Chương 13
Nhật ký của bác sĩ Seward
Chúng tôi quyết định hai ngày nữa sẽ tổ chức tang lễ cho cả Lucy và mẹ cô. Tôi bận lo mọi thủ tục giấy tờ. Các nhân viên nhà tang lễ có vẻ rất phục tùng ông chủ của họ, ngay cả bà già lắm lời chuyên làm công việc tắm rửa cho người quá cố cũng rất nhiệt tình với nhà đám. Khi bước ra khỏi phòng Lucy, bà ta còn tâm tình với tôi bằng một giọng rất nghề nghiệp :
- Ông thấy không, cô bé chết rất đẹp ma, được chăm lo cho cô ấv lúc này quả là một ưu tiên đối với chúng tôi. Nếu có nói cô ấy sẽ mang lại vinh hạnh cho công ty chúng tôi thì cũng chẳng phải là quá lời!
Trong suốt thời gian tôi bận công việc, Van Helsing không hề bước chân ra khỏi cửa. Chúng tôi không ai biết bà con họ hàng của người quá cố. Đã thế, ngày mai, Arthur lại phải về nhà để lo tang lễ cho người cha xấu số, vì vậy tôi và Van Helsing phải đứng ra lo mọi công việc tang gia và kiểm tra lại toàn bộ số giấy tờ có trong nhà. Giáo sư đặc biệt quan tâm đến số giấy tờ của Lucy. Không hiểu tại sao ông lại làm như vậy, bởi vì là một người nước ngoài, chắc gì ông đã hiểu hết các chi tiết của pháp luật hoàng gia Anh và cha biết chừng sự bỡ ngỡ của ông còn khiến chúng tôi rơi vào khó khăn trước các nhà chức trách địa phương nữa ấy chứ.
- Anh đã quên mất rằng - Ông đáp lại sự nghi ngờ của tôi - tôi làm tiến sĩ luật cũng tốt như làm bác sĩ. Mấy hôm trước, anh hoàn toàn đúng khí nói chúng ta cần phải tránh những cuộc điều tra phiền toái không cần thiết! Hơn nữa, vấn đề không chỉ dừng lại ở luật pháp, mà còn mở rộng sang cả khía cạnh khác. Biết đâu chúng ta lại chẳng tìm ra các giấy tờ... Chẳng hạn như...
Vừa nói ông vừa lôi trong sổ tay ra mấy tờ giấy mà Lucy luôn giữ bên mình, đó chính là mấy tờ giấy mà cô đã xé tan tành trong giấc ngủ mê mệt.
- Nếu tìm được viên công chứng nhà bà Westenra, anh cứ điền đầy đủ và gửi cho ông ta toàn bộ số giấy tờ có liên quan đi Về phần mình, tôi sẽ qua đêm ở đây hoặc ở trong căn phòng cũ của Lucy. Tôi định tìm hiểu thêm một vài vấn đề nữa.
Vậy là tôi lại phải tất tả chạy đi hoàn thành phần việc mà giáo sư đã giao cho. Nửa giờ sau tôi mới tìm ra danh tính và địa chỉ của viên công chứng nhà Westenra. Toàn bộ số giấy tờ của người phụ nữ đáng thương đã được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt là ý nguyện về nghi lễ tổ chức đám tang của bà cũng đã được thảo đâu ra đấy. Lúc tôi sắp xếp lại các giấy tờ cũng là lúc giáo sư Van Helsing bước vào phòng. Câu hỏi của ông làm tôi ngạc nhiên :
- Tôi giúp anh được chứ, anh bạn John? Tôi chẳng còn biết làm gì cả. Nếu có việc gì, anh cứ bảo tôi giúp một tay.
- Nhưng giáo sư đã tìm thấy gì mới chưa?
- Chẳng tìm thấy cái gì quan trọng cả. Tôi hy vọng là mình sẽ tìm ra một điều gì đó mới mẻ, nhưng rất cuộc vẫn chỉ là vài lá thư và một đoạn nhật ký. Tôi đã cầm cả dây rồi, nhưng tạm thời cứ để nguyên đấy đã. Chiều tối mai, tôi sẽ gặp anh chàng tội nghiệp ấy và nếu được phép, chúng ta sẽ sử dụng số giấy tờ đó.
- Anh bạn John ạ, - Giáo sư tiếp tục giãi bày sau một thoáng trầm ngâm - có lẽ bây giờ chúng ta có thể đi ngủ được rồi đấy. Tôi và anh cần phải đặt lưng ngủ một chút. Ngày mai sẽ có rất nhiều việc phải làm, còn tối nay, như thế là đủ rồi!
Tuy nhiên, trước khi đi ngủ, chúng tôi vẫn không quên ngó qua căn phòng cô bé Lucy đang yên nghỉ. Căn phòng đã được nhân viên nhà tang lễ biến thành một nhà thờ nhỏ đặt đầy những tràng hoa trắng. Không khí trong phòng có vẻ đỡ nặng nề và lạnh lẽo hơn. Khuôn mặt Lucy được phủ kín. bằng một mảnh vải lanh trắng. Chẳng hiểu sao giáo sư Van Helsing lại nhấc mảnh khăn ấy lên. Chúng tôi không khỏi bất ngờ khi nhìn thấy khuôn mặt người chết rạng rỡ hẳn lên dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến. Trong cái chết, Lucy bỗng trở lại với vẻ đẹp nguyên sơ từng có trước cái ngày cô lâm vào căn bệnh khó hiểu. Hàng giờ trôi qua kể từ khi cô trút hơi thở cuối cùng dường như chỉ càng làm cho cô trở về với vẻ đẹp của những ngày cô còn sống. Trông cô đẹp đến nỗi tôi không khỏi nghi ngờ là mình đang đứng trước một kẻ đã chết.
Trông giáo sư có vẻ suy nghĩ ngợi nghiêm trọng lắm. Ông không yêu cô gái như tôi đã từng yêu, và khóe mắt ông cũng chẳng ngấn đầy những giọt lệ như tôi.
- Cứ đợi tôi ở đây, - Ông bảo tôi - đừng có ra khỏi phòng đấy nghe chưa.
