Đường Tống bát đại gia
1 - Liễu Tông Nguyên - 柳宗元
Liễu Tông Nguyên, người Hà Đông, nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Ông đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ chín (793) đời Đường Đức Tông, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Thời Đường Thuận Tông, tập đoàn Vương Thúc Văn chấp chính, ra sức cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự; như bãi bỏ chế độ cung thị, bỏ chế độ tiến cống, thả cho nữ nhạc trong cung đình về nhà, trừng trị bọn tham quan ô lại và mưu lấy lại binh quyền từ tay các hoạn quan. Thế nhưng tập đoàn này, mà Liễu Tông Nguyên là một trong những nhân vật chủ yếu, chỉ chấp chính được hơn một trăm bốn mươi ngày, thì bị các thế lực “sắp bị tước mất quyền lợi” chống lại mãnh liệt, nên công cuộc cải cách sớm thất bại thãm hại và bị bức hại tàn khốc... Ngay sau đó, Liễu Tông Nguyên bị giáng chức làm Tư mã Vĩnh Châu (nay là Linh Lăng, Hồ Nam).
Năm 815, thời Đường Hiến Tông thứ mười, ông được bổ nhiệm làm Thứ sử Liễu Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Tây)và bốn năm sau (819), ông mất tại đó. Khi ấy, ông chỉ mới 47 tuổi.
Tác phẩm của Liễu Tông Nguyên hiện còn Liễu Hà Đông tập (Tập thơ văn của họ Liễu ở Hà Đông), 45 quyển, trong đó có 2 quyển Cổ kim thi (Thơ cổ kim) gồm khoảng 140 bài.
Quan điểm chính trị và văn học, Liễu Tông Nguyên có một số điểm giống Hàn Dũ (768-824)nhưng nhìn chung cấp tiến hơn. Vì tham gia cải cách triều chính, nhằm cải thiện đời sống dân chúng và hạn chế đặc quyền của hoạn quan và đại quý tộc, bị biếm làm Tư mã Vĩnh Châu.
Mười năm sống ở đây đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tư tưởng của ông. Do thấy rõ hơn sự thối nát sự thối nát của triều đình và cuộc sống khổ cực của nhân dân, ông đã viết được một số tác phẩm có giá trị.
Cũng như Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển văn xuôi của Trung Quốc, nhờ sáng tác của ông đa dạng, hiện thực và sâu rộng.
Riêng mảng thơ, đa phần thơ ông thiên về thổ lộ tâm trạng cá nhân trong những ngày bị biếm trích. Tuy có những nét ủy mị, buồn thương nhưng tình cảm thì chân thành, nghệ thuật thì điêu luyện. Bên cạnh đó, vẫn có những bài phê phán hiện thực khá trực tiếp hoặc miêu tả đời sống nhân dân tương đối chân thực như Cổ Đông môn hành (Bài hành cửa Đông xưa), Điền gia tam thủ (Ba bài thơ về nhà nông)
Trong thời gian mười năm bị giáng chức ở Vĩnh Châu, do bản thân bị bức hại, và do được quan sát hiện thực tường tận hơn, nên tác phẩm của ông không còn phù phiếm, cơ bản thoát khỏi qui củ văn chương thời Lục Triều.trở thành nhà tản văn có phong cách độc đáo trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Tản văn của ông phong phú, nhiều vẻ; trong đó những bài ngụ ngôn trào phúng và những bài ký sơn thủy là hai loại văn có nhiều tính sáng tạo nhất.
Có nghĩa từ những mẩu ngụ ngôn chỉ có tác dụng ví dụ trong tản văn chư tử thời Tiền Tần, ông đã phát triển thành những bài văn ngắn hoàn chỉnh có ý vị văn học, khái quát, trào phúng, hiện thực và có tính chiến đấu cao hơn.
Còn những bài ký sơn thủy của ông không phải chỉ tả thiên nhiên một cách thuần túy khách quan, mà còn để bộc lộ những nổi đau khổ, uất ức của mình.
Ngoài hai loại tản văn trên, văn truyện ký và văn luận thuyết của Liễu Tông Nguyên cũng có những thành tựu.
Về thơ, thơ ông phần lớn làm sau khi bị giáng chức, so với tản văn, thì nói nhiều về nổi đau thương lo buồn của mình hơn, phản ảnh tâm trạng của tầng lớp sĩ chính trực sau khi thất bại chính trị... Thơ ông trong sáng, đạm bạc, tinh tế, gần giống với phong cách của Đào Uyên Minh và Vi Ứng Vật
Ngư Ông
Liễu Tông Nguyên - 柳宗元
柳宗元
漁翁
漁翁夜傍西巖宿, 曉汲清湘燃楚燭。
煙銷日出不見人, 欸乃一聲山水綠。
迴看天際下中流, 巖上無心雲相逐。
Ngư Ông
Ngư ông dạ bạng tây nham túc
Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.
Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,
Ái nãi nhất thanh sơn thuỷ lục.
Hồi khan thiên tế hạ trung lưu,
Nham thượng vô tâm vân tương trục.
