nói vậy là Bác biết rõ lắm nghe!
- Chị Ba có thấy tiếng Bác lúc đó hơi run run không? Chị Ba ơi, nghe Bác nói rồi, em thấy tay em bị cụt như vậy đâu có nhằm nhè gì. Em chỉ tức là mới xáp chiến một trận mà bị thướng sớm quá, phải chi... Sứ an ủi thằng Bé:
- Đừng lo; em cụt một tay là thường. Thiếu gì người cụt tay mà vẫn chiến đấu.
- Tay em lành rồi em cũng xin ở du kích. Rủi có chết thì thôi, nếu tới ngày thống nhứt, may phước em còn sống, em sẽ kiếm cách gởi thơ thưa với Bác rằng trong ngày đó, tháng đó, năm đó, em còn có một tay và em nằm trong hang Hòn này, em đã nghe Bác nói... chị nhắm được không? Sứ nghe thằng Bé nói thì giật mình, không ngờ nó nghĩ ra đến như vậy. Chị ngẫm nghĩ một lúc và bảo:
- Được chớ... Đâu cần gì tới thống nhứt. Chừng nào mạnh rồi, em viết thơ cho Bác cũng được mà! Thằng Bé nghe nói, vẻ mặt vừa rạng rỡ vừa lo lắng:
- Nói vậy chớ đâu được... Em nói chơi chớ em không dám viết đâu.
- Sao lại không... em viết được, em xứng đáng được viết thơ cho Bác lắm.
- Không, không được đâu! Thằng Bé vội nói, rồi nó lại đưa mắt ngó lên vòm hang cao. Chẳng biết nó suy nghĩ những gì, chẳng biết nó có tính viết thư hay không viết thư, nhưng rõ ràng là nó đang sung sướng về điều nó nghĩ, cùng những lời chị Sứ, đã đem đến cho nó niềm vui ngay tự bây giờ. ánh sáng từ trên vòm hang đã mờ đi. Có lẽ bên ngoài chiều hôm buông xuống rồi. Dần dần, Sứ không nhìn thấy rõ mặt thằng Bé nữa. Chị chỉ nghe hơi thở nhè nhẹ và bàn tay nó ấm lên trong tay chị. Sứ mò mẫm định tìm nến đốt. Nhưng thằng Bé ngăn:
- Thôi, đừng đốt chi, hao lắm!
Sứ nghe theo thằng Bé, không đốt nến nữa. Trong bóng tối tràn ngập, chị ngồi dụm hai gối chân lại, đưa tay xổ đầu tóc. Tóc chị xõa tràn bờ vai rủ xuống mặt đá. Chị kéo tóc ra trước ngực, lần các ngón tay vuốt gỡ mớ tóc rối. Tóc chị Sứ dày và mượt lắm. Mỗi lúc xổ tóc ra để bới lại, lần nào cũng nâng tóc mình vuốt ve, âu yếm. Không nói được thành lời mà sao suối tóc mát rợi của chị như có sự sống riêng, linh hồn riêng. Đối với chị, hình như là nó có tiếng nói, và mỗi lần nâng nó trên tay, chị liền có cái cảm tưởng trò chuyện rất đỗi yêu thương. Làn tóc gợi chị nhớ tới bàn tay anh San, bàn tay mẹ. Anh San ngày trước vẫn thường lùa tay vào mái tóc này. Còn mẹ chị thì vẫn hay ngồi bới lại đầu cho chị. Mẹ chị còn thường múc nước giội cho chị gội đầu nữa. Hình như mẹ chị sung sướng lắm khi được chính tay làm những việc đó, mặc dù có lúc bà cứ la lên. "Phật ơi, một chục bữa rồi tao chớ thấy mày gội đầu nghe Sứ! " hay là khi xối nước cho chị, mẹ cứ giục:
“Quào mạnh tay một chút cho tao nhờ coi! " Sứ mỉm cười nhớ lại những câu nói ấy của mẹ, lòng càng thêm lo lắng và tội nghiệp cho mẹ mấy hôm nay vò võ một mình ở nhà. Vừa bới lại đầu tóc xong, chị chợt nghe tiếng Quyên gọi. Chị đặt cây nến và cái bật lửa vào tay thằng Bé, dặn:
- Đây, chừng nào muốn sáng thì em thắp lên. Sứ đứng dậy, đi ra. Gặp chị, Quyên ôm cổ chị, thì thào:
- Anh Trọng với anh Ba Rèn đã bò ra ngoài hang rồi! Mấy ảnh ra dò thử tình hình ở ngoải...
- Vậy hả? Đi lâu chưa?
- Mới vừa đi!
- Con Thúy đâu rồi?
- Nó đang ngồi chơi với anh Hai ngoài kia! Quyên và Sứ cùng đi ra ngoài. Hai chị em đến bên anh Hai Thép:
- Sứ hả?
- Anh Hai hỏi.
- Dạ. Con Thúy nghe tiếng Sứ liền kêu "má". Chị bảo con:
- Ngồi đó chơi với bác Hai đi con! Má cũng ở đây chứ không có đi đâu đâu. Rồi Sứ nói:
- Anh Hai à, theo anh, liệu tụi nó vây mình có lâu không?
- Vẫn chưa có triệu chứng gì tỏ ra là tụi nó rút. Hồi chiều, anh có cho chú Đạt leo lên hang coi, thấy tụi nó đi vác rơm của đồng bào về chất có đống. Không biết nó tính làm gì.
- Hay là nó muốn đốt hang?
- Quyên nói.
- Cũng có thể, căn cứ vào lối đánh của tụi nó hai hôm nay, anh thấy tụi nó lần này quyết tâm tiêu diệt mình lắm. Thiệt ra tiêu diệt trên dưới hai mươi người mình đây thì cũng không ăn nhằm gì, nhưng ý đồ thằng địch coi bộ muốn tiêu diệt ta ở đây để làm nao núng ta ở chỗ khác. Cho nên về phía ta cũng phải thấy rõ là nếu ta phá được bao vây này thì sẽ có một ý nghĩa rất lớn. Anh tin ta có thể phá được, nếu ta giải quyết được vấn đề nước uống trong hang và ở ngoài xóm tiến hành đấu tranh mạnh mẽ. Nhược điểm của thằng địch là không thể giam quân ở đây lâu đâu. Còn mình thì rất tiếc không nắm được tình hình ngoài xóm mấy hôm nay ra sao. Sứ nói:
- Em tin bà con không để chúng yên đâu. ở ngoài đó chị Hai với mấy chị, lại được anh Tám Chấn giúp đỡ, thế nào cũng đấu tranh kết hợp chặt. Về vấn đề nước uống của mình thì mấy ảnh đi bám về coi. Nếu có thể mò ra khúc suối nào đó múc được, tụi em sẽ đi. Tụi em đội cà - om quen hơn... Anh Hai Thép bảo:
- ờ, để đợi anh em bám về coi sao đã. Anh Hai nói thế rồi mở ra - đi - ô rà đài Hà Nội. Từ trong máy vẳng ra tiếng đờn bầu đang dạo bản Câu hò trên bến Hiền Lương. Nghệ sĩ chơi đờn có lẽ đang chơi với những ngón tay xúc động run rẩy. Hình như có lúc anh ta nén thở hay sao mà tiếng đờn cứ oằn oại, lắm lúc nghe như chới với rồi lại lắng đọng mãi một chỗ, tưởng như sợi tơ đồng bỗng bị đứt ngang để rồi sau đó trở nên réo rắt, thiết tha hơn. Và tiếng đờn cứ tâm sự mãi. Cho đến khi giọng người con gái trong máy cất lên điệp khúc thứ hai của bài hát thì tiếng đờn cũng cứ còn vương vít, quyền quyện không thôi... Quyên bỗng thấy chị Sứ nhè nhẹ đưa tay ôm ngang thắt lưng mình, rồi cằm chị đặt lên vai mình. Quyên biết chị Sứ cảm động, vì lời bài hát ấy đang nói về lòng chung thủy, đang nói về cảnh ngộ của chị. Bài hát ấy chính Quyên đã có lần chép và rủ chị cùng học với mình, nhưng chị Sứ chỉ học để biết hát, chớ về sau Quyên không thấy chị mình hát bài hát đó bao giờ. Khi tiếng hát trong đài đã dứt rồi, chị Sứ vẫn đặt cằm nơi vai em, lặng lẽ. Lâu sau, chị mới nhấc cằm ra, bước tới bảo con Thúy:
- Thôi đi ngủ, con! Con Thúy ngoan ngoãn với tay choàng lên vai mẹ. Trước khi cõng con đi vào trong, Sứ khẽ dặn Quyên:
- Chừng nào mấy ảnh về thì kêu chị, nghe Quyên! Chị đem con Thúy vô cho nó ngủ cái đã... Sứ cõng con đi mò vào ngõ hang. Dọc đường, con Thúy ngoẻo đầu xuống vai chị. Chị hỏi:
- Ngủ rồi hả Thúy? Con bé không đáp. Hơi thở của nó phả nhè nhẹ vào mang tai chị, âm ấm, nhồn nhột. Chị dò dẫm, rén bước đi thật kỹ, cố sao cho con khỏi bị thức giấc. Về tới sát phiến đá, chị miết chặt mười ngón chân đặt trên tảng đá, bước lên. Rồi khi đã lên tới phiến đá, chị day lưng lại, rùn hai gối chân ngồi bệt xuống. Chị ngả người đặt con nằm xuống phiến đá khéo léo đến nỗi nó không hay biết gì cả. Tuy nhiên, với bản năng đặc biệt, đôi bàn tay bé bỏng của nó cứ bám riết lấy vai chị một lúc rồi mới chịu buông ra. Sứ lấy cái khăn trên cổ mình xuống, đắp lên người con. Nghe chừng tiết trời đã bắt đầu se se trở lạnh, chị sợ con không đủ ấm, liền cởi cả chiếc áo bà ba đen đang mặc đắp thêm cho con. Bây giờ, chị chỉ còn mặc một chiếc áo túi ngắn tay bằng lụa đen. Chị nghĩ bụng:
“Bận cái áo này nếu có đi lấy nước cũng gọn! " Một lần nữa, chị sờ soạng từ đầu chí chân con Thúy, đắp vén kỹ cho nó, rồi mới cầm chiếc đèn pin quay lưng bỏ đi. Nhưng lạ thay, lần này con Thúy không giật mình gọi chị gì cả mà chị cứ nhấp nhứ bàn chân chưa muốn đặt xuống phiến đá bên dưới. Có cái mãnh lực gì ở sau lưng cứ níu kéo chị lại, không để chị bước hẳn. Cuối cùng, chị đã quay mình lại. Chị quay lại để không làm gì hơn là cúi sát xuống mặt con, lắng nghe hơi thở của con. Và cũng chỉ thế thôi, chị lại từ từ bỏ đi. Nhưng có quay lại một chút như thế, bây giờ chị mới thấy yên tâm. Sứ ra tới hang bùng binh, anh em vẫn chưa về. Anh Hai Thép hỏi Sứ:
- Con Thúy ngủ rồi hả?