Lát sau, ông trở lại với một mớ hoa tỏi trên tay. Đó là những nhánh hoa tỏi ông đã cất vào trong một cái hòm sắt đặt ngoài hành lang. Ông khẽ cắm kèm từng bông vào giữa những bông hoa trắng đặt khắp phòng, nhất là ở xung quanh giường nằm của Lucy. Rồi ông nhấc cây thánh giá nhỏ bằng vàng nằm lấp dưới cổ áo cô đặt lên môi cô và nhẹ nhàng che lại tấm khăn trên mặt cô. Chúng tôi lặng lẽ bước ra ngoài.
Về phòng, tôi chưa kịp thay quần áo thì đã thấy Van Helsing đập cửa bước vào, ông bảo tôi :
- Chiều tối mai, tôi muốn anh mang cho mượn mấy dụng cụ mổ xác.
- Cái gì? Chúng ta phải mổ xác sao?
- Đúng và cũng không hẳn là như vậy. Đúng là tôi định làm phẫu thuật, nhưng không phải theo cách mà anh vẫn nghĩ đâu. Cứ để tôi giải thích, chỉ có điều anh phải tuyệt đối giữ bí mật, anh hiểu ý tôi rồi chứ? Tôi e rằng có lẽ chúng ta phải cắt đầu và thậm chí phải lấy trái tim cô ấy ra đấy. Sao? Anh không bị sốc đấy chứ, nhà phẫu thuật trẻ? Tôi đã chẳng thấy anh mấy lần phẫu thuật tim cho các bệnh nhân trong tình trạng chỉ mành treo chuông đó là gì? Phải can đảm lên, anh bạn John ạ? À, phải rồi! Thứ lỗi cho tôi nhé? Lẽ ra tôi không được quên là anh cũng yêu cô bé! Vậy thì tự tay tôi sẽ làm phẫu thuật, và anh chỉ phải hỗ trợ cho tôi thôi. Tôi định làm ngay tối nay, nhưng rõ ràng là không thể dược, bởi vì Athur vẫn còn có mặt ở đây. Tất nhiên là ngày mai, khi chôn cất cho cha xong, thế nào anh ta cũng sẽ quay trở lại để được thấy người yêu mình một lẩn nữa. Nhưng khi quan tài đã được đóng nắp và đợi mọi người đi ngủ cả rồi, tôi và anh sẽ quay lại mở mở quan tài để tiến hành phẫu thuật. Sau đó, chúng ta sẽ làm lại như cũ, miễn là đừng để ai nhìn thấy.
- Nhưng xin hỏi thật, chúng ta phẫu thuật để làm gì chứ? Cô bé tội nghiệp đã chết rồi, tại sao lại phải mổ xác một cách vô cớ như vậy? Có phẫu thuật cũng chỉ là vô ích nếu như nó chẳng mang lại một điều gì thiết thực cho người đã khuất, cho chúng ta, cho khoa học hay thậm chí là cho tri thức của loài người. Vậy thì mổ xẻ để giải quyết vấn đề gì kia chứ? Làm thế thì nhẫn tâm quá!
Giáo sư khẽ vỗ vai tôi và trả lời bằng một giọng chỉ vừa đủ nghe :
- Anh bạn thân mến ạ, tôi rất hiểu nỗi phiền muộn trong lòng anh và cũng rất thông cảm với anh. Tôi biết làm vậy sẽ khiến nỗi đau của anh càng sâu sắc thêm gấp bội phần. Tôi cũng đau lắm chứ. Nhưng còn nhiều điều anh chưa biết đâu, rồi anh sẽ sớm nhận ra những gì tôi chưa muốn nói, cho dù đó toàn là những đlều chẳng vui vẻ gì. John ạ, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi anh trở thành một người bạn thân thiết của tôi, vậy đã bao giờ anh thấy tôi làm bừa một việc gì đó mà không có mục đích thiết thực chưa? Tôi có thể nhầm lẫn, bởi nói cho cùng tôi cũng chỉ là một con người, nhưng tôi luôn tin ở những gì mình làm. Chẳng phải vì thế mà anh đã mời tôi đến đây đó ? Phải chứ! Và cũng chẳng phải là anh đã không ngạc nhiên hay nói đúng hơn là anh đã không bị sốc khi thấy tôi ngăn cản Athur ôm hôn người vợ chưa cưới của anh ta khi cô ấy sắp chết và lôi xềnh xệch anh ta ra xa cái giường đó ư? Phải! Nhưng anh cũng đã được thấy cô bé cám ơn tôi bằng một giọng nói yếu ớt và bằng cả đôi mắt tuyệt đẹp sắp vĩnh viễn khép lại, trong khi đôi môi cứ hôn mãi lên bàn tay già nua của tôi rồi phải không? Phải! Không phải là anh đã nghe thấy tôi thề sẽ làm theo đúng với những gì cô yêu cầu đó ư? Phải! Bởi thế nên bây giờ tôi đã có đủ lý do chính đáng để làm theo những gì tôi muốn. Vả lại, anh đã tỏ ra rất tin tưởng ở tôi trong ngần ấy năm rồi kia mà, anh cũng rất tin ở tôi trong suất những tuần đầy những chuyện kỳ quái vừa qua. Hãy tin tôi thêm một thời gian nữa đi, anh bạn John thân mến ạ. Nếu anh không chịu, tôi buộc phải nói ra tất cả những nghi ngờ của mình ngay bây giờ, chỉ có điều đó toàn là những lời anh không muốn thôi. Hơn nữa, nếu bắt tay vào việc mà không có sự tin tưởng trọn vẹn của anh bạn, xin lưu ý là dù anh có tin hay không thì tôi vẫn phải kiểm nghiệm xem mình đúng hay sai chắc chắn tôi sẽ phải tiến hành công việc trong một tâm trạng nặng nề và không thể tránh khỏi cảm giác đơn độc. Bởi vậy, tôi rất cần sự sự giúp đỡ tận tình và lòng can đảm của anh!
Ồng trầm ngâm một lát rồi nói tiếp :
- Hãy tin ở tôi đi, anh bạn John ạ, những ngày khủng khiếp nhất vẫn đang chờ đợi chúng ta đấy. Điều tôi cầu mong bây giờ là sao cho trong hai chúng ta, dù thế nào cũng chỉ cần một người thôi là đủ để thực hiện suôn sẻ những gì cần phải làm.