Dịch Nghĩa:
Ông lão thuyền câu ghé ngủ ở bên núi phía tây,
Buổi sáng múc nước sông Tương nấu ăn bằng tre Sở
Khói tan, mặt trời lên, không trông thấy có ai.
Chỉ nghe tiếng cái mái ch`o đánh vào mạn thuyên ở giữa chốn non xanh nước biếc.
Ngoãnh lại thấy trời cao ở giữa dòng sông.
Đầu núi mấy đám mây vô tâm trôi lững lờ.
Chú thích của Tản Đà: Hai chữ Ái nãi nghĩa là tiếng cái mái chèo đánh vào mạn thuyền.
-- BẢn dịch của Tản Đà --
Ông lão thuyền câu
Thuyền câu ngủ ghé non tây,
Dòng Tương, tre Sở sáng ngày nấu ăn,
Khói tan trời nắng vắng tanh,
Tiếng vang nước biếc non xanh một chèo.
Xuôi dòng ngoảnh lại trời cao,
Đầu non mấy đám mây theo lững lờ.
--- Bản dịch của Phụng Hà --
Mé núi tây, thuyền câu đêm đổ lại ,
Sáng thổi cơm, tre Sở, nước dòng Tương .
Khói núi tan, sông vắng ửng ánh dương ,
Non nước biếc, tiếng chèo lơi vỗ mạn .
Ngoảnh nhìn lại trời cao trên sông lặng ,
Mây vô tâm, đầu núi lửng lờ bay .
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Bờ tây núi ngư ông vừa thức
Sáng sông Tương lửa trúc nấu ăn .
Trời cao người vắng khói tan
Chèo khua nước biếc,thuyền sang non đoài .
Ngoãnh trông trời rộng sông dài
Đám mây đầu núi trôi hoài vẩn vơ .
-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn --
Hướng núi Tây…
buộc thuyền câu đánh giấc
Sáng nấu ăn…trúc Sở, nước sông Tương
Cảnh vắng hoe
Sương khói trốn ánh dương
Chỉ lõm bõm tiếng mái chèo khua nước
Ngoảnh trông lại giữa sông trời lộn ngược
Mây lững lờ qua đỉnh núi …. lang thang
Khê cư
Liễu Tông Nguyên - 柳宗元
Nguyên tác: Liễu Tông Nguyên
溪居
柳宗元
久為簪組累
幸此南夷謫
閑依農圃鄰
偶似山林客
曉耕翻露草
夜榜響溪石
來往不逢人
長歌楚山碧
Khê cư
Liễu Tông Nguyên
Cửu vi trâm tổ lụy,
Hạnh thử nam di trích.
Nhàn y nông phố lân,
Ngẫu tự sơn lâm khách.
Hiểu canh phiên lộ thảo,
Dạ bảng hưởng khê thạch.
Lai vãng bất phùng nhân,
Trường ca Sở sơn bích.
--Dịch nghĩa:--
Sống bên suối
Lâu ngày bị đai mũ bó buộc
May được biếm xuống nơi man rợ phương nam
An nhàn sống bên những người làm vườn ruộng
Ngẫu nhiên như khách ở núi rừng
Sáng sớm cày lật đám cỏ đọng hạt sương
Ban đêm chèo thuyền làm vang khe đá
Đi lại không gặp một ai
Tiếng hát ngân dài trong núi Sở biếc
-- Bản dịch của Khương Hữu Dụng --
Lâu ngày đai mũ trói ,
Đày xuống nam, càng khoái !
Vườn rộng thảnh thơi kề .
Bỗng như người khách núi .
Sáng lật cỏ sương cày,
Đêm chèo khe đá dội .
Lui tới chẳng gặp người ,
Hát ngâm non Sở mãi .
-- Bản dịch của Phụng Hà--
Lâu rồi vướng mũ quan ,
May được biếm về nam .
Nhàn kế dân đồng ruộng ,
Sống tựa khách sơn lâm .
Sáng cày, đất sương phủ ,
Đêm chèo, suối đá vang .
Trên đường người vắng bóng ,
Ca Sở vọng non ngàn .
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Lâu ngày đai mũ lụy thân
Phương nam đày biếm dị man chốn người
Cận kề vườn ruộng thảnh thơi
Ngẫu nhiên làm khách xa xôi núi rừng.
Sớm cày đám cỏ đọng sương
Đêm chèo nước vỗ lên tường đá khe
Đi về không gặp một ai
Hát bài ca Sở ngân dài non xanh.
-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn --
Lâu nay đai vướng lại trâm cài
Đày xuống phương Nam cũng được thôi
Thảnh thơi vườn ruộng nằm ngay cạnh
Đâu khác người nơi chốn núi đồi
Lật cỏ ướt sương khi cầy sớm
Khua chèo vọng vách đá đêm vui
Nơi đây vắng quá người đâu cả
Giữa Sở nghêu ngao vọng đất trời
Giang Tuyết
Liễu Tông Nguyên - 柳宗元
柳宗元
江雪
千山鳥飛絕, 萬徑人蹤滅。
孤舟簑笠翁, 獨釣寒江雪。
Giang tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu thôi lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
--Dịch Nghĩa--
Giữa ngàn non, chim bay tắt bóng
Trên đường muôn ngả, dấu người vắng tanh
Thuyền trơ trọi, ông già nón lá áo tơi
Một mình ngồi thả câu trong tuyết trên sông lạnh
-- Bản dịch của Tản Đà --
Nghìn non mất bóng chim bay,
Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không.