- Ngủ rồi!
- Con nít thiệt khỏe quá! Giặc giã gì nó cũng khỏi cần lo, cứ việc ngủ yên. Quyên nãy giờ cứ đi ra cửa hang rồi lại đi vào. Cô thấp thỏm nói:
- Sao lâu quá mà mấy ảnh chưa về! Không biết có chuyện gì không? Nói xong, cô ngồi ghé lên tảng đá. Thì ngay lúc ấy ngoài ngõ hang, có tiếng Trọng kêu:
- Anh Hai, anh Hai đâu?
- Đây, tôi đây! Anh Hai Thép đứng ngay dậy. Trọng và anh Ba Rèn ùa vào hang. Anh Hai hỏi:
- Sao? Ba Rèn nói:
- Chuẩn bị đi lấy nước đi. Tụi tôi bám rồi. Tụi nó chỉ đóng quân ở bên kia suối, còn trong mé vườn bên này thì êm rơ không có gì.
- Chắc ăn không?
- Chắc. Nhưng phải ra liền, e tình hình thay đổi.
- Vậy thì đi... Quyên ơi cà - om có ở đây chưa? Quyên mau mắn đáp:
- Có, em đem ra rồi. Anh Hai Thép nói:
- út Quyên còn yếu không đi được đâu.
- Em mạnh rồi, để em đi mà!
- Thôi con Quyên bây ở lại!
- Anh Ba Rèn cương quyết. Sứ cũng bảo:
- Thôi, út Quyên đừng đi em. Em chạy vô kêu Năm Nhớ đi với chị! Quyên miễn cưỡng chạy vào hang trong. Lát sau, cô cùng Năm Nhớ trở ra. Ba Rèn dặn Sứ và Năm Nhớ:
- Tuyệt đối không được nói chuyện nghe! Tụi tao đi trước mấy đứa bây đi sau, mà phải đi cho êm... Trọng xốc khẩu tôm - xông lên:
- Đi đi! Sứ và Năm Nhớ xắn ống quần lên quá gối.
Hai người đội cà - om theo Trọng và anh Ba Rèn luồn ra miệng hang. Ra tới miệng hang, Ngạn và anh em gác ở đó đều dặn họ phải cẩn thận. Sứ bước ra tới gần cửa hang thì nghe có mùi khói thuốc lựu đạn xông vào mũi nồng nồng. Và khi đã lọt ra tới bên ngoài, chị cảm thấy khỏe khoắn hơn lúc ở trong hang gấp bội. Chị thở hít luôn mấy hơi. Bốn người cúi mình lom khom chạy qua bãi cỏ trống. Chị Sứ chạy sau, hai tay vịn cái cà - om trên đầu. Vào tới vườn dừa, mọi người chậm lại, mò mẫm. Đi một đỗi, bỗng thấy phía trước có ánh đèn pin xẹt ngang. Mọi người ngồi thụp xuống, im thin thít. Một tốp lính kéo qua trước mặt họ, cách chừng mười thước. ánh đèn pin vụt tắt ngấm. Có tiếng chân giày giẫm sạt sạt trên các tàu lá dừa khô. Đợi chúng đi khỏi, bốn người lại đứng dậy, đi tới. Họ đã đến sát bên bờ con suối Lươn. Chỗ dẫn ra suối là một bãi sỏi trống. Trọng với Ba Rèn ghìm súng, khoát mạnh tay. Sứ và Năm Nhớ vội nhấc cà - om trên đầu chạy xuống bờ suối. Năm Nhớ tới suối trước, vục ngay cái cà - om xuống nước. Sứ cũng chạy nhanh xuống. Chị nghe tiếng bọn giặc nói chuyện lao xao ở bờ suối bên kia. Trong các lều vải sáng ánh đèn khí đá, bọn giặc đang đánh bài "dì dách". Có tiếng thằng cầm cái hỏi:
- "Kéo nữa thôi? " và thằng tay con đáp:
- "Kéo chớ! " Sứ bình tĩnh nghiêng miệng cà - om, múc đầy một cà - om nước. Bên cạnh chị, Năm Nhớ đang vốc nước suối uống. Uống mấy vốc rồi cô ta mới đội cà - om chạy lên. Sứ cũng định vốc nước uống. Nhưng thấy Năm Nhớ đã chạy lên, chị vội bợ cà - om chạy theo Năm Nhớ. Khi đã lẫn vào vườn dừa tối om om, Sứ nghĩ bụng:
“Vậy là ổn, chỉ còn từ đây về hang nữa thôi! "
Trọng và anh Ba Rèn vượt lên trước, kế đó là Năm Nhớ rồi tới chị Sứ. Đi trong vườn tối, Sứ quờ quạng đưa tay ra phía trước. Vậy mà mấy lần chị vấp phải rễ dừa, nước trong cà - om cứ sóng sánh muốn đổ. Lát sau, giậm phải một tàu lá rụng, chị liền dừng lại, đặt cà - om xuống đất. Chị lè lẹ mò mẫm tước mấy cái lá dừa, vo khoanh lại bỏ vào miệng cà - om. Khi chị sắp nhấc cà - om đội lên đầu, thình lình có tiếng chân chạy tới, giẫm lạo xạo trên lá dừa. Chị vội đứng nép vào một thân dừa. Nhưng muộn rồi, mấy ánh đèn pin cùng một lúc đã chiếu thẳng vào mặt chị. Một tên biệt kích đi đầu đã nhác trông thấy chị. Chị liệng mạnh cái cà - om vào mặt nó, rồi vụt chạy. Bọn chúng xổ theo. Một thằng túm lấy được đầu tóc chị giật mạnh, khiến chị ngã ra phía sau. Rồi ba bốn thằng xúm lại đè chặt lấy chị. Tên thiếu uý Ba, chỉ huy phó đại đội biệt kích cầm lăm lăm khẩu cạc - bin bước tới nhìn người phụ nữ lạ mặt đang bị lính của hắn trói. Hắn quay ra sau, gọi:
- Tụi bây thằng nào có ở Hòn Đất lại nhìn mặt con này coi! Một tên lính từ sau len tới. Vừa ngó thoáng qua mặt Sứ, thằng lính đó liền la lên:
- A, con Sứ!
- Mày biết nó à?
- Biết, con này là Việt cộng chánh hẩu! Tên thiếu úy lừ lừ nhìn Sứ, nắm ngực áo Sứ, hất hàm hỏi:
- Phải mày tên là Sứ không? Chị Sứ gật đầu.
- Phải.
- Mày đi với ai?
- Đi với nhiều người. Giờ thì họ vô tới hang hết rồi.
- Có múc nước không?
- Sao lại không! Thằng thiếu úy Ba nghe nói thế liền bật cười ha hả:
- Tốt lắm! Nếu có múc nước thì tốt lắm! Chị Sứ trố mắt nhìn hắn, không hiểu tại sao hắn lại bảo thế. Tên thiếu úy thọc hai tay vào túi quần, đắc chí nói từng tiếng một:
- Tụi - tao - đã - bỏ - thuốc - độc - xuống - khúc - suối - này - rồi.
Sứ mở to mắt, kêu "á" một tiếng đầy sợ hãi. Đột nhiên chị nhào tới, định chạy về hướng hang Hòn. Nhưng chị không chạy được. Một tên biệt kích đã giữ chặt tóc chị bấy giờ xổ tung cả ra. Tên thiếu úy cười gằn:
- Chạy đi đâu?... Tụi đồng chí của mày rồi sẽ chết nhăn răng hết ráo, hiểu chưa? Hắn hét bọn lính:
- Dắt nó về! Sứ bị bọn lính lôi đi xềnh xệch. Tóc chị rủ xuống gần chấm gót. Sứ mấy lượt vùng vằng cưỡng lại, không chịu đi. Mỗi bước chân rời xa hang Hòn lúc này của chị sao cứ nặng trĩu như chì. Chị muốn thét lên cho thấu tới trong hang, bảo anh em đừng uống nước trong cà - om Năm Nhớ đội về đó. Chị lo sợ nghĩ tới con, tới em cùng những đồng chí thân yêu của mình. Đang đi chị quay lại, phẫn uất nghiến răng thét:
- Đồ ác độc, đồ hèn mạt! Tên thiếu úy bị mắng, tức giận trở báng súng đánh quật ngang lưng chị, khiến chị té khuỵu xuống. Trong ánh đèn pin lia ngang, tên thiếu úy nhìn thấy nước mắt chị trào ra. Hắn chế giễu:
- Vậy mà cũng đi làm Việt cộng! Mới ăn một báng súng đã khóc rồi kìa! Sứ thấy nó hiểu lầm về giọt nước mắt của mình quá, nên bĩu môi:
- Nè, bộ mày tưởng vì mày đánh mà tao khóc hả? Nói cho mày biết, vì anh em tao, tao mới khóc chớ không phải vì mày đánh tao đâu, nghe chưa?