Tôi lặng lẽ nắm chặt tay ông như muốn hứa mình sẽ đặt trọn vẹn niềm tin ở ông giống như những ngày đã qua.
Tôi mở cửa tiễn ông về và đứng nhìn theo mãi cho tới khi bóng ông khuất hẳn vào căn phòng ông sẽ ngủ. Mải nghĩ, tôi bỗng giật thót người khi nhận ra một nàng hầu lùi lũi đi qua chiếu nghỉ cầu thang bước vào căn phòng Lucy. Cái bóng câm lặng của người đầy tớ làm tôi xúc động thực sự. Cô đã dũng cảm vượt qua tất cả nỗi sợ hãi, sự lạnh lẽo đến ghê người mà một thây ma có thể gây ra cho người đang sống, để chăm nom chiếc quan tài mà cô chủ nhỏ đang yên nghỉ, để cái xác tội nghiệp kia không phải chịu cảnh cô đơn trước khi đi về nơi vĩnh hằng...
* * * * *
Hẳn là tôi đã ngủ rất lâu và say lắm, vì khi Van Helsing vào phòng gọi tôi dậy thì ngoài trời đã sáng lắm rồi. Giáo sư bước lại giường bảo tôi, giọng chán nản :
- Đừng mang dụng cụ mổ đến nữa. Tôi không muốn làm nữa đâu.
- Sao vậy? - Tôi sửng sốt trước sự thay đổi bất ngờ của ông.
- Bởi vì, - như thường lệ, giọng ông vẫn rất nghiêm trọng sau hàng loạt sự kiện khó hiểu những ngày qua - bởi vì đã quá muộn... hoặc là vẫn còn quá sớm!
- Anh hãy nhìn đi? - Vừa nói ông vừa giơ cây thánh giá nhỏ bằng vàng cho tôi xem. - Đêm qua đã có kẻ lẻn vào lấy trộm nó.
- Sao lại lấy trộm... được. Nó vẫn đang sờ sờ trên tay ngài đó thôi?
- Tôi đã giành lại cây thánh giá này từ tay một kẻ bất hạnh, một người đàn bà lấy trộm của cả người sống và người đã chết. Chắc chắn cô ta sẽ bị trừng phạt, nhưng tôi sẽ không dính dáng gì đến chuyện ấy. Cô ta không biết mình đã làm gì, cô ta chỉ là thủ phạm của một vụ trộm. Đơn giản thế thôi?
Dứt lời, ông lẳng lặng bỏ ra ngoài. Nhiều chuyện quá? Tôi biết mình có cố tìm cách làm sáng tỏ bí ẩn mới này cũng vô ích.
Buổi sáng hôm nay sao mà sầu thảm và lê thê đến thế! Tuy nhiên, vào buổi trưa, viên công chứng cũng đã có mặt: đó là Marquand, một người đàn ông trông rất tử tế của văn phòng luật sư Wholeman. Ông cảm ơn chúng tôi về tất cả những việc chúng tôi đã làm. Toàn bộ những thủ tục cuối cùng và các chi tiết nhỏ nhặt nhất sẽ được ông hoàn tất nốt theo đúng tư cách pháp nhân của mình.
Vào giờ ăn trưa, ông nhắc chúng tôi rằng trước khi chết, bà Westenra đã định đặt đâu ra đấy toàn bộ công việc của gia đình, ông cũng thông báo cho chúng _tôi biết vì không trao được quyền sở hữu cho người cha của Lucy, và vì không tìm được người con cháu trực hệ nào của gia đình, nên toàn bộ số của cải, bất động sản của bà sẽ được dành cho Athur Holmwood. Viên công chức cố giải thích thêm :
- Thực ra mà nói, chúng tôi đã cố ngăn cản thân chủ của mình đưa ra các điều khoản chúc thư như vậy. Chúng tôi đã lưu ý với bà Westenra rằng có thể sẽ xảy ra những chuyện không thể lường được khiến cho cô con gái bà rơi vào tình trạng không một đồng xu dính túi, hoặc sẽ cản trở quyền quyết định của nó vào cái ngày tổ chức đám cưới. Mọi việc giữa chúng tôi và thân chủ bỗng trở nên tồi tệ đến nỗi bà đã nổi cáu mà hỏi chúng tôi cố định quan tâm đến việc thực hiện các ý nguyện cuối cùng của bà hay không. Rõ ràng chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác hơn là im lặng chấp nhận. Nhưng về nguyên tắc mà nói thì chúng tôi vẫn có lý đến chín mươi chín phần trăm, bởi theo lôgích của các sự kiện, chúng tôi có thể chứng minh được lời tư vấn của mình. Tuy nhiên, tôi cũng phải thừa nhận rằng trong trường hợp cá biệt này, mọi hình thức chúc thư khác đều không thể thực hiện được các ý nguyện của bà. Bởi vì theo lôgích, bà sẽ phải ra đi trước cô con gái và cô con gái sẽ được thừa hưởng toàn bộ của cải và bất động sản. Ấy vậy mà cô gái chỉ sống lâu hơn bà mẹ được chốc lát và chẳng thấy để lại một di chúc nào, việc kiểm tra cho thấy rõ điều này nên có thể coi đây là trường hợp một người chết không lập di chúc. Như vậy, huân tước Godaiming, mặc dù là một người bạn rất thân thiết và đồng thời cũng là người chồng chưa cưới của cô gái trẻ, sẽ tuyệt đối không có một quyền lợi gì. Có lẽ những người thừa kế, dù là những người đang ở xa xôi, cũng sẽ không chịu nhường cho một người xa lạ vì những lý do tình cảm. Họ là những người trở về hợp pháp. Các ngài cứ tin ở tôi, đây là một lập luận khiến tôi hài lòng thực sự.
Marquand hẳn phải là một công chứng viên xuất sắc, nhưng không hiểu sao ông lại thấy vui trước những chi tiết ấy - những chi tiết mà nghề nghiệp luôn buộc ông phải chú ý khi kẻ bất hạnh đang đứng trước một thảm kịch. Đây quả là một ví dụ cứng nhắc và thiếu sự cảm thông mà chúng ta vẫn thường gặp ở một số người.
