| 
		
	
		
		
			
			 
				
				Long Thành Cầm Giả Ca - Nguyễn Du.
			 
			 
			
		
		
		
			
			LONG THÀNH CẦM GIẢ CA 
 
Nguyễn Du 
 
龍城琴者歌 
 
小引 
 
龍城琴者。不知姓氏。聞其幼年從學  阮琴於黎宮花嬪部中。西山兵起。舊  死散。其人流落市廛。挾技以遨。屬  散部。所彈皆御前供奉曲。非外人所  。遂稱一時絕技。余少時。探兄抵京  旅宿鑑湖店。其傍西山諸臣大集女樂  。名姬不下數十。其人獨以阮琴聲擅  。頗能歌。作俳諧語。一坐盡顚倒。  賞以大白。輒盡。纏頭無算。金帛委  積滿地。余時匿身暗中。不甚明白。  見之兄處。短身闊臉。額凸面凹。不  麗。肌白而體豐。善修飾。淡眉濃粉  。衣以紅翠綃裳。綽綽然有餘韻。性  飲。喜浪謔。眼矐矐。眶中無一人。  兄家每飲輒盡醉。嘔吐狼藉。臥地上  。同輩非之。不恤也。後數載。余從  南歸。不到龍城若十年矣。今春將奉  北使。道經龍城。諸公辱餞于宣撫衙  。畢召在城女樂。少姬數十。並不識  面。迭起歌舞。繼聞琴聲清越。迥異  曲。心異之。視其人。顏瘦神枯。面  黑。色如鬼。衣服並粗布。敗灰色。  白補。默坐席末。不言亦不笑。其狀  不堪者。不復知爲誰何。惟於琴聲中  似曾相識。側然于心。席散。質之樂  。即其人也。嗟乎。是人何至此耶。  仰徘徊。不勝今昔之感。人生百年。  榮辱哀樂其可量耶。別後。一路上。  有感焉。因歌以托興。 
 
阮攸 (北行雜錄) 
 
龍城佳人 
姓氏不記清 
獨善阮琴 
舉城之人以琴名 
學得先朝宮中供奉曲 
自是天上人間第一聲 
余憶少年曾一見 
鑑湖湖邊夜開宴 
此時三七正芳年 
紅妝奄曖桃花面 
酡顏憨態最宜人 
歷亂五聲隨手變 
緩如疏風渡松林 
清如雙鶴鳴在陰 
烈如薦福碑頭碎霹靂 
哀如莊舃病中爲越吟 
聽者靡靡不知倦 
便是中和大內音 
西山諸臣滿座盡傾倒 
徹夜追歡不知飽 
左拋右擲爭纏頭 
泥土金錢殊草草 
豪華意氣凌王侯 
五陵少年不足道 
幷將三十六宮春 
活做長安無價寶 
此席回頭二十年 
西山敗後余南遷 
咫尺龍城不復見 
何況城中歌舞筵 
宣撫使君爲余重買笑 
席中歌妓皆年少 
席末一人髮半花 
顏瘦神枯形略小 
狼藉殘眉不飾妝 
誰知就是當時城中第一妙 
舊曲聲聲暗淚垂 
耳中靜聽心中悲 
猛然億起二十年前事 
鑑湖席中曾見之 
城郭推移人事改 
幾處桑田變蒼海 
西山基業盡消亡 
歌舞空遺一人在 
瞬息百年能幾時 
傷心往事淚沾衣 
南河歸來頭盡白 
怪底佳人顏色衰 
雙眼瞪瞪 空想像 
可憐對面不相知 
 
 
Phiên âm 
 
Long Thành Cầm Giả ca 
 
Tiểu dẫn 
 
Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm (1) ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ (3) điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ (9) nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng. 
 
 
Nguyễn Du (Bắc Hành Tạp Lục) 
 
Dịch Thơ 
 
Long Thành giai nhân 
 
Tính thị bất kí thanh 
Độc thiện Nguyễn cầm (1) 
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh 
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc 
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh 
Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến 
Giám hồ hồ biên dạ khai yến 
Kì thì tam thất chính phương niên 
Hồng trang yểm ái đào hoa diện 
Đà nhan hám thái tối nghi nhân 
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến 
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm 
Thanh như song hạc minh tại âm 
Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch 
Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm 
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện 
Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm 
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo 
Triệt dạ truy hoan bất tri bão 
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu 
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo 
Hào hoa ý khí lăng vương hầu 
Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo 
Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân 
Hoạt tố Trường An vô giá bảo 
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên 
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên 
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến 
Hà huống thành trung ca vũ diên 
Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu 
Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu 
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa 
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu 
Lang tạ tàn mi bất sức trang 
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu 
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy 
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi 
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự 
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi 
Thành quách suy di nhân sự cải 
Ki xứ tang điền biến thương hải 
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong 
Ca vũ không di nhất nhân tại 
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì 
Thương tâm vãng sự lệ triêm y 
Nam Hà quy lai đầu tận bạch 
Quái để giai nhân nhan sắc suy 
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng 
Khả liên đối diện bất tương tri 
 