4
Thằng Xăm mừng rơn lên khi hay tin tên thiếu úy bắt được Sứ. Đang nằm trong lều, hắn nhổm dậy, co co cánh tay bị thương, đi lộc xộc qua lại rồi khom lưng chui ra khỏi lều. Bọn lính biệt kích đã về tới bờ suối bên kia. Chúng xô Sứ xuống suối. Chị té nhào, ướt cả mình mẩy. Nước ở quãng suối này chỉ lên đến gối. Sứ dầm chân xuống lòng suối buốt lạnh, đi qua. Dòng suối cuốn áng tóc dày mượt của chị, trôi loang loáng. Đặt chân lên tới bờ sỏi bên, chị ngước nhìn thấy hai ba thằng lính đang đứng xách đèn khí sáng rỡ. Chúng giơ cao đèn lên. Liền lúc đó, Sứ nhác trông thấy thằng Xăm. Hắn đang đứng im, tay trái vịn cằm, tay phải bị thương treo băng co lên. Sứ cất bước, giả như không trông thấy, đi ngang qua hắn. Thằng Xăm vẫn đứng im, không nhúc nhích, vẻ mặt hắn lạnh lùng như tạc bằng đá. Đợi Sứ vừa đi khỏi hai bước, hắn gọi giật:
- Đứng lại, con kia! Chị Sứ dừng chân, nhưng không ngoảnh lại. Thằng Xăm bước sải tới sát bên Sứ, nháy mắt:
- Nè, quên tao rồi sao? Sứ liếc hắn, rồi lại nhìn thẳng tới trước, không đáp. Thằng Xăm ngó chị một lúc rồi nói:
- Đ. mẹ, tao cứ tưởng tụi bây ở lì trong hang chớ!... Té ra tụi bây cũng biết khát nước. Mà tao ngỡ là bắt được ai kia chớ đâu dè là mày. Thiệt tao không dè năm kia thả mày về để mày theo Việt cộng! Sứ nhếch miệng nói nho nhỏ:
- Mày nói không dè tao theo Việt cộng, còn tao thì tao cũng không dè lâu ngày gặp mày, thấy mày vẫn y như trước.
- Y như trước là sao?
- Là ăn nói thô lỗ. Đến như mày là trung úy mà cũng ăn nói như vậy, hèn chi người ta chê "quân đội cộng hòa" tụi mày lưu manh là phải lắm...
Bị Sứ nói như tát nước sôi vào mặt, tên Xăm giận điếng người. Hắn nắm chuôi dao "cúp cúp" ở thắt lưng, rút soạt dao ra. Hắn đưa lưỡi dao dài và sáng đó ngang tầm mắt, ngắm nghía. Mấy giây sau, bỗng hắn cau mày, từ từ hạ lưỡi dao xuống, đút trả vào vỏ.
- Đóng cọc trói nó tại đây cho tao!
- Hắn thét lớn. Bọn biệt kích chạy đi lấy cây, đẽo sàn sạt. Lát sau chúng xốc một cây cộc tràm trên bờ suối, rồi dắt Sứ lại trói ghịt vô. Thằng Xăm bước tới trước mặt Sứ, nghiến răng:
- Đáng lẽ tao mổ bụng mày liền bây giờ để coi là gan của mày lớn tới bực nào. Ngặt làm vậy mày chết mau quá. Tao cho mày sống đôi ngày nữa để chôn chung một lỗ với anh em đồng chí của mày! Nói xong, thằng Xăm quay lưng đi vào lều. Bọn lính giơ những cây đèn khí đá ra sau lưng Sứ, rọi coi chỗ trói Sứ như vậy đã thật chắc chưa. Rồi chúng cũng xách đèn bỏ đi. Chỉ còn lại một tên lính cầm súng đứng gác trước cửa lều thằng Xăm. Sợi dây dù thít chặt hai bắp tay trần của chị Sứ vào cây cọc. Cứ mỗi lúc, Sứ có cảm giác sợi dây ấy càng thít chặt bắp tay mình hơn. Chị quỳ trên đất sỏi, mái tóc ướt đẫm sau lưng chị rủ đầy, xõa che kín phủ cả hai gót chân. Đêm bỗng nhợt dần, vì trăng sắp lên. Từ chỗ bị trói, Sứ có thể nhìn ra biển cả. Trước đó một chút thì chị chẳng thấy gì đâu, nhưng bây giờ chị đã nhìn thấy biển trước mặt mình. Chị tự nhủ:
“Trăng lên rồi! " và mở to đôi mắt, chị nhìn sóng biển chợt hiện ra, lao xao. Bây giờ, hầu như chị đã quên phắt ngay lưỡi dao của thằng Xăm, quên mình đang bị trói, quên cả tên lính gác đang đi đi lại lại kia. Giờ chị chỉ trông thấy có mỗi mặt biển đang nhấp nhô sáng rộng ra đó, chị chỉ trông thấy cái ánh biếc ngời như tự lòng biển thắm đang xô dậy trên đầu các ngọn sóng đó. Vầng trăng mười tám ngoi lên, vàng rực. Rồi trăng treo cao lên mãi. Đến lúc màu trăng đọng lại vàng ối, Sứ liền thấy mặt trăng giống hệt trái xoài Hòn chín, không có cuống, treo lơ lửng giữa không trung xanh nhạt. 65 66 Đêm nay trời lặng. Sóng biển rì rầm như kể những chuyện không bao giờ hết. Thỉnh thoảng, gió biển tự ngoài khơi lùa qua bờ bãi, thổi vào hơi thở âm ấm mang vị muối. Tấm áo lụa mỏng ngắn tay của Sứ se se khô lại. Tóc chị rồi cũng dần dần được gió biển vuốt cho ráo đi. ánh trăng đổ tràn trên bờ suối, làm nổi rõ bóng Sứ đang quỳ, nổi rõ cây cọc nhú lên quá đầu chị độ một gang tay.
Lát sau, tóc Sứ chợt vờn nhẹ. Thế rồi mái tóc ấy bồng lên bay xõa theo chiều gió. Chẳng còn thấy đầu cây cọc kia đâu nữa. Chỉ có áng tóc tắm ánh trăng của Sứ đang bay lượn. Đêm càng khuya, gió thổi càng nhiều. Sứ không nhìn vầng trăng nữa. Chị ngoảnh về Hòn Đất đen sẫm một vòm, ở sát kề bên chị. Lòng chị rối bời lên vì không biết sự thể trong đó bây giờ ra sao. Có lẽ anh em đồng chí đều bị trúng độc cả rồi cũng nên. Đang khát lại gặp cà - om nước của Năm Nhớ đem về ai lại không uống! Trời ơi, anh em có biết đâu nước trong cà - om có thuốc độc. "Năm Nhớ ơi, chúng nó giết em rồi! " Sứ kêu lên trong lòng, và rùng mình nhớ lại ban nãy chính chị cũng đã định vốc nước đó lên uống. Nhìn xuống dòng suối đang loang loáng chảy xiết, Sứ giật mình sực nhớ lại quãng suối nước ban nãy hình như không chảy. Phải rồi, nước ở đó không chảy như ở đây. Chúng nó ngăn lại để bỏ thuốc độc mà! "Anh San ơi, anh ở ngoài đó có thấu không, tụi Mỹ - Diệm nó ác độc thế đó, anh có biết không? " Trong đêm thâu bàng bạc ánh trăng, chị Sứ gọi chồng mà nói. Chị nói với chồng từ xa, lòng đau đớn không ngờ mình lại nói ra những lời ấy tại lòng suối mà tám năm về trước đã có lần chồng chị đứng dưới khoát nước lên cho chị gội đầu. Rồi chính tay anh ấy cầm lược chải gỡ từng mớ tóc rối cho chị. Tại bên bờ suối này đây, chị đã từng có những phút giây sung sướng. Bây giờ thì trái ngược hẳn. Bây giờ, sợi dây dù buộc chặt đến đỗi từ bắp tay chị trở xuống đã tê đi không còn có cảm giác gì nữa. Lưng chị loi lói thốn đau vì cái báng súng thằng thiếu úy đánh chị ban nãy. Nhưng bây giờ cái làm chị khổ sở nhất vẫn là nỗi lo đang vò xé lòng chị. Chị lo cho mình thì ít mà lo cho anh em đồng chí trong hang, lo cho em gái và nhất là đứa con gái bé nhỏ thương yêu của chị.
Suốt đêm, Sứ mở mắt trao tráo. Vầng trăng lên cao đến đỉnh đầu, rồi khuất sau lưng chị, mà nỗi lo của chị vẫn không vơi. Gần sáng, mỏi mệt, Sứ ngoẻo đầu ngủ thiếp đi, trong lúc dòng suối bên dưới vẫn chảy, reo lên khe khẽ. Và gió biển khơi vẫn lùa vào, thổi bay tóc chị ra phía sau như những làn sóng... Sứ thiếp đi được một giấc dài. Lúc chị tỉnh dậy, trời đã rạng sáng. Bọn lính từ trong các lều vải kéo ra đứng đầy bên bờ suối. Thằng Xăm dẫn hai thằng Mỹ đi xồng xộc đến bên Sứ. Hắn đưa mũi giày nhắc cằm chị lên. Hai thằng Mỹ nhìn mặt Sứ chăm chăm rồi xì xồ nói với nhau bằng thứ tiếng của nó.
- Con Việt cộng này có đôi mắt ương ngạnh nhưng rất đẹp!
- Nói chung là nó đẹp! Bọn lính tập họp trên bờ đã bắt đầu lũ lượt lội ngang suối, qua bên kia. Hai tên Mỹ rời chỗ chị Sứ một cách tiếc rẻ, men xuống suối. Bọn lính biệt kích khom lưng cõng chúng lội qua. Thằng Xăm cũng quay đi, nhưng mới đi mấy bước, hắn quay lại nói với Sứ:
- Mày ráng quỳ đợi đó. Bữa nay, tụi tao vô hang xách cổ hết đồng bọn của mày về cho mà coi! Hắn nói và co co cánh tay buộc băng, bước xuống vệ suối. Một thằng lính đứng lom khom đợi sẵn, cõng hắn lên, lội sồn sộn. Hôm nay, thằng Xăm cũng đi. Chị Sứ ngoảnh nhìn bọn chúng kéo vào Hòn, lòng hồi hộp chờ đợi. Trên bờ suối bây giờ chỉ còn lại năm bảy tên lính vừa nấu cơm vừa coi chừng chị. Bọn lính ngồi bên bếp lửa mới nhóm, ngó chị Sứ, kháo chuyện với nhau:
- Tụi mình không dễ dầu gì kiếm được một con vợ ngộ như con nhỏ này đâu!
- ờ, đờn bà có nhan sắc mà theo Việt cộng, thiệt uổng!