Viên công chức chỉ nán lại với chúng tôi một lúc rồi ra về với lời hẹn sẽ quay trở lại vào buổi chiều để gặp huân tước Godalming. Dù sao thì sự có mặt của ông cũng ít nhiều an ủi được chúng tôi, vì ông đã mang lại cho chúng tôi một cảm giác yên tâm về những gì mình đã làm kể từ khi bà Westenra và cô Lucy qua đời.
Chúng tôi đợi Athur đến năm giờ chiều. Trước đó một chút, chúng tôi còn ở trong nhà tang. Tôi gọi vậy là vì bây giờ cả hai mẹ cơn bà Westenra đều an nghỉ trong đó. Nhân viên nhà đòn hôm nay có vẻ nhiệt thành hơn thường lệ. Khung cảnh sầu bi trong căn phòng nhỏ khiến chúng tôi ngập chìm vào một cảm giác tê tái không chịu nổi. Van Helsing yêu cầu nhân viên nhà đòn phải đặt mọi thứ trong phòng trở lại nguyên trạng trước đó. Ông nói huân tước Godalming sắp đến nên việc được thấy duy nhất người vợ chưa cưới của mình ở đây sẽ làm anh ta đỡ đau đớn hơn.
Tay nhân viên nhà tang lễ vờ làm ra vẻ ân hận với hành động ngớ ngẩn của mình rồi bắt tay ngay vào công việc theo yêu cầu của vị giáo sư. Khi Athur có mặt, căn phòng đã được trả lại nguyên trạng như tối hôm qua chúng tôi đã làm trước khi đi ngủ.
Thật tội nghiệp cho Athur! Trong tâm trạng tuyệt vọng tột độ vì những nỗi đau nối tiếp nhau, dường như anh ta không còn là chính mình nữa. Tôi hiểu anh rất yêu cha mình. Việc mất cha đối với anh vào lúc này chẳng khác nào một cú đòn trời đánh. Anh đã chứng tỏ cho tôi thấy thế nào là tình bạn và đối với Van Helsing. Anh luôn thể hiện mình là một người lễ phép và mạnh mẽ, nhưng tôi thấy dường như nỗi đau đã biến anh thành một người gần như mất hết sự tự chủ. Chắc chắn giáo sư cũng có chung một cảm giác như tôi, bởi ông vừa khoát tay ra hiệu cho tôi cùng vào với chàng trai khốn khổ. Tôi không định nghe lời giáo sư vì nghĩ rằng có lẽ lúc này Athur chỉ muốn vào một mình với cô vợ chưa cưới Lucy. Nhưng khi thấy tôi định bước ra khỏi cửa, anh đã vội túm tay tôi kéo vào.
- Cậu cũng yêu cô ấy, anh bạn ạ. - Anh nghẹn ngào nói. - Cô ấy đã kể cho tôi nghe tất cả, trong đám bạn bè, cô ấy chẳng có ai thân thiết hơn cậu. Tôi thật chẳng biết làm gì để tạ ơn cậu vì những gì cậu đã làm cho cô ấy. Cả bây giờ nữa, tôi cũng không thể...
Athur bỗng bật khóc với những tiếng nấc không ngớt, anh ôm choàng lấy bờ vai tôi mà thổn thức :
- Trời ơi? Jack ơi, Jack? Rồi tôi sẽ ra sao đây? Thế là mất tất cả rồi, tôi còn biết sống trên đời làm gì nữa.
Dù biết mọi lời nói trong lúc này đều là vô ích, nhưng tôi vẫn cố lựa lời an ủi anh. Một tay nắm chặt lấy bàn tay, một tay đặt lên bờ vai run run của một nỗi lòng tan nát, một tiếng nấc không thể cầm lòng hòa cùng những tiếng nấc ai oán, đó là tất cả những gì trái tim đã bảo tôi phải làm để chia sẻ và vỗ về người bạn đau khổ. Đợi những tiếng nấc trong anh thưa dần, tôi mới dám khẽ nhắc :
- Nào, ta vào thăm cô ấy đi!
Chúng tôi lại gần giường người quá cố và khẽ lật tấm khăn phủ mặt sang một bên. Chúa ơi, sao mà cô đẹp đến thế! Dường như mỗi giờ đồng hồ trôi qua là một lần cơ trở nên xinh đẹp hơn trước. Điều đó không chỉ làm tôi ngạc nhiên mà còn làm tôi thấy sợ nữa. Về phần Athur, tôi thấy dường như sự ngờ vực, nỗi phiền muộn đã làm anh điên đảo, người anh bắt đầu run lên bần bật như một kẻ bị sốt rét. Cuối cùng, sau một hồi im lặng, anh ghé vào tai tôi hỏi nhỏ :
- Jack, có đúng là cô ấy đã chết rồi không?
Tôi buộc phải khẳng định với anh về sự bất hạnh của cô bé, bởi tôi biết cảm giác nghi ngờ của anh dù thế nào cũng chỉ có thể kéo dài trong giây lát. Tôi giải thích để anh hiểu rằng thông thường, con người ta sau khi chết, các nét trên khuôn mặt sẽ mang một sắc thái vừa dịu hiền vừa phảng phất một diện mạo gợi lại thời trẻ trung, và điều này càng được thể hiện rõ hơn đối với những người phải trải qua những đau đớn tột độ kéo dài trước khi chết. Có vẻ như cách lý giải của tôi đã thuyết phục được anh. Sau một hồi lâu quỳ gối bên giường ngây người ngắm nhìn người vợ chưa cưới, anh định đứng dậy bước ra ngoài. Tôi phải nói với anh rằng đã đến lúc nói lời vĩnh biệt cô bé, vì người ta sắp sửa đặt cô vào quan tài. Nghe vậy, anh thổn thức quay lại nắm chặt bàn tay bé nhỏ của người yêu đặt lên môi và cay đắng cúi xuống hôn lên trán cô. Cố gắng lắm anh mới lê được đôi chân ra khỏi phòng, nhưng đầu vẫn ngoái lại nhìn hình hài thân thương của cô gái một lần cuối, cho tới khi bóng cô khuất khỏi tầm mắt.