Kìa ai câu tuyết bên sông,
Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.
-- Bản Dịch của Tương Như --
Tuyết trên sông
Ngìn non, bóng chim tắt
Muôn nẻo, dấu người không
Thuyền đơn, ông tơi nón
Một mình câu tuyết sông
-- Bản dịch của Trường Tương Tư --
Thiên sơn hùng vĩ núi mây ngàn
Đông rét lạnh lùng tuyết lập sang
Ngõ vắng, người không ,chim khuất bóng
Sông sâu, thuyền một , sóng dờn loang
Áo tơi , câu thả , dòng xuôi mái
Tuyết rũ , nước cuồn , gió thoảng ngang
Muôn nẽo trời thinh ôm cảnh vật
Gợi buồn cho khách lúc chiều tan
--Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu--
Ngàn non mất dấu bóng chim bay
Muôn lối còn đâu vết gót hài
Thuyền vắng,áo tơi,đầu nón lá
Giăng câu sông tuyết một ông chài
登柳州城棲寄漳汀封連四州剌史
城上高樓接大荒
海天愁思正茫茫
驚風亂颭芙蓉水
密雨斜侵薜荔牆
嶺樹重遮千里目
江流曲似九廻腸
共來百越文身地
猶自音書滯一鄉
dịch nghĩa:
Lầu cao dựng trên thành như tiếp nối với miền đất bao la, bát ngát
Mối sầu cùng trời biển man mác, mênh mông
Gió mạnh làm tơi tả rối bời những đoá sen trên mặt nước
Những hạt mưa nghiêng nghiêng của cơn mưa rào hắt xuống bức tường trồng bệ lệ
Cây trên núi trùng điệp che khuất tầm mắt nhìn nghìn dặm
Sông chảy quanh co như chín khúc ruột uốn vòng
Chúng ta cùng đến đất Bách Việt của những người vẽ mình
Ðến giờ tin tức cũng vẫn còn trễ nãi ở một phương.
(Bài thơ này được Liễu Tông Nguyên sáng tác khi ông bị biếm khỏi kinh thành lần thứ hai, dưới triều Ðường Hiến Tông. Bốn vị thứ sử được nhắc tới là Hàn Thái, Hàn Tất, Trần Khiêm, và Lưu Vũ Tích. Tứ châu theo thứ tự của mỗi người là Chương châu, Ðinh châu, Phong châu và Liên châu. Liễu bị biếm đi Liễu châu, nơi ông làm bài thơ này. Tất cả những châu này đều nằm ngoài dãy Ngũ Lĩnh, nên được coi là phạm vi của Bách Việt. Xem thêm chú thích ở bài Hành Dương dữ Mộng Ðắc phân lộ tặng biệt, cũng được ông sáng tác trong giai đoạn này. )
Chú thích: bệ lệBệ lệ (tế lệ) là tên một loại cây thường mọc thành từng bụi.
Chú thích: Lĩnh thụ trùng già thiên lý mụcGiai thoại Việt Nam: Vọng xuân, xuân khả liên, lĩnh thụ trùng già thiên lý mục;
Bất quy, quy tiện đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm. Vế trước xuất xứ từ bài này, vế sau nằm ở bài Thu hứng (đệ nhất thủ) của Ðỗ Phủ.
Hán việt:
Ðăng Liễu Châu thành lâu, ký Chương, Ðinh, Phong, Liên tứ châu Thứ sử
Thành thượng cao lâu tiếp đại hoang,
Hải thiên sầu tứ chính mang mang.
Kinh phong loạn chiểm phù dung thuỷ,
Mật vũ tà khuynh bệ lệ tường.
Lĩnh thụ trùng già thiên lý mục,
Giang lưu khúc tự cửu hồi trường.
Cộng lai Bách Việt văn thân địa,
Do thị âm thư trệ nhất phương.
Dịch:
Lên lầu thành Liễu Châu, viết gởi cho bốn vị Thứ sử ở bốn châu Chương, Ðinh, Phong, Liên (Người dịch: Lý Tứ)
Lầu thành vòi vọi cõi hoang lương
Trời biển ngập tràn nỗi vấn vương
Tan tác phù dung vì gió loạn
Tiêu điều bệ lệ bởi mưa cuồng
Ngút ngàn cây núi nghìn trùng khuất
Uốn lượn sông dài chín khúc thương
Ðến xứ vẽ mình miền Bách Việt
Mõi mòn ngóng đợi chút tin sương
Last edited by tieu_thusinh; 15-06-2010 at 01:00 PM.
|