 
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành 
 
Tiểu dẫn 
 
Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời. 
Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều. 
Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp. 
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng : 
 
Người đẹp đất Long Thành 
 
Không nghe tên họ 
Riêng thạo đàn Nguyễn 
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên. 
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2) 
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất. 
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần 
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến, 
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi, 
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào, 
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương, 
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu. 
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông, 
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm, 
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc, 
Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh, 
Người nghe say sưa không biết mỏi, 
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa. 
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo, 
Mải vui suốt đêm không biết chán. 
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng, 
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn. 
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu, 
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể. 
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân, 
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An. 
 
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm, 
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam, 
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại, 
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành. 
Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười, 
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi. 
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm. 
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ, 
Đôi mày phờ phạc không điểm tô, 
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời, 
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng. 
Tai lắng nghe mà lòng chua xót! 
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa 
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám. 
Thành quách suy dời, việc người đổi, 
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh. 
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch, 
Trong làng múa hát còn sót lại một người! 
 
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt 
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo 
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng! 
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn. 
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ 
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau! 
 
 
Bản dịch xuôi của Quách Tấn. 
 
Chú thích: 
 
(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế. 
(2) Tiền Triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn. 
(3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm. 
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan. 
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh năng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt. 
(6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê. 
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội. 
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ. 
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan Trấn thủ. 
 
 
Bản dịch thơ của Đặng Thế Kiệt 
 
Người đẹp đất Long Thành 
 
Tên họ chi ta không biết rõ 
Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm 
Khúc kia Cung Phụng nhất trần 
Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua 
Đã một lần thuở xưa gặp gỡ 
Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang 
Tuổi hai mươi mốt cô nàng 
Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng 
Theo ngón tay năm cung réo rắt 
Tiếng khoan như gió mát rừng thông 
Hạc kêu cao thẳm: tiếng trong 
Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ 
Buồn: Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt 
Người nghe say chẳng biết mỏi a 
Khúc đâu đại nội Trung Hòa 
Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên 
Mải vui suốt cả đêm không chán 
Hai bên người tranh cạnh thưởng tài, 
Tiền như bùn đất vãi rơi. 
Đào hoa ý khí vượt nơi vương hầu 
Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể 
Băm sáu cung xuân để mà coi 
Đúc chung vật báu trên đời 
Của kia vô giá đất trời Trường An 
Nay đã hai mươi năm tiệc ấy 
Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam 
Long Thành chẳng thấy tấc gang 
Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa 
Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát 
Đám ca cơ tươi mát xuân xanh 
Mà sao một mái hoa râm 
Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài 
Không điểm tô nét mày phờ phạc 
Ai biết từng đệ nhất tài danh 
Khúc xưa réo rắt dây đàn 
Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh 
Tai lắng nghe mà đành chua xót 
Hai mươi năm chuyện trước là đây 
Bên hồ chiếu tiệc mê say 
Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây 
Thành quách suy việc thay người đổi 
Bao nương dâu thành bãi biển xanh 
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành 
Trong làng múa hát còn đành một ai 
Một cuộc thế không đầy chớp mắt 
Cảm việc xưa lệ ướt áo này 
Từ Nam về tóc trắng mây 
Trách chi người đẹp tàn phai má đào 
Trừng trừng hai mắt nhìn nhau 
Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng 
 