Tôi dìu anh về nghỉ ở phòng khách rồi vội vàng đi tìm gặp Van Helsing khi ông đang kêu đám nhân viên nhà đòn chuẩn bị nhập áo cho những người xấu số.
Tôi kể lại cho giáo sư nghe chuyện Athur đã thắc mắc như thế nào về diện mạo của người vợ chưa cưới của anh.
- Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào cả. - Ông nói với tôi. - Chính tôi cũng đã có lúc không tin ở mắt mình nữa là?
Trong bữa tối, tôi để ý thấy Athur đã rất cố gắng giấu đi nỗi đau xé lòng của mình. Van Helsing chỉ ngồi im, mãi tới khi chúng tôi ngồi châm thuốc, ông mới lên tiếng với Athur :
- Thưa huân tước...
- Không, đừng gọi tôi như thế, lạy Chúa! - Athur ngắt lời - Dù thế nào cũng đừng gọi tôi như thế! Xin lỗi, thưa ngài, tôi không định làm ngài phật ý. Nhưng xin hãy hiểu và tin ở tôi, đám tang nhà tôi chỉ vừa mới...
Van Helsing đáp lại bằng một giọng chùng hẳn xuống :
- Tôi gọi vậy chẳng qua là vì không biết nên xưng hô như thế nào với cậu cho phải... Thực ra tôi đâu có thích gọi cậu là “ngài”, bởi vì cho tới lúc này, tôi đã rất, rất mến mộ cậu, chàng trai ạ. Đối với tôi, cậu luôn là Athur.
Athur kính cẩn đưa tay về phía người bác sĩ già :
- Xin ngài cứ đặt cho tôi một cái tên tùy thích, nhưng dù là tên gì thì tôi cũng hy vọng ngài luôn coi tôi như một người bạn. Thú thực đã nhiều lần tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với ngài nhưng vẫn không biết giãi bày ra sao. Ngài đã hết lòng vì người thân của tôi! - Athur im lặng một lát rồi tiếp tục - Tôi biết cô ấy sẽ hiểu tấm lòng của ngài hơn tôi, nếu như lúc này tôi không biết cách xử sự cho phải phép thì... Xin ngài thứ lỗi cho.
Câu trả lời của Van Helsing một lần nứa chứng tỏ sự cảm thông thực sự của ông.
- Tôi biết - Giọng ông đều đều và chậm rãi - rất khó để anh hiểu và tin tưởng hoàn toàn ở tôi, bởi để tin tưởng ở nhau, trước hết người ta phải hiểu nhau. Tôi cho là cậu đã không... hoặc đúng hơn là chưa tin ở tôi, vì cậu chưa hiểu tôi. Tuy nhiên, vẫn còn những tình cảnh tôi rất cần lòng tin của cậu, nhưng cậu lại không hiểu hoặc chưa thể hiểu nổi! Song thời gian cứ thế trôi qua, cuối cùng thì cậu cũng sẽ tin tưởng hoàn toàn ở tôi, khi mà cậu đã hiểu mọi điều rõ như ban ngày. Vậy thì thế nào cậu cũng sẽ cầu chúc cho tôi về những hành động mà tôi đã làm vì lợi ích của cậu, của người khác và của đứa con khốn khổ mà tôi đã thề là sẽ hết sức bảo vệ tới cùng.
- Cớ chứ, có chứ, - Athur đáp lời - tôi sẽ hoàn toàn phó thác cho ngài. Tôi biết ngài đang mang trong mình một trái tim hào hiệp, và ngài là bạn của Jack cũng như ngài và Jack là bạn của cô ấy. Ngài sẽ hành động theo đúng bổn phận mà ngài tin là của ngài.
Sau một hồi nghĩ ngợi, Van Helsing trầm ngâm nói tiếp :
- Tôi có thể hỏi cậu một câu được không?
- Tất nhiên là được.
- Cậu có biết là bà Westenra đã để lại cho cậu toàn bộ số tài sản mà bà ấy có không?
- Không. Tội nghiệp bà! Không... Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới điều đó.
- Bây giờ toàn bộ số tài sản đó đã thuộc về cậu nên cậu có quyền sử dụng tùy ý.Tôi định xin phép cậu cho đọc tất cả các loại giấy tờ và thư từ của Lucy. Đừng nghi ngờ gì nhé, không phải là do tôi tò mò đâu. Tôi làm vậy cũng vì một lý do mà tôi biết là cô ấy sẽ đồng ý. Tôi đã tìm được số giấy tờ và thư từ. Hiện tại, tôi đang cầm tất cả trước khi trả lại cho cậu như một phần còn lại của cô ấy. Tôi sẽ đọc tất cả nếu cậu cho phép và nếu cậu chưa được nhìn thấy những kỷ vật ấy, như thế sẽ tốt hơn vào lúc này - tôi sẽ cất giữ chúng vào một nơi chắc chắn. Tôi đảm bảo sẽ không để mất bất cứ một mẩu giấy nào của cô ấy. Đến một lúc thích hợp, tôi sẽ hoàn trả lại cậu tất cả. Có lẽ tôi đòi hỏi hơi nhiều, nhưng tôi biết là vì tình yêu đối với Lucy, thế nào cậu cũng sẽ đồng ý, đúng không anh bạn?
Chẳng cần nghĩ ngợi nhiều, Athur trả lời ngay bằng một giọng thẳng thắn và thành thực đúng với những gì tôi bíết ở anh :
- Thưa bác sĩ Van Helsing, ngài cứ việc làm như ngài mong muốn. Tôi biết rằng nếu còn ở đây, thế nào Lucy cũng sẽ chứng giám cho những gì tôi nói. Tôi sẽ không đặt ra bất cứ một câu hỏi nào cho tới khi tự ngài thấy đã đến lúc phải đưa ra lời giải thích về việc làm của mình.
- Cậu nói đúng lắm. - Giáo sư bật dậy nói bằng một giọng thật nghiêm trọng.
- Tất cả chúng ta đều còn rất nhiều việc phải làm và cũng có không ít điều phải bận tâm, nhưng không chỉ có những điều phải bận tâm, mà đằng sau đó chúng ta còn phải tìm hiểu thêm không ít vấn đề khác nữa.