Sứ nghe chúng nói, lấy làm khó chịu mà hơi tức cười. Chị làm thinh, ngước mắt nhìn ra biển. Trời đã sáng rõ. Hồi đêm, Sứ nhìn thấy những lạng sóng vàng lấp lánh ánh trăng, bây giờ trước mặt chị là những lạng sóng hồng, lao xao, rối rít. Màu tím nhạt trên bầu trời biển đã ngả sang màu hồng sen, phơn phớt. Buổi sáng mát rợi mở ra cho Sứ nhìn thấy tất cả những gì đêm qua chị còn chưa thấy rõ. Ban mai như kế tục cái đêm trăng thanh, òa vào lòng chị, an ủi thêm chị bằng những sắc màu của nó. Và chính nó đã cho chị nhìn thấy toàn cảnh Hòn Đất. Chị Sứ yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu đời, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da dẻ chị. Chính tại rẻo đất này, mẹ chị đã hát ru chị ngủ, và đến lúc làm mẹ, chị lại hát ru con những câu hát ngày xưa. Chính tại đây chị đã giơ nắm tay nhỏ nhắn lên chào lá cờ Đảng, nên từ đó chị càng biết yêu thêm cha mẹ, chồng con, anh em, đồng chí. Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng cái tình yêu hầu như là máu thịt. Chị thương ngôi nhà sàn lâu năm có cái bậc thang, nơi mà bất cứ lúc nào đứng đó chị cũng có thể nhìn thấy sóng biển, thấy xóm nhà xen lẫn trong vườn cây, thấy ruộng đồng, thấy núi Ba - thê vòi või xanh lam cứ mỗi buổi hoàng hôn lại hiện trắng những cánh cò. Có lẽ chưa lúc nào Sứ yêu Hòn Đất oặn lòng như buổi sáng hôm nay.
Lúc quỳ trước cái chết lại là lúc chị thấy yêu hơn sự sống, yêu hơn mảnh đất chôn nhau mà bình minh giờ đang trải ra một ngày mới. ánh nắng lên tới bờ cát, lướt qua những thân tre nghiêng nghiêng, vàng óng. Nắng đã chiếu sáng lòa cửa biển. Và xóm lưới cũng ngập trong nắng đó. Sứ nhìn những làn khói bay lên từ các mái nhà chen chúc của bà con làng biển. Sứ còn ngó thấy rõ những vạt lưới đan bằng sợi ni - lông óng ánh, phất phơ, bên cạnh những vạt lưới đen ngăm, trùi trũi. Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị. Nhưng tất cả những ánh nắng đó bất thần như động đậy lên cả một lúc. Một loạt súng nổ ran ở phía hang Hòn. Sứ giật mình ngoảnh lại. Súng nổ mỗi lúc một dữ dội. Chị nghe tiếng tiểu liên, tôm - xông bắn ngắt quãng và tiếng súng trường "bầm bầm" nhịp từng phát một. Bọn lính chạy ùa cả ra bờ suối ngóng về hang Hòn. Mắt Sứ vụt sáng rực. Ban đầu, chị ngờ là tiếng súng của giặc nhưng giờ thì chị nhận rõ là tiếng súng của anh em trong hang bắn ra. Chị lắng tai nghe thấy giữa những loạt súng nổ, dậy lên tiếng la chói lói, văng vẳng. Mừng quá, Sứ muốn tung cả sợi dây trói mà nhảy lên vỗ tay hoan hô thỏa mãn. Sứ sung sướng nghĩ:
“Vậy là anh em còn sống, còn chiến đấu... " Một thằng lính đứng trên bờ suối vọt miệng:
- Súng nổ "mững" này thì bữa nay thế nào cũng có khiêng về vài "con" nữa cho coi!
- Nè, sao nói tụi nó uống nhằm thuốc độc rồi?
- Biết đâu... Nói vậy chớ có khi tụi nó uống mà không chết. Khúc suối minh mông dài nhằng như vầy mà bỏ thuốc độc thì ăn thua mẹ gì! Thằng biệt kích vừa nói xong câu ấy chợt nhớ có mặt Sứ, nó quay lại hầm hầm nhìn chị, giơ ngón tay lên doạ:
- ??????, nói vậy chớ đừng có mừng nghe "em"! Thân "em" như con cá trê bị chặt ngạnh để trên thớt rồi... Sứ liếc nhìn nó muốn nói lại một câu. Nhưng chị nghĩ:
“Nói với nó chỉ uổng lời mình". Thật ra thì chị chẳng mừng cho thân chị đâu. Chị mừng đây là mừng trong hang vẫn nổ súng, nghĩa là anh em vẫn còn sống, còn chiến đấu, chớ không phải để tụi nó vô xách ra, như thằng Xăm vừa nói. Giữa lúc đó, tiếng súng trong hang bỗng im bặt. Rồi tiếng trung liên rội lên hàng tràng dài, không ngớt. Sứ biết bọn giặc đang bắn trả lại. Chị nghĩ bụng:
“Không lo, giỏi lắm thì cũng như ngày hôm qua hôm kia thôi! ". Lát sau, giữa tiếng súng hãy còn nổ giòn giã. Sứ bỗng ngó ra thấy từ trong vườn dừa nhô ra một tốp lính. Chúng khiêng những tên bị thương đi xồng xộc ra suối. Tốp lính bên này suối cũng vừa trông thấy. Thằng ban nãy nói:
- Thấy chưa tụi bây?... Tao đã nói rồi mà! Tên này vụt chạy xuống sát mé suối, hỏi to:
- ??????, thằng nào đó tụi bây? Bọn lính đang khiêng không trả lời. Chúng cố rị chân để xuống cái dốc thoai thoải. Tới bờ suối, chúng để đại bọn bị thương xuống cát. Trong số đó có một tên Mỹ đang chòi đạp và rống lên dữ dội. Tụi lính đưa tay vuốt mồ hôi, hổn hển.
- Đ. mẹ, trung úy nói tụi nó uống thuốc độc chết hết rồi... biểu tụi tao vô hang... Mới nhảy vô, tụi nó ở trỏng xổ ra, chết hết sáu thằng, còn năm thằng bị thương. Có một thằng Mỹ gần xí lắc léo rồi đây nè!
- Bộ tụi nó cũng vô hang sao?
- Không nó đứng ở ngoài xa, bị lạc đạn! Bên kia suối, tên Mỹ to lớn đang giãy giụa. Hai tay nó cào cấu, bươi bươi lớp cát. Hồi sau, nó không la rống nữa, chân đạp mạnh mấy cái rồi ngoẻo vật đầu sang một bên. Chiếc mũ ba rèm úp chụp lấy mặt nó, tối om om. Tên lính biệt kích cúi xuống để tay lên mũi tên Mỹ. Tên lính kêu lên:
- Nó chết rồi!
- Chết rồi à?
- Hết thở rồi. Tên biệt kích lặp lại với giọng thản nhiên. Nó đứng chàng hãng, hai tay chống nạnh nhìn xác tên Mỹ nằm im dưới đất. Một tên bên này bảo:
- ?????, khiêng nó đưa qua đây đi. Để nó nằm đó lát nữa bị "cạch" đa!
- "Cạch" mẹ gì, bộ có mình nó biết chết sao! Khiêng mấy thằng còn sống của mình qua trạm cứu thương trước đã! Bọn lính xốc khiêng bốn tên ngụy bị thương lội qua suối. Máu từ các vết thương của chúng nhểu giọt xuống suối đỏ loang. Lúc chúng khiêng ngang qua mặt Sứ, chị thấy rõ từng giọt máu rơi xuống cát, vấy thành hàng, dẫn rải theo gót chân của bọn lính đang khiêng. Xác tên Mỹ bên bờ suối rồi cũng được bọn lính đưa sang. Chiếc mũ ba rèm trụt khỏi gáy tên Mỹ, rớt lại giữa dòng suối, trôi cuốn đi. Sứ thấy lướt qua mặt mình một mớ tóc hoe hoe đỏ, xõa xượi và chiếc mũi khoằm khoằm nhô cao. Tiếng súng trong hang đã ngớt. Tâm linh Sứ bỗng như báo trước một điều gì ghê gớm sắp xảy đến. Chị chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chịu đựng. Lời nói của anh San chợt vẳng lên rất rõ bên tai chị:
“Chuyện gì mình có lường tính trước thì tới lúc xảy ra mình vẫn vững tâm hơn." Và Sứ bắt đầu thầm nói với chồng:
- "Được rồi, em sẽ làm theo lời anh, anh ơi! Bây giờ, em vững tâm lắm rồi... Chắc lần này em không còn gặp anh nữa. Vậy khi trở về, anh cũng đừng buồn. Em thương cho anh lắm, vì em biết bảy năm qua anh vẫn nhớ tới mẹ con em. Em biết ngày trở về không có em, chắc anh sẽ buồn nhiều. Tha lỗi cho em, nghe anh! Nhưng nếu còn con Thúy, thì anh hãy coi đó là sự đền đáp của tình em. Anh hãy nhìn con, tức là anh nhìn thấy em rồi... Tới giờ phút này, em cũng chưa biết con ra sao, nhưng em tin là con mình còn sống, vì các đồng chí trong hang đều còn nắm chặt tay súng..."
Sứ thầm nói và chị cảm thấy như có chồng đứng bên cạnh mình thực. Rồi chị thủ thỉ với mẹ và em gái:
- "Má, bây giờ má đương làm gì? Má đương dọn vườn hay cho heo ăn? Ba ngày rồi con không thấy mặt má... E con cũng không còn thấy má được nữa... Nếu con chết, má nuôi con Thúy cho con, nghen má! Má hãy coi con Thúy như là con Sứ của má hồi nhỏ. Vậy thì con cũng còn ở với má hoài chớ con không chết... Em Quyên ơi, em xây dựng với Ngạn là phải đó. Ngạn là một thanh niên tốt, một đảng viên tốt. Chị chắc không dự được đám cưới của em. Nhưng không sao, chị vui và tin rằng đời em đã sung sướng. Em ráng công tác, thay chị săn sóc má, săn sóc con Thúy. Em thương con Thúy nhiều nhiều cho chị, nghe em út!... " Thổ lộ câu này, Sứ cũng có cảm tưởng rằng mẹ và em gái đang nghe mình nói. Nhớ tới con Thúy, chị khẽ kêu:
- "Thúy ơi, con đừng chết, nghen con... " Và rồi chị âu yếm với con trong tưởng tượng, chị ôm ghì lấy đầu con mà vuốt ve, hôn hít. Nhưng đều là trong tưởng tượng. Quả nhiên, Sứ lường tính không sai. Việc chị ngờ đến đã đến. Giữa lúc chị còn mải mê âu yếm với đứa con trong trí tưởng thì mấy tên lính chạy từ trong hang Hòn về đến suối, lội gấp qua, chạy thẳng đến trước chị. Một thằng mở phăng sợi dây trói buộc ngang mình chị:
- Đứng dậy! Sứ tính đứng lên, nhưng đứng không được. Quỳ suốt đêm qua tới giờ, chân chị tê hết cả. Tên lính xốc tay chị lôi đi. Hai chân chị kéo lết trên sỏi. Xuống tới mé suối, chị vùng vằng:
- Buông tôi ra, để tôi đi! Tên lính buông tay chị. Sứ co co chân một lúc mới nhón đi được. Chị chậm rãi lội ngang quãng suối mà hồi đêm hôm chị đã lội qua. Đến bờ bên kia, một tên lính khoát tay chỉ vào hang Hòn. Rồi nó đi xốc lên trước. Tên lính đi sau nói:
- Nè, chị biết dắt chị đi đâu không?