 
Bản dịch thơ của Trần Nhất Lang 
 
BÀI CA NGƯỜI GẨY ĐÀN ĐẤT LONG THÀNH 
 
Gái Long Thành (1) không hay tên họ 
Giỏi Nguyễn cầm lấy đó đặt tên (2) 
Tiếng đàn như nhạc cõi tiên 
Khúc Cung phụng ấy của tiền triều xưa. 
Nhớ thuở trước Giám Hồ yến tiệc 
Tóc ta xanh đã biết tiếng nàng 
Ngây thơ đôi tám mơ màng 
Áo hồng, má đỏ lại càng dễ thương! 
Tay nhẹ lướt năm cung trầm bổng 
Tiếng khoan như gió thoảng ngàn thông 
Trong như tiếng hạc trên không 
Mạnh như tiếng sét đánh tung bia chùa; (3) 
Buồn như thể Trang xưa ngâm Việt (4) 
Khiến người nghe mải miết say sưa 
Vốn là khúc nhạc ngày xưa 
Trung Hòa Đại Nội để vua thưởng nhàn. 
Khi quân lính Tây Sơn tiệc mở 
Đã say như điếu đổ thâu canh 
Thưởng tiền, tả hữu đua tranh 
Bạc vung như nước cốt giành cuộc vui; 
Nét hào hoa vương hầu nào sánh 
Trẻ Ngũ Lăng có thấm vào đâu (5) 
Vẻ xuân hun đúc hạt châu 
Cầm ca chi bảo đứng đầu Trường An. 
Từ năm ấy đã tròn hai chục 
Tây Sơn tàn, ta được vào Nam 
Long Thành lâu chửa ghé thăm 
Người xưa múa hát thấy thầm trong mơ. 
Quan Tuyên Phủ vì ta khoản đãi 
Trong tiệc này có giải ca vui 
Đào nương xuân nữ đương thời 
Duy nơi cuối chiếu một người hoa râm, 
Mặt vàng võ, tấm thân bé nhỏ 
Môi không son, mày bỏ không tô 
Ai hay người ấy bây giờ 
Tài hoa đệ nhất ngày xưa một thời! 
Khúc cũ dạo, lệ rơi từng giọt 
Tai lắng nghe mà xót lòng ta 
Bỗng dưng nhớ chuyện đã qua 
Hai mươi năm trước Giám Hồ gặp nhau. 
Cuộc hưng phế, bể dâu mấy độ 
Thành đổi dời, người có khác chi 
Tây Sơn triều cũ còn gì? 
Còn chăng là một ca nhi tên Cầm! 
Cõi nhân thế trăm năm là mấy 
Cảm chuyện xưa áo tẩy dòng châu 
Từ Nam trở lại, bạc đầu 
Trách sao nhan sắc người đâu chẳng tàn. 
Gặp nhau không dám hỏi han 
Rưng rưng đôi mắt bàng hoàng xót xa. 
 
Chú Thích: 
 
(1)Long Thành: Thành Thăng Long cũ, nay là Hà Nội 
(2)Nguyễn cầm: Đàn nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra. 
(3)Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tô có khắc bài thơ chữ rất đẹp, bị sét đánh vỡ tan. 
(4)Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt. 
(5)Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm vua đời Hán, lớp hào hoa phú quí thường làm nhà ở đây và đám thanh niên sài tiền bạc rất rộng rãi. 
 
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn 
 
Người Gảy Ðàn Ở Thăng Long 
 
 
Nổi danh mỹ nữ Long Thành 
Người từ đâu đến, phương danh chẳng tường 
Tiếng đồn đàn Nguyễn khắp phương 
Tên cô nào biết, gọi thương Nàng Cầm 
Khúc xưa “Cung Phụng” nhập tâm 
Khảy người nghe ngỡ lạc lầm cõi tiên 
Khi xưa tôi đã hữu duyên 
Gặp nơi hồ Giám tiệc đêm một lần 
Nàng vừa hai mốt tuổi xuân 
Mặt xinh như mộng trong thân áo hồng 
Hây hây da thấm men nồng 
Tay nàng dạo phím, khách lòng ngẩn ngơ 
Tưởng thông giỡn gió vi vu 
Ngỡ âm tiên hạc vọng từ ngàn xa 
Ầm ầm đá tảng vỡ ra 
Tiếng buồn Trương Tích ngâm nga Việt lời 
Âm càng trói buộc chân người 
Khi nàng dạo khúc xưa nơi Trung Hòa 
Tây Sơn quan tướng say sưa 
Ngả nghiêng thụ hưởng vui đùa thâu đêm 
Chung quanh đua thảy bạc tiền 
Tặng nàng thưởng ngón đàn tiên tuyệt vời 
Vương hầu nhường vẻ ăn chơi 
Ngũ Lăng công tử kém nòi hào hoa 
Trong cung xuân thắm mượt mà 
Đâu thua báu vật giữa tòa Trường An 
Hai mươi năm bụi thời gian 
Tây Sơn mất nghiệp, trời Nam tìm vào 
Long Thành chẳng thấy được nào 
Nói chi đến chuyện lao xao ca đàn 
Hôm nay giữa chốn yến bàn 
Quan truyền ca múa bao nàng thắm xinh 
Duy người ngồi góc một mình 
Tấm thân nhỏ bé, tóc xanh úa mầu 
Không son phấn, mặt u sầu 
Ai nào ngờ đưọc từ lâu danh tài 
Khúc xưa khiến dạ bùi ngùi 
Càng nghe càng thấy rối bời ruột gan 
Đã hai mươi độ thu tàn 
Thuở bên hồ Giám nghe đàn nàng rung 
Thành rời, người cũ tứ tung 
Cuộc đời dâu biển chẳng ngừng đổi thay 
Nghiệp Tây Sơn đã xa bay 
Còn chăng sót lại người này mà thôi 
Cuộc trăm năm tủi phận người 
Áo nâng thấm lệ buồn rơi chán chường 
Ta giờ đầu bạc như sương 
Trách sao nàng chẳng sắc hương phai tàn 
Mắt đăm đăm giữa không gian 
Gặp nhau mà lạ ... ta, nàng dửng dưng
		 
		
		
		
		
		
        
		
		
		
		
		
	
	 |