- Bác sĩ Seward và tôi, và cậu nữa, Athur ạ, - cậu chứ không phải ai khác - cả ba chúng ta sẽ phải vượt qua những giờ phút chua xót trước khi trở lại với cuộc sống bình yên. Phải can đảm lên mới được, dừng nghĩ tới bản thân mà phải nghĩ tới bổn phận trước tiên, có như vậy mới thành công được!
Đêm hôm đó, tôi ngủ trên trường kỷ trong phòng Athur.
Van Helsing không ngả lưng chút nào. Ông cứ đi qua đi lại như định đi tuần trong nhà, nhưng không lúc nào bỏ xa căn phòng đặt quan tài của Lucy. Không giống với mùi hương lý hay mùi hoa hồng, những bông hoa tỏi cài rải rác trong căn phòng luôn tỏa ra màn đêm một mùi hăng hắc.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 22 tháng 9
Tôi ngồi viết trên đoàn tàu dẫn chúng tôi tới Exeter. Jonathan đang chìm trong giấc ngủ.
Tôi thấy dường như mình chỉ mới viết những dòng nhật ký này từ hôm qua, ấy vậy mà không biết bao nhiêu điều đã xảy ra từ khi chúng tôi ở Whitby để thực hiện những dự định cho tương lai, trong lúc Jonathan đang lang thang nơi đất khách quê người và tôi thì lúc nào cũng mong ngóng tin anh. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thế mà bây giờ tôi đã làm đám cưới với Jonathan, một công chứng viên, một chủ nhân ông của một văn phòng luật sư của chính mình. Ngài Hawkins đã được chôn cất chu đáo, còn Jonathan lại vừa trải qua một cơn bệnh biến mới khiến tôi không khỏi lo về những hậu quả không mấy tất đẹp có thể xảy ra sau này, Có thể sẽ có một ngày, anh hỏi tôi về những chuyện đã qua trong lúc anh không ý thức được... Tôi chợt nhận thấy kỹ năng viết tốc ký của mình bị thui chột hẳn, có lẽ thỉnh thoảng tôi phải tranh thủ luyện tập lại mới được...
Đám tang được tổ chức giản dị nhưng cũng thật xúc động. Chỉ có hai chúng tôi, mấy gia nhân và hai, ba ông bạn già từ Exeter đến, một nhân viên người Luân Đôn và một quý ông nữa tự giới thiệu là John Paxton, chủ tịch một công ty luật tổng hợp. Tôi và Jonathan nắm chặt tay nhau, trong lòng cảm thấy trống vắng khi biết chắc rằng người bạn tốt nhất, thân thiết nhất của chúng tôi đã đi xa và chẳng bao giờ trở về...
Để về thành phố, chúng tôi phải đi xe buýt và xuống bến ở Hyde Park. Muốn làm tôi vơi đi nỗi buồn, Jonathan rủ tôi dạo bước trên một lối nhỏ trong công viên, nhưng tôi cũng chẳng đi được nhiều, hai chúng tôi tìm một chỗ ngồi cho đỡ mỏi. Trong công viên ít người quá, tất cả các ghế đã đều trống trơn. Cảnh bụồn nơi đây làm tôi bất giác nghĩ tới chiếc ghế trống không mà chúng tôi sẽ gặp lại khi trở về nhà. Vậy là chúng tôi cũng chẳng ngồi được lâu, tôi đứng dậy kéo Jonathan đi về phía Piccadilly. Jonathan khoác tay tôi như anh vẫn thường làm ngày xưa, hồi anh còn đưa tôi đến trường. Thú thực, tự nhiên tôi cảm thấy cử chỉ ấy của anh lúc này đã làm tôi thấy không tiện lắm. Nhưng bây giờ Jonathan đã là chồng tôi, vả lại chúng tôi cũng chẳng biết một ai trong số những người đi đường kia, mà kể cả một vài người trong số họ có nhận ra chúng tôi thì cũng chẳng có gì quan trọng cả. Chúng tôi vẫn tiếp tục dạo bộ thẳng về phía trước... Tôi chợt để ý đến một cô gái trẻ rất đẹp, đầu đội một chiếc mũ rộng vành đang ngồi trong một chiếc xe mất Victoria đỗ trước nhà Guillano. Nhưng Jonathan đã làm tôi giật mình bởi anh bỗng dưng xiết chặt tay tôi khiến tôi đau điếng. Tôi chợt thấy lo khi anh ghé vào tai tôi nói bằng một giọng như nghẹt thở: “Lạy Chúa tôi!” Đã bao ngày xui xẻo trôi qua khiến tôi không thể không lo lắng khi nghĩ về anh, vì lúc nào tôi cũng sợ anh lại rơi vào một cơn bệnh biến mới khiến hệ thần kinh của anh không còn giữ nổi thăng bằng. Tôi quay ngoắt sang hỏi xem đã xảy ra chuyện gì.
Không hiểu sao mặt mũi anh bỗng tái xanh như không còn một hột máu, hai mắt như lồi hẳn ra với những tia máu long sòng sọc. Hình như anh đang để ý tới một người đàn ông cao lớn, gầy nhẳng, có cái mũi khoằm như mũi diều hâu, bộ ria mép đen xì và bộ râu dài nhọn hoắt phía trước mặt. Và người đàn ông đó cũng đang nhìn chòng chọc vào cô giả trẻ thì phải. Gã mải nhìn cô gái đến nỗi chẳng còn để ý đến ai xung quanh, vì vậy tôi có thể thoải mái quan sát gã. Bộ mặt gã đúng là chẳng nói lên một điều gì tốt lành. Trông nó cứng nhắc, cục cằn và ẩn chứa đầy nhục dục, sợ nhất là hai hàm răng trắng ởn và to như răng ngựa của gã. Giữa cặp môi đỏ như ớt, hai hàm răng ấy trông cỏ vẻ nhọn như răng của một con thú vật. Jonathan vẫn ngây dại nhìn về phía gã đàn ông lạ mặt. Tự nhiên tôi cảm thấy sợ gã, vì quả thực gã có một vẻ gì đó rất đáng ngờ. Khi tôi hỏi tại sao lại đờ đẫn người ra như vậy, Jonathan đã hỏi lại cứ như tôi cũng biết mọi chuyện từ lâu rồi :
- Em biết ông ta chứ?