- Không.
- Thiếu tá chỉ huy kêu đem chị vô trỏng đấy. Số mạng chị còn lớn lắm! Nghe tên lính nói, Sứ nghĩ:
“Nó tính làm gì mình? Chắc nó có âm mưu gì đây. Được, cứ để coi, làm gì thì làm, tụi mày vẫn là tụi mày, tao vẫn là tao... "
Hai tên lính dắt Sứ vào vườn dừa, đưa chị đến trước mặt tên thiếu tá chỉ huy hành quân. Tên thiếu tá này mặt xương, nước da đen nhánh. Hắn không đội mũ kết gì cả. Có lẽ hắn muốn chưng bộ tóc hớt kiểu tài tử, chải láng mướt, ốp sát vào gáy. Hắn nhịp nhịp trong tay một cái que gỗ đánh "vẹc - ni" nâu bóng loáng, ở đầu thanh que có bịt bạc (ấy là hắn bắt chước các tên tướng tay sai, hồi này đang bắt đầu có cái mốt ra trận không cầm súng mà cầm gậy chỉ huy). Cùng đứng với tên thiếu tá, còn có thằng Xăm và lũ biệt kích. Thấy Sứ, tên thiếu tá liền nhìn chị với đôi con mắt lấy lại vẻ nghiêm nghị. Hắn cầm thanh que, khẽ nhịp vào lòng bàn tay trái xòe ra. Sau một lúc ngắm nghía và nhoẻn một nụ cười gian giảo, hắn vẫn cứ nhịp nhịp thanh que vào lòng bàn tay:
- Cha, mặt mày coi sáng sủa như vầy mà lại theo Việt cộng à? Sứ day nhìn chỗ khác.
- Nghe nói cô có người chồng tập kết hả? Tôi biết ráo, tôi biết người ta khuyên cô nên cắt đứt với người chồng đó mà cô không chịu nữa. Vậy là cô tốt đó chớ. Đàn bà mà thủy chung là tốt! Sứ vẫn im lặng. Tên thiếu tá lại hào hứng nói:
- Cô không rứt bỏ người chồng tập kết, tôi cũng chẳng nói chi, có lẽ tôi còn khen cô nữa đó. Nhưng cô đi theo Việt cộng thì tôi không khen cô đâu. Đi theo Việt cộng là đi vô con đường chết... Sứ mỉm cười. Nụ cười của chị như nói:
“Mày không còn có chuyện khác nữa sao? Chuyện đó tụi mày nhai tới nhai lui tao nghe chán ra rồi, thôi đi!... ". Nhưng tên thiếu tá không chịu thôi. Trái lại, đứng trước Sứ hình như hắn muốn trổ tài. Hắn ba hoa một lúc về chủ nghĩa "nhân vị", về "đồng tiến xã hội", về lực lượng hùng hậu của "chính phủ quốc gia" do Ngô tổng thống lãnh đạo mà những người lính chiến như hắn là những người tiêu biểu. Cuối cùng, hắn kết luận:
- Cô đừng có trông đợi gặp người chồng cô cho mất công. Không có thống nhứt đâu. Còn chúng tôi và còn nước bạn Huê - kỳ thì ở đây không có thống nhứt gì ráo! Về điểm này, chị Sứ không nhịn được nên chị trả lời:
- Tụi Mỹ với mấy người thì tính như vậy, nhưng nhân dân thì tính khác. Nhân dân tính sớm muộn gì cũng tiêu diệt mấy người, để có thống nhứt! Nghe Sứ nói, tên thiếu tá trố mắt, cười hẹ hẹ:
- Tiêu diệt tụi tôi? Chừng nào mới tiêu diệt được tụi tôi? Hắn vung tay chỉ về phía miệng hang:
- Cô cứ coi kia, tụi đồng chí của cô trong hang cao lắm thì ngày mai cũng phải bò ra. Có mấy đứa với mấy cây súng quèn mà đòi tiêu diệt...
- Anh em tôi trong hang chưa bò ra đâu! Nụ cười gian giảo vụt tắt trên khuôn mặt thằng thiếu tá. Mặt hắn dần dần tái xám lại. Hắn im đi một lúc để nén cơn giận, rồi day qua hỏi bọn lính:
- Đem máy nói lại chưa?
Bọn lính bảo rằng máy nói đã đem ra, và dây điện cũng đã mắc xong. Tên thiếu tá khoát tay:
- Thôi, dắt nó đi! Bọn lính biệt kích của thằng Xăm đẩy chị Sứ chúi nhào về phía trước. Tên thiếu tá và thằng Xăm xồng xộc đi theo sau lưng. Một thằng thiếu úy tâm lý chiến mặt non choẹt, lấm chấm đầy mụn, tay cầm chiếc mi - crô đứng chực sẵn. Tên thiếu tá bước lên sát chị Sứ:
- Nãy giờ tôi nói chuyện hòa nhã với cô, bây giờ thì tôi nói chuyện cứng rắn. Nghe tôi hỏi đây, bây giờ cô muốn sống hay chết? Nếu cô muốn sống, tôi hứa bảo đảm cho sống, nếu muốn chết tôi sẵn lòng cho cô được chết trong nháy mắt. Cô trả lời đi, trả lời liền đi! Chị Sứ nhìn thẳng vào mặt hắn. Lát sau, chị nói:
- Sao tôi lại muốn chết? ở đời đâu có ai muốn chết! Nụ cười trở lại trên đôi môi của thằng thiếu tá:
- à, té ra cô cũng muốn sống... Hắn cầm thanh que trỏ về phía miệng hang:
- Dễ thôi. Chỉ cần cô cho tôi một câu: cô hãy nó với tụi trong hang rằng cô đã đầu hàng, và kêu tụi nó ra đầu như cô... Cô hãy nói rằng tụi tôi đối xử tử tế với cô, và sẽ đối xử tử tế với bất cứ ai bỏ súng xuống, đi ra khỏi hang... Được chớ? Tên thiếu tá dừng lại, chờ đợi. Trong lúc ấy, tên thiếu úy tâm lý chiến cầm cái mi - crô bước nhón tới, để cái mi - crô lên ngay trước mặt Sứ. Đồng thời, thằng Xăm cũng đã rút soạt lưỡi dao "cúp cúp" Mỹ đeo bên hông, bước thoắt đến đứng sát một bên Sứ. Tên thiếu tá chắp tay sau lưng, mắt dõi theo từng cử chỉ của Sứ. Hắn tin rằng chị sẽ khuất phục trước cái chết. Hắn tin chắc như vậy, vì thể theo bụng dạ của hắn, thì nếu lâm vào cảnh ngộ này, hắn sẽ còn làm hơn thế nữa để được sống. Vả chăng trước mặt hắn, chị Sứ là người phụ nữ, mà chị lại là một phụ nữ có nhan sắc, thì lẽ nào chị có thể cưỡng lại sự sống hay sao. Chính hắn, hắn còn tiếc thay, huống hồ là chị. Nhưng chị Sứ vẫn đứng yên, chị nhìn chiếc mi - crô lớn bằng bụm tay, mặt lỗ chỗ như tổ ong, bụng nghĩ nếu mình nói vào đây tất tiếng nói sẽ lớn hơn. Nhìn về phía miệng hang, chị biết rõ từng anh em lúc nào cũng có mặt ở đó, và nếu chị nói, anh em đều có thể nghe thấy cả. Tên thiếu tá sốt ruột, hất hàm hỏi:
- Sao? Chịu hay không, trả lời đi! Chị Sứ bước lên một bước, gật:
- Được, để tôi nói!
5
Trong hang anh em vẫn ghìm súng đợi. Sau lúc địch xộc vào rồi bị đánh bật ra, chúng không xộc vào nữa. Đã gần một tiếng đồng hồ rồi, địch không mở thêm một trận tấn công nào mới. Nhưng anh em vẫn ngó thấy chúng còn lố nhố, thấp thoáng qua lại trong vườn dừa, cho nên anh em vẫn ở nguyên chỗ cũ, súng không rời tay. Ngạn nói với anh Hai Thép:
- Sợ chị Sứ bị bắt hay bị tụi nó bắn chết rồi quá!
- Có thể là bị bắt. Hồi đêm đâu có nghe súng nổ!