- Không, làm sao mà em biết được! Ai thế?
Câu trả lời của anh làm tôi thực sự bị sốc. Nghe giọng anh nói, tôi có cảm giác anh không còn biết tôi là ai nữa :
- Đúng là lão rồi... Đúng là lão!
Rõ ràng là người chồng thân yêu của tôi đang sợ hãi, chính xác hơn là quá khiếp sợ một điều gì đó. Tôi tin rằng nếu không tựa vào tôi, chắc chắn là anh sẽ ngã khuỵu xuống đất mất. Anh như đang bị thôi miên bởi một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Chợt có một người đàn ông bước ra khỏi một cửa hàng đi về phía cô gái trẻ và đưa cho cô một bọc gì đó. Gã lạ mặt kia vẫn nhìn chòng chọc vào cô gái. Khi chiếc xe chuyển bánh đi ngược về phía Piceadilly, gã vội vàng gọi ngay một chiếc xe cáp chạy đuổi theo. Jonathan vẫn ngây dại nhìn theo, một lúc sau anh mới lẩm bẩm như nói với chính mình :
- Đúng rồi, mình tin chắc đó chính là lão bá tước, nhưng trông lão có vẻ trẻ ra thì phải? Lạy Chúa tôi? Nếu đó là lão...
- Ôi? Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi! Giá như mình biết, giá như...
Tôi phải kìm nén lắm mới không đặt ra một câu hỏi nào, vì tôi sợ nếu làm khác đi, tôi sẽ gợi nhắc những ý nghĩ nào đó khiến anh lại vật vã như bị tra tấn. Vậy là tôi phải giữ im lặng và kéo anh tiếp tục dạo bộ về phía một vườn cây mang tên Khuôn viên Xanh. Trời thu hôm nay sao mà nóng bức thế không biết, chúng tôi phải tìm một chiếc ghế đá nằm dưới một lùm cây um tùm để ngồi nghỉ. Jonathan thẫn thờ nhìn vào nơi xa xăm như một kẻ mất hồn, nhưng anh chỉ ngồi được một lát rồi gục đầu vào vai tôi, hai mắt nhắm nghiền, anh đang đi vào một giấc ngủ ngon lành. Tôi chợt thấy vui khi thấy anh ngủ. Rõ ràng anh không còn bị những cơn bệnh hành hạ như trước nữa. Khoảng hai mươi phút sau, anh bừng tỉnh và nói với tôi bằng một giọng rất vui :
- Mina! Thế là anh cũng đã ngủ được một giấc. Ôi! Xin lỗi nhé, em yêu... Nào, chúng ta tìm một chỗ nào đó uống trà đi.
Tôi hiểu anh đã quên hẳn cuộc gặp của hai chúng tôi với gã đàn ông xa lạ vừa rồi, và trong trạng thái bệnh lý của mình, anh cũng quên tất cả những hồi ức nào đó mà cuộc gặp ấy đã gợi lại trong anh. Nhưng dù vậy, tôi vẫn không dám hỏi một câu nào, vì tôi biết chắc có làm thế cũng chỉ tổ gây ra những hậu quả tai hại khó lường hơn là một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, dù thế nào thì tôi cũng phải biết cho bằng được cuộc hành trình ra nước ngoài vừa rồi của anh. Có lẽ đã đến lúc tôi phải cởi dãy băng xanh buộc cuốn sổ tay của anh ra rồi. Ôi, Jonathan, hãy tha lỗi cho em! Em luôn hiểu những gì mình làm, em sẽ phải đọc những gì anh viết trong cuốn sổ ấy. Nếu em có làm vậy thì cũng chỉ vì anh thôi.
* * * * *
Một lúc sau
Một chuyến trở về nhà buồn thảm không chỉ vì một lý do. Quả là nhiều chuyện quát Jonathan trông vẫn xanh xao như một người bệnh thật sự. Chưa hết, còn một bức điện của một ông Van Helsing nào đó đang chờ đợi chúng tôi :
“Tôi rất lấy làm tiếc khi báo cho ông bà biết về cái chết bất ngờ của bà Westenra cách đây năm hôm và cái chết của cô con gái Lucy xảy ra vào ngày hôm kia. Cả hai đều đã được chôn cất chu đáo vào ngày hôm nay.”
Trời ơi? Sao chỉ có mấy dòng thôi mà hàm chứa nhiều nỗi buồn như vậy? Tội nghiệp bà Westenra? Tội nghiệp Lucy! Thế là họ đã ra đi, đã mãi ra đi rồi Thật tội nghiệp, tội nghiệp cho Athur, cuộc sống với anh bây giờ chẳng khác nào một sự tồn tạ cơ cực và buồn tẻ! Cầu Chúa hãy giúp chúng con vượt qua nỗi đau này?