Anh Hai Thép đáp thế và im lặng. Suốt đêm qua cho tới sáng nay, người lãnh đạo cuộc chiến đấu này bị đặt trước những sự biến không ngờ. Đêm qua, Năm Nhớ sau khi đưa cà - om nước về tới hang, liền ôm bụng kêu đau và một lát sau mặt cô tái nhợt, người toát đầy mồ hôi lạnh. Anh Hai sinh nghi, hỏi cô có uống vốc nước suối nào không. Cô đáp là có. Vừa đáp xong, cô liền ngã vật xuống. Anh Hai lập tức thọc tay chọc cổ cô. Năm Nhớ ói ra một bãi nước lõng bõng, vàng lè. Từ bãi ấy, xông lên một mùi nồng nồng rất khó chịu. Anh Hai Thép kết luận rằng địch đã đầu độc suối, chính Năm Nhớ đã uống phải vốc nước suối có thuốc độc rồi. Nhưng nhờ kịp thời làm cho Năm Nhớ nôn tháo nên cô nằm mê man một lúc thì tỉnh lại. Cái cà - om nước mà Năm Nhớ đem về lập tức bị đổ bỏ. Thế là trong hang vẫn ở trong cái tình trạng thiếu nước như cũ. Hơn thế, trong chuyến đi lấy nước, chị Sứ đã bị mất tích. Sứ không trở về, việc đó làm cho tất cả hang suốt đêm qua không ai ngủ được. Vào lúc nửa đêm, con Thúy giật mình thức giấc trên phiến đá, kêu:
“Má, má ơi! " rồi không có tiếng má nó đáp và ôm lấy nó như mọi khi, nó òa khóc. Quyên phải đến dỗ cho nó ngủ lại. Nhưng sáng ra thì con bé khóc thật sự, vì nó đi kiếm khắp hang mà chẳng thấy má nó đâu cả. Quyên phải nói dối nó rằng má nó đi công tác ra ngoài xóm. Việc chị Sứ đi lấy nước không trở về khiến cho cả hang hết sức lo lắng. Phải chi chính mắt họ trông thấy chị bị bắn chết thì sự việc cũng là rõ ra. Đằng này họ không biết cái gì đã xảy đến với chị. Đêm hôm qua, khi Trọng và anh Ba Rèn về tới hang, thấy thiếu Sứ, hai anh liền quay lại, nhưng không tìm gặp chị. Lượt sau, chính Ngạn xách súng cùng hai anh đi kiếm chị nữa. Họ mò mẫm, sờ soạng từng gốc dừa, ngờ rằng chị đang nằm mê man bất tỉnh cạnh một gốc dừa nào đó ở lối đi lấy nước, vì họ ngờ chị cũng có thể vốc nước suối mà uống như cô Năm Nhớ. Nhưng rồi cả Ngạn cũng thất vọng. Anh đã quần giáp khu vườn mà vẫn không thấy gì cả. Đêm hôm qua, có thể nói là một đêm mà cả hang thấp thỏm, lo âu. Mất chị Sứ, ai cũng cảm thấy như mình có lỗi, và lòng cứ dấy lên sự nhức nhối, hối hận. Ai cũng tưởng như chính mình phải gánh lấy trách nhiệm ấy. Dẫu rằng trong cuộc chống trả này, chị chưa trực tiếp cầm súng, nhưng chị đã lo cho họ từng miếng ăn, giọt nước. Có chị là có sự chăm sóc, có những bước đi nhẹ nhàng không động, có sự dịu dàng đưa cho, và là vì từ buổi lớn thành người con gái, chị đã để lại trong lòng họ nhiều tình thương mến. Cũng giống như dòng suối, lá cành, hoa quả, chị Sứ như thuộc về Hòn Đất, không tách ra được, chị thuộc về niềm hãnh diện của xóm làng, kể cả sắc đẹp lẫn tính tình. Hơn nữa, chị còn là tấm gương chung thủy, là một người phụ nữ ôm riết lấy cả xóm làng đó, bà con đó, mà vượt qua mọi điều thử thách. Anh Hai Thép lòng giày vò hối hận vì đêm qua đã để Sứ đi, mặc dù anh thấy rằng mình nghĩ như thế là không thể được. Trong chuyến đi lấy nước ấy, nếu không có chị Sứ thì là người khác, rốt cuộc cũng sẽ có một người gặp tai nạn.
Mà trong hang này bất cứ một người nào gặp tai nạn cũng đều gây ra tổn thất trong lòng anh. Tuy nhiên, việc không may xảy ra với chị Sứ làm cho người bí thư này bị bứt rứt, giày vò hơn. Nếu như trong những năm gian khổ, mọi người đều phải vất vả và chịu đựng, thì ở Sứ, chị còn cộng thêm sự vất vả khác mà mọi người không có: sự vất vả của người vợ trẻ có chồng tập kết. Cũng cách đây hai hôm, Sứ đã đưa cho anh xem lá thư của chồng từ miền Bắc gởi về. Anh còn nhớ rõ lúc đưa thư cho anh, mấy ngón tay của Sứ run quá, và anh thấy đôi mắt Sứ lúc ấy ánh lên nhiều hy vọng quá. Nhớ lần sau lúc chị bị bọn trên quận bắt, Sứ đã bảo với anh: - "Em không tiếc cho thân em đâu, rủi em có chết em cũng không tiếc, chỉ thương cho con Thúy, với lại em chết thì tội nghiệp cho anh Ba. Thống nhứt trở về không có em, thế nào ảnh cũng buồn nhiều. " Anh Hai Thép đã từng thấy trong những lúc cách mạng gặp khó khăn, có những người phụ nữ như thế. Họ muốn giữ mình được mãi mãi trọn vẹn là một đứa con gái yêu của Đảng, của cha mẹ, của quê hương.
Và đồng thời họ cũng cố sức giữ sao cho tấm thân mình được trinh nguyên, để khi đất nước thống nhất, họ vẫn dành cho chồng mình những điều hạnh phúc. Thật là không ai tin tưởng thống nhất và đấu tranh chờ đợi cái ngày ấy bằng họ. Trong số phụ nữ đó, nổi rõ lên trước mắt anh là Sứ. Đêm hôm qua, anh đã nghe con Thúy giật mình cất tiếng gọi mẹ. Suốt từ đấy, anh cảm thấy gánh nặng của cuộc chiến đấu như càng đè trĩu lên vai anh. Đến sáng, khi nỗi lo của anh chưa trút được thì súng lại nổ. Anh chạy ra miệng hang. Cũng như những lần trước, lần này anh em đã đánh bật chúng ra ngay tức khắc. Có điều hơi lạ là sáng nay chúng xộc vào hang rất táo bạo. Vì thế mà chúng nằm lại trước miệng hang cũng nhiều hơn. Phần đông chúng đều nằm lật ngửa. Có tên chưa chết, chân duỗi soàn soạt, kêu hồng hộc như heo bị thọc huyết. Cuối cùng rồi chúng cũng không còn kêu nữa. Từ bấy đến giờ, anh em đón đợi chúng đột nhập lần thứ hai, nhưng vẫn chưa thấy chúng động tĩnh gì. Từ khi rút, chúng chỉ quạt trung liên vào chớ không thấy bóng một đứa nào xông vào hết. Anh Hai Thép luôn nhắc:
- Phải luôn luôn sẵn sàng. Có thể tụi nó tính mưu kế gì mới! Nắng đã lên. Quyên đã đem túm gạo rang ra đi đến từng chỗ phân phát cho anh em. Những tên giặc trước hang đều đã chết hẳn. Chúng nằm im, phơi mặt dưới ánh mặt trời. Trong vườn dừa, bọn giặc đi qua đi lại, lóng ngóng, nhấp nhổm. Lâu lâu, chúng lại xổ vào miệng hang một băng trung liên. Rồi lại yên lặng. Có thể nghe thấy tiếng chim lại bắt đầu kêu chin chít, tiếng sóc chạy sột soạt trên các tàu lá dừa, và xa hơn là tiếng rì rào của sóng biển. Phút giây yên tĩnh này thật là căng thẳng, nó không cho mọi người nghỉ, cứ bắt mọi người phải để tay nơi cò súng. Và nếu những bóng xám đột nhiên lại xuất hiện ở cửa hang, thì sẽ không còn có chút yên tĩnh nào nữa. Súng sẽ nổ và những bóng xám sẽ quỵ xuống. Anh em cầm súng ngồi sau các hốc đá ngày càng tin chắc hơn, rằng bọn giặc không thể nào lại có thể tránh được những phát đạn của họ. Cửa hang như một khoảnh định rất chuẩn xác, chỉ cần họ bình tĩnh mà bắn thì thế nào họ cũng bắn trúng. Càng ngày cái hang càng lộ rõ lợi thế cũng như nhược điểm. Lợi thế ấy là địa hình phòng ngự vững chắc. Nhược điểm ấy là thiếu nước.
Chính vì vấn đề nước mà Năm Nhớ suýt chết, còn chị Sứ không trở về. Ngay bây giờ, ai cũng thấy cổ họng mình khô khốc. Sau lần chiến đấu, mồ hôi lại đổ, cái khát càng giày vò mọi người dữ hơn. Anh Ba Rèn cứ rít lên từng chập:
- Thiệt là quân chó đẻ! Tới suối nước mà nó cũng bỏ thuốc độc! Anh chửi luôn mấy câu rất tục, bất chấp sự có mặt của Quyên ở đó, rồi thề rằng tên giặc nào bây giờ mà nhảy vô mà anh bắn hụt nó thì anh không phải là con người. Anh lại cung tay đấm vô ngực mình, vật vã oán mình sao hồi đêm mình lại không đi cản hậu.
- Tôi cứ ngỡ là tụi tôi đi đầu, nếu có đụng tụi nó thì đụng trước.
- Cũng tại tôi, - anh Hai Thép nói. - Tại tôi không lường tới chỗ tụi nó bỏ thuốc độc. Đáng lẽ thì phải lường được hết sự hung ác của tụi nó, đằng này...
Chưa nói hết câu, chợt anh Hai dừng lại. Bên ngoài vụt có tiếng gì "rè rè" và tiếng loa phóng thanh đột ngột cất lên:
- A - lô! Nghe đây, nghe đây!... Tất cả đều nín im. Tiếng loa vọng vào hang ồm ồm:
- Quân đội Việt Nam cộng hòa loan báo cho các phần tử Việt cộng trong hang được rõ, cô Nguyễn Thị Sứ là đồng bọn với các người, nay đã lọt vào tay quân đội và đã quy thuận chánh nghĩa quốc gia. Sau khi đã quy thuận, nay cô Sứ có lời nói chuyện với các người... Tiếng loa ngưng lại. Máy nói kêu khọt khẹt. Trong hang, mọi người sửng sốt ngó ra. Nhưng họ không thấy gì cả. Bọn giặc đặt cuộc nói chuyện ấy ở một nơi mà tầm súng trong hang không thể bắn ra được. Cặp mắt người này nhìn người kia, như hỏi nhau rằng có cái tiếng loa ấy thật không, hay tai mình nghe nhầm. Không ai tin ở tai mình nữa. Nhưng sự thực là ai cũng nghe thấy. Không thể có sự ngộ nhận về tiếng loa ấy được. Lúc đó, Quyên mới vốc một vốc gạo rang định đưa cho Ngạn là người cô phân phối sau cùng, thì chợt nghe tiếng loa. Tay cô lẩy bẩy buông xòa vốc gạo đổ xuống lòng bàn tay Ngạn. Mặt cô tái hẳn lại. Cô đứng im, mắt mở to đầy vẻ kinh hoàng, môi dưới của cô giựt giựt luôn mấy cái, tưởng chừng như cô sắp òa lên khóc. Nhưng không, cô cắn chặn lấy môi dưới đang giựt giựt đó, hai bàn tay từ từ nắm lại, và vẫn đứng im. Cô lặng người đi mà đợi một sự việc ghê gớm xảy đến. Chưa bao giờ Ngạn thấy Quyên như thế. Chưa bao giờ anh trông thấy mặt Quyên hoảng sợ run rẩy đến tội nghiệp như thế. Bất giác Ngạn nhớ đến sự hiểu lầm của Quyên trước kia đối với anh, và anh tưởng như thấy lại được phần nào cái dáng dấp vật vã đau đớn của Quyên dạo nọ. Anh Hai Thép cau mày nhìn ra cửa hang. Anh cũng không nhìn thấy gì. Anh nghĩ:
“Rõ ràng là Sứ bị cưỡng ép, nhưng lẽ nào Sứ lại nghe theo sự cưỡng ép của tụi nó. Không, không bao giờ như thế... Nhưng biết đâu được... Cô ta còn trẻ, còn con nhỏ, còn mẹ, còn nhiều cái ràng buộc với sự sống. Nếu cô ta nghe theo tụi nó mà nói những lời phản bội thì thật hết sức tai hại. Chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt tới cuộc chiến đấu đang giữa lúc gay go. Nhất là Sứ, người mà ai cũng thương cũng quý. Lời nói của một người như Sứ giữa lúc này rất hệ trọng... " Tiếng khọt khẹt phát ra từ cái mi - crô kia đã dứt. Giọng nói ồm ồm của tên giặc giờ lại hăm hở sủa vào máy:
- Các người trong hang chú ý, chú ý! Đây, tiếng nói của chị Nguyễn Thị Sứ... Mọi người trong hang đều nhìn ra. Đây cũng là những phút giây chờ đợi căng thẳng, thử thách. Nhưng mọi người không phải đợi lâu. Ngoài kia đã vọng vào tiếng nói hết sức quen thuộc, ai cũng nhận ra ngay là tiếng nói của Sứ:
- Thưa các đồng chí, tôi là Sứ đây... Tiếp đó, bỗng chị vụt nói rất nhanh:
- Các đồng chí đừng tin, tụi nó nói láo, tôi không bao giờ đầu hàng. Các đồng chí ơi, đừng uống nước suối, đừng bỏ súng. Trong đó còn mạnh giỏi hết không, con tôi còn sống không? Nếu còn thì bắn một phát súng cho tôi mừng!... Mấy lời cuối cùng chị Sứ nói sao mà vội vã, sao mà dồn dập, khẩn thiết! Tiếng chị như gào lên trong máy, cấp bách, dữ dội. Mọi người trong miệng hang đều ngẩng mặt, đứng hết cả dậy. Trên những khuôn mặt ấy bỗng chảy ròng nước mắt. Anh Ba Rèn nhảy phắt ra giữa hang. Anh xoạc chân đưa khẩu ga - răng lên vai, bắn chĩa ra ngoài luôn ba phát "bầm, bầm, bầm"...
6
Nghe Sứ nói đến đấy, thằng thiếu tá tái mặt chửi lớn. Thằng Xăm thì co chân đạp chị ngã chúi xuống rồi nhảy lên người chị, giẫm đạp. Nhưng huyền diệu thay cho cái tiếng súng. Nó làm rạng rỡ khuôn mặt đang áp sát đất của Sứ. Hình như chị không hề bị đạp té. Chị sung sướng quá, chị mừng quá. Tiếng súng đã đáp lời chị, đáp lại hy vọng sau rốt mà chị hết lòng mong mỏi. "Như vậy là vẫn còn, vẫn còn sống! " chị nghĩ thế và gượng nhổm lên, nhìn vào hang Hòn. Đôi mắt chị mở to ngoái nhìn về cái hang ấy. Có thể là chị nhìn quá cái hang ấy. Trong đôi mắt có ánh vui mừng, ánh cháy bỏng, đau đáu. Đôi mắt đó lưu luyến không nỡ rời, ngập ngụa những yêu thương, những hy vọng, vừa mãn nguyện vừa căm oán, vừa sung sướng nhưng lại vừa mênh mông cái nỗi đau giã biệt. Cho nên đôi mắt đó vốn đã đẹp nay càng tuyệt đẹp. Tên thiếu tá hạ lệnh:
- Treo nó lên cây! Treo nó lên cây dừa ngã kia kìa, cho đồng bọn nó được ngó thấy! Ba bốn tên biệt kích xông tới, túm lấy Sứ, lôi Sứ dậy. Chúng dùng một sợi dây dài buộc thêm vào hai khuỷu tay đã bị trói của chị. Thằng Xăm co co cánh tay, dớn dác chạy tới ngắm nghía một cây dừa ngã xoãi chân trước mặt hang. Hắn nói:
- Treo nó lên! Hắn hất hàm sai một tên lính có đeo dao:
- Mày leo lên vạt một cái khấc để tròng dây cho khỏi tuột. Mau đi! Tên lính nghe theo lời thằng Xăm, leo lên. Leo được năm, sáu bước, tên lính rút dao chặt bồm bộp vào thân dừa. Thằng Xăm đứng dưới ngước nhìn. Khi tên lính đã chặt được một cái khấc quanh thân dừa thằng Xăm nói:
- Thôi, được rồi, xuống đi! Tên lính ném lưỡi dao, tuột xuống. Hắn vừa tuột xuống gần tới gốc thì thằng Xăm chộp mối dây buộc Sứ đưa cho hắn, bảo hắn leo trở lên mắc vào cái khấc mới vạt đó. Bọn lính giữ chặt lấy Sứ. Hai tên đứng đón mối dây sửa soạn kéo sểnh Sứ lên. Sứ nói:
- Tụi mày treo tao lên thì anh em tao ở trong hang có thể ngó thấy tao, nhưng anh em tao càng thêm căm thù tụi mày chớ không sợ tụi mày đâu! Lời nói của Sứ làm hai tên lính cầm mối dây ngần ngừ chưa kéo. Thằng Xăm tức giận nạt:
- Kéo! Hai tên lính giật mình kéo rị mối dây... Chúng còn ghì chân Sứ để chị không vùng vẫy được. Lúc chân Sứ đã bị kéo khỏi mặt đất, bọn chúng mới bỏ ra. Một tên không may bị Sứ xỉa trúng ngón chân vào mặt. Nó bưng mặt la lên:
- Đ. mẹ, con nhỏ này dữ quá! Sứ bị sợi dây kéo lên mỗi lúc một cao, lơ lửng, nghiêng nghiêng. Hai bắp tay trần trắng tươi của chị bị sợi dây rút ngược, tréo ngoặt... Đây là đôi tay đẹp đẽ và mát rượi. Đây là đôi tay làm lụng và vén khéo. Đôi tay này đã có khi rụt rè, đã nhiều lần âu yếm, đã có lúc run lên ôm lấy chồng, ôm lấy con, mẹ và em, cô bác và đồng chí. Nên đôi tay đó bị trói ngoặt trông sao mà tàn nhẫn, trông mà uất, mà thương. Sợi dây tàn bạo cứ kéo lấy đôi tay, lôi sểnh tấm thân mảnh khảnh. Trên tấm thân đó cái gì cũng mịn màng, từ mái tóc rủ gần tới gót chân, từ khuôn mặt tái đi vì đau đớn, từ bộ ngực căng căng sau lần áo lụa đen mỏng. Sợi dây tàn bạo kéo lên không trung người con gái xứ Hòn, người con gái miền Nam, đã một lần sinh hạ, ngóng trông, chung thủy. ở đây, trong lúc này, cái gì cũng tàn bạo. Từ đường dây đó, từ những tên giặc đứng bên dưới đó, ngoại trừ ánh nắng mặt trời và cây cối. ánh nắng xuyên qua lá dừa mà gội đẫm mái tóc tốt dày của Sứ, gội từ đầu đến chân Sứ. Và làn gió sang xuân, và hơi thở của biển.
Sứ vẫn phân biệt được làn gió man mác của đồng nội và hơi gió biển mặn mòi, âm ấm. Trong lúc đôi cánh tay đau điếng, trái sái, Sứ cố nhìn tới hang Hòn bị những tàu dừa che xõa. ại, sao làn gió không thổi rẹt những tàu lá nọ, để may ra vào những giờ phút quý báu này, chị có thể nhìn thấy những bóng người thương mến! Biết đâu chừng chị có thể nhìn thấy Quyên đang cõng con Thúy? Trời ơi, giá mà giữa lúc này chị được nhìn thấy con Thúy, dù là chỉ nhìn thấy nó một thoáng mà thôi! Trong phút chốc, Sứ nhớ lại đêm hôm qua. Chị nhớ đôi bàn tay bé bỏng của con bám riết lấy vai chị. Lúc rời phiến đá, chị đã dừng bước như thế nào, chị đã cảm thấy có một sức mạnh vô hình trì níu chị 99 100 lại như thế nào. Chị nhớ mình đã cởi áo đắp cho con. Phải rồi, đó chính là những phút giây sau rốt, gần nhất, giữa chị và con. Đó chính là cái mốc của tình mẫu tử, cũng như đêm rạng ngày anh San lên đường tập kết là cái mốc gần nhất của tình vợ chồng mà chị hằng ghi dấu. Sứ nhớ từ hai cái mốc ấy nhớ đi. Chị tự nhủ:
“Bữa nay, có lẽ mình chết. Nhưng mình chỉ thấy tiếc chớ không ân hận, mắc cỡ gì cả... Tới phút này đối với Đảng, mình vẫn y nguyên, như chị Minh Khai, như Võ Thị Sáu... nên từ phút này trở đi, mình cũng phải giữ được như vậy... " Bị treo lơ lửng giữa cây dừa lão ngã rạp, Sứ luôn chuẩn bị tinh thần kiên trì cho tới cùng. Nhưng chừng hai mươi phút trôi qua mà bọn giặc chưa đả động gì thêm. Thằng Xăm bỏ đi đâu một lúc, giờ mới quay lại. Hắn đứng bên dưới, ngước mắt, ngó chị lườm lườm. Rồi hắn rảo bước tới lui, vẻ nôn nóng như chờ đợi, một cái gì. Thằng thiếu tá thì nửa ngồi nửa nằm, lưng dựa vào một gốc dừa. Hắn cắn cái ống đót bằng ngà, nheo nheo mắt nhìn Sứ, qua làn khói mà hắn nhả ra không ngớt. "Nó tính làm gì mình nữa đây? " Sứ lại tự hỏi. Và chị lo sợ nghĩ đến một việc mà chị ngờ rằng bọn giặc có thể làm. "Trời ơi, nếu chúng đem má mình tới... Đừng... đừng, má ơi, má đừng tới đây! "... Sự hồ nghi của Sứ quả không sai. Khi chị mới ngờ và kêu lên trong lòng như thế, thì lúc ngoái nhìn ra sau, chị đã trông thấy mẹ. Bà mẹ đi giữa hai tên biệt kích. Vẫn cái dáng gầy gầy, hiền hậu, quen thuộc ấy. Vẫn chiếc khăn rằn đỏ vắt vai và bộ quần áo tơ dệt ngả màu. Nhưng không phải chỉ có mỗi mình mẹ. Đằng sau mẹ có tiếng ồn ào của đông đảo bà con và tên lính biệt kích cứ đi day lui, tay ghìm khẩu cạc - bin. Rồi một toán lính giăng ngang lối đi thành một hàng rào. Tên thiếu tá dụi dụi cái ống đót xuống rễ dừa, đứng bật dậy hỏi:
- Cái gì đó, cái gì mà họ la ó rần rần như vậy?
- Thưa thiếu tá, họ đòi thả bà già. Họ nói bà già không có tội gì, tại sao lại vô cớ bắt bả?
Tên thiếu tá bảo một tên thiếu úy đứng cạnh:
- Anh cho chặn họ lại. Không được để họ tràn lên, nghe chưa. Rồi hắn bảo tên Xăm:
- Dắt bà già đó lên cho bả giáp mặt với con bả đi! Thằng Xăm bước tới trước mặt mẹ Sáu, khoát tay chỉ về phía cây dừa treo Sứ:
- Con của bà nó cứng cổ lắm, nên nó đã bị treo lên kia kìa! Bà tới nói phải quấy cho nó nghe đi! ạng thiếu tá hứa nếu bà nói nó ưng chịu đầu hàng và kêu gọi tụi trong hang đầu hàng thì ổng cho hạ dây thả nó liền. Thằng Xăm nói chưa hết câu, mẹ Sáu đã dang tay vẹt mấy tên lính trước mặt, chạy nhào về phía Sứ. Sứ trông thấy đôi tay nghều ngào, mái tóc bạc trắng bay xõa của mẹ. Và chiếc khăn rằn đỏ trên vai mẹ chị rơi xuống đất. Còn mấy bước nữa đến chỗ Sứ, mẹ không đi được nữa, chân mẹ lóng cóng, khuỵu xuống. Nhưng mẹ nhổm lên, chạy tới. Cuối cùng, Sứ nhận ra đôi tay mẹ lập cập quàng lấy bắp chân chị. Liền đó, chị nghe sao bắp chân mình ướt nóng, giàn giụa. Tiếng mẹ chị bắt đầu nấc lên ở bên dưới, nghẹn tắt. Sứ mở to mắt, nhìn xuống mái tóc bạc phơ và đôi vai gầy của mẹ đang rung rung. Lòng đau điếng, Sứ ngoảnh nhìn nơi khác. Đôi mắt Sứ vụt đỏ hoe, không chớp. Nhưng Sứ cố nén, để nước mắt khỏi trào ra. Sứ muốn khóc, nhưng chị cưỡng lại. Chị không muốn để bọn giặc hiểu lầm một lần nữa, và để mẹ mình khỏi đau đớn thêm. Chị hồi hộp mong sao mẹ đừng thốt lên một lời nào, đừng nói một tiếng nào. Giữa lúc này, chị mong mẹ cứ im lặng, và thương chị mẹ hãy cứ ôm chị thế đó, như ngày nào chị còn bé dại. Nhưng chị cũng đã tính, nếu như vì quá thương chị mà mẹ lỡ nói với chị lời nói không phải, thì chị cũng không nghe theo đâu. Nhưng như vậy ắt chị sẽ đau đớn. Thật là chưa bao giờ, chưa có lần nào Sứ phải riết giữ lòng mình một cách quyết liệt như thế. Cũng chưa lần nào chị có cái cảm giác xao xuyến lạ lùng đến thế.
Đôi tay đó khuôn mặt đó giờ đang áp vào chân chị, truyền khắp người chị một tình yêu. Hơn cả con mình, mẹ Sáu còn oằn oại gấp bội. Hai mươi bảy năm đẻ con ra và nuôi con lớn lên, mẹ đã nặn vắt từng giọt sữa, chắt chiu từng tấm áo. Đôi chân thon thả treo lơ lửng này đây, chính mẹ là người trông thấy nó cất bước đi chập chững đầu tiên. Còn suối tóc mượt mà rủ xuống tới vai mẹ đây, chính mẹ cũng đã vuốt ve khi nó hãy còn lơ thơ bệt dính trên đầu. Rồi những tiếng ngọng nghịu, rồi những ngày mẹ lâm vào cảnh góa bụa, chính đứa con gái này đã cảm hiểu và đỡ đần cho mẹ nhiều nhất trong những năm tháng gieo neo. Mà lúc lớn lên, đứa con ấy nào có sung sướng gì cho cam! Nó lại cun cút nuôi con. Đời mẹ thế nào, đời con gái lớn mẹ cũng thế ấy. Một đứa con như thế mà lại phải dứt ra, mẹ Sáu không đau lòng sao được! Nhưng muốn giữ lấy con, mẹ càng không thể nói những lời bọn giặc buộc mẹ nói. Thiêng liêng hơn đứa con mang nặng đẻ đau đó còn cả xóm làng này, còn cả cái hang đang chống trả quyết liệt này. Thiêng liêng hơn đứa con của mẹ là cuộc cách mạng mà mẹ suốt đời tin tưởng và gắn bó.
- Bà già, bà nói đi! Nếu bà muốn cho con bà sống thì bà nói sao cho nó nghe đó thì nói! Thằng thiếu tá đứng bên lại nhắc. Đôi chân hắn rậm rịch cứ như giẫm lên ổ kiến lửa. Thình lình, Sứ bỗng thấy mẹ buông rời chân mình ra. Mẹ chị day qua phía thằng thiếu tá. Sứ nghe rõ từng tiếng mẹ mình nói:
- Con tôi lớn rồi, nó có trí khôn của nó... ý nó muốn sao xin cứ để nó liệu lấy! Nghe mẹ nói thế, Sứ chịu không nổi nữa, nước mắt chị trào ra, chảy ròng ròng. Chị vặn mình trên dây, la lớn:
- Cởi dây cho tao xuống, mau đi! Tên thiếu tá nhìn thằng Xăm, nháy mắt, thằng Xăm ướm hỏi:
- Sao, chịu rồi hả?
- Được rồi, mở dây cho tao đi!
- Sứ nói.
- Mở dây cho nó... tụi bây. Đem mi - crô lại đây!
Bọn lính tháo dây buộc nơi cái cọc cặm bên dưới. Sợi dây từ từ buông hạ Sứ xuống. Người chị nghiêng nghiêng trông chừng không thể đứng được. Bà mẹ giơ cả hai tay đỡ lấy con. Do đó, lúc chân Sứ mới chạm đất, thì đầu chị đã áp lên vai mẹ. Chị hôn khắp khuôn mặt nhăn nheo giàn giụa nước mắt của mẹ. Chị hôn gấp gấp và sau rốt chị chỉ nghẹn ngào thốt được một câu đứt quãng:
- Má, má... má nuôi con Thúy cho con nghe má!... Tên thiếu tá bước tới, tách bà mẹ ra khỏi Sứ. Hắn nói:
- Thôi, đủ rồi, bấy nhiêu đủ rồi! Hắn đưa hai tay chỉ về phía tên thiếu úy tâm lý chiến đang cầm cái mi - crô chực sẵn, bảo Sứ:
- Nói đi! Sứ hỏi:
- Nói sao?
- Nói như lần đầu tao biểu, kêu mấy thằng đó buông súng đầu hàng. Cứ vậy mà nói!
- Mở trói cho tao đi!
- Không. Nói rồi sẽ mở trói! Sứ không thốt thêm một lời nào nữa. Chị bước tới và nhanh như cắt, chị co chân đá thốc cái mi - crô trên tay thằng thiếu úy. Chiếc mi - crô văng bắn đi, lôi thốc theo cả sợi dây điện, lăn lông lốc. Tên thiếu tá kêu ré lên một tiếng như bị ai bóp cổ. Hắn nhảy tới, đấm túi bụi vào mặt Sứ. Bà mẹ xổ vào. Hắn vung tay gạt mẹ ngã quay lơ ra, la lớn:
- Xăm, chặt đầu con nhỏ này cho tao! Thằng Xăm rút soạt lưỡi "cúp cúp" sáng loáng, xông tới như một con thú. Hắn co thúc cánh tay bị thương sát vào bụng, vung dao lên chém mạnh vào gáy Sứ. Nhưng lạ quá, nhát dao đầu tiên đó mới chạm vào bỗng nẩy bật trở lại. Thằng Xăm chém tiếp hai nhát thiệt mạnh nữa. Đầu Sứ chỉ chúi giật tới trước. Cả ba nhát dao đều chém không đứt đầu chị. Thằng Xăm chùn tay, thở hồng hộc. Hắn liếc nhìn lưỡi dao, ngờ vực. Nhưng đây nào phải vì lưỡi dao Mỹ không bén! Đây tại bởi tóc chị Sứ dày quá. Đây chính bởi lưỡi dao chạm phải một suối tóc tốt tươi nhất, suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn ngàn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó rủ chấm xuống sát đôi gót chân bất khuất đó. Bà mẹ đã ngất đi trên bãi cỏ. Mãi khi hai tên biệt kích xông vào phụ lực, hè hụi chụp tóc Sứ kéo ngược ra phía trước, thì thằng Xăm mới chém được một nhát trúng gáy Sứ. Nhưng chị vẫn chưa chết. Thằng Xăm vung dao lên định chém nữa thì bỗng tên thiếu tá giơ tay ngăn lại:
- Thôi đừng, đừng chém, treo nó lên! Bọn giặc lại rút Sứ lên thân dừa. Tên thiếu tá hậm hực nói:
- Để nó ngoắc ngoải như vậy hay hơn. Để nó rên cho thấu tới tai tụi trong hang! ...
Sau khi chém đến dao thứ tư, thằng Xăm bỗng liệng dao, ôm vai lảo đảo đi tới bên gốc dừa. Hắn tựa lưng vào thân dừa, mở cúc áo ngực. Nơi bả vai bên trái của hắn, chỗ có buộc băng, thấy nhuộm đỏ máu. Không phải do ai đâm ai chém hắn, mà là vì hắn đã ráng quá sức để chém Sứ, nên vết thương của hắn bị chấn động, phá miệng và máu hắn mới ồng ộc tuôn ra thế đó.