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 22 tháng 9
Mọi việc vậy là xong. Athur lại trở về Ring cùng với Quincey Morris. Kể ra Quincey cũng là một chàng trai thật đáng mến. Cậu ta cũng đau đớn về cái chết của Lucy như bất cứ ai trong chúng tôi, song cậu ta lại rất biết cách giữ vẻ mặt bình thản của mình với lòng can đảm như một tay cướp biển Bắc Âu. Nếu tiếp tục sản sinh ra những người đàn ông như cậu ta thì chẳng bao lâu nữa, nước Mỹ sẽ trở thành một cường quốc trên thế giới. Về phần mình, Van Helsing đã chịu nghỉ ngơi một chút trước khi lên đường về nước. Ông phải trở về Amsterdam để giải quyết một số việc riêng. Tuy nhiên, chiều tối mai ông cũng định tới Luân Đôn và ở lưu lại đó nếu có thể để giải quyết một việc khá mất thời gian. Thú thực tôi vẫn lo sức chịu đựng bền bỉ của ông không còn kéo dài được như trước nữa. Trong tang lễ, tôi để ý thấy ông đã có những biểu hiện hơi không bình thường. Khi công việc kết thúc, chúng tôi lại tập trung xung quanh Athur khi anh đang rất xúc động nói về dòng máu mà anh đã hiến dâng cho Lucy. Tôi thấy sắc mặt Van Helsing hết tái lại chuyển sang đỏ tía. Athur nói kể từ khi cho Lucy dòng máu của mình, anh bỗng có cảm giác cô đã thực sự trở thành vợ anh trước sự chứng giám của Chúa. Tất nhiên, chúng tôi không dại gì nói ra những lần truyền máu khác mà Athur chưa biết, và chắc chắn chẳng bao giờ chúng tôi để lộ ra điều đó. Athur và Quincey cùng dẫn nhau ra ga, Van Helsing và tôi trở lại đây. Chúng tôi vừa bước lên xe thì giáo sư bất ngờ bị động kinh, ý tôi muốn nói là thần kinh của ông bị kích động rất mạnh. Nhưng về sau, ông đã nhất quyết phủ nhận cơn kích động này. Ông giải thích đó chẳng qua chỉ là một cảm giác khôi hài sau những gì tồi tệ đã xảy ra. Ông bật cười, cười ra nước mắt, cười nức nở đến nỗi tôi phải hạ hết vải rèm xung quanh xe xuống để cho người ngoài khỏi thấy ông trong trạng thái không bình thường như vậy, rồi ông bật khóc, khóc thực sự, khóc như một đứa trẻ con. Sau đó tôi lại phải chứng kiến ông cười, cười sằng sặc. Cuối cùng, ông vừa cười lại vừa khóc, khóc tức tưởi như một người đàn bà, nói đúng hơn là như một thằng điên: Tôi ra sức an ủi, vỗ về ông, thậm chí còn nghiêm giọng bảo ông giữ bình tĩnh, nhưng mọi cố gắng của tôi đều vô ích. Đã thế thì cứ để ông điên khùng, bao giờ chán thì thôi. Trong tình huống tương tự như vậy, phụ nữ thường có những phản ứng khác với đàn ông. Cuối cùng, khi nét mặt ông trở lại với cái vẻ nghiêm nghị, hệ trọng vốn có, tôi mới dám hỏi cái gì đã làm ông có thể cười được trong lúc buồn như vậy.
Ông đã trả lời thật lôgích, song cũng khó hiểu như chính con người ông vậy.
- Chà? Anh bạn John ạ, vậy là anh lại không hiểu tôi rồi? Đừng tưởng rằng tôi cười là tôi không buồn đâu nhé. Tôi đã khóc ngay cả khi tôi buộc phải cười sằng sặc? Nhưng cũng đừng tin rằng tôi chỉ bày tỏ nỗi buồn khi tôi khóc... Đừng bao giờ quên tiếng cười tới gõ cửa nhà anh và hỏi: “Tôi có thể vào được chứ?” Không phải là nụ cười thật. Đừng bao giờ! Tiếng cười ấy chính là một ông hoàng, nó đến nhà anh khi thấy nhà anh vui theo cách của nhà anh! Nó chẳng cần phải xin phép ai cả, chỉ có niềm vui là quan trọng đối với nó. Tôi lấy ví dụ thế này, ngày đêm tôi vẫn day dứt về cô gái trẻ dịu hiền ấy, dù đã già và mệt mỏi, song tôi vẫn định hiến máu để cứu sống cô ấy. Tôi vẫn dành thời gian, khoa học và cả giấc ngủ của mình cho cô ấy.
Tôi đã bỏ mặc những bệnh nhân khác của mình để dành tất cả cho cô ấy. Vậy đấy? Thế mà chỉ trong phút chốc, tôi đã cười phá lên ngay trước mộ cô ấy, cười mãi, khiến cho máu mặt tôi bốc lên đỏ gay đỏ gắt. Chưa hết. Trái tim tôi cũng đã thắt lại khi nghĩ đến chàng trai đáng thương ấy - một chàng trai chạc tuổi con trai tôi nếu như tôi có phúc còn giữ được nó; mà sao mắt mũi, tóc tai chúng lại giống nhau đến thế không biết! Bây giờ thì anh đã hiểu tại sao tôi lại quý mến anh chàng ấy đến như vậy rồi chứ? Mặc dù vậy, khi nói với chúng ta về tình cảm vợ chồng chưa một lần được hưởng ấy, anh chàng đã làm tôi động lòng và để lại trong tấm lòng phụ tử của tôi một sức lôi cuốn kỳ lạ mà tôi chưa từng được trải nghiệm đối với các học sinh của mình.
Tất nhiên là cả đối với anh cũng vậy, anh bạn John ạ, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã làm và đã sống cùng nhau đều chỉ mang lại cho chúng ta một quan hệ bình đẳng hơn là tình cảm cha con. Tôi xin nhắc lại là mặc dù vậy, Đức ông hoàng cười vẫn đến và hét vào tai tôi: “Ta đây, tạ đã đến đây!”, to đến nỗi tôi cảm thấy có một dòng máu trong người bốc lên ngùn ngụt khiến cho tôi mặt đỏ tía tai như ông mặt trời vậy. Thế đấy, anh bạn ạ, thế giới của chúng ta thật kỳ lạ? Một thế giới buồn tẻ, cơ cực, bất hạnh và luôn đầy những âu lo. Tuy nhiên, khi Đức ông hoàng Cười đến, tất cả lại cùng nhau nhảy nhót trong cái không khí mà ông ta luôn cảm thấy thỏa thích? Những trái tim rỉ máu, những hài cốt nằm trong nghĩa địa, những giọt nước mắt cháy bỏng trên gò má, tất cả bỗng cùng hùa vào nhảy nhót với nhau theo điệu nhạc phát ra từ miệng Đức ông hoàng Cười. Cứ tin tôi đi, anh bạn ạ chúng ta rồi cũng phải biết ơn Đức ông ấy? Bởi vì chúng ta, những người đàn ông và cả những người phụ nữ nữa, đều có thể so sánh với những sợi dây đàn bị căng ở hai đầu, để rồi có những giọt nước mắt nhỏ xuống, giống như những hạt mưa đậu trên từng phím đàn, bỗng làm chúng ta căng cứng lại cho tới một lúc nào đó, cái căng cứng ấy sẽ đạt tới mức thực sự không thể chịu nổi nữa, và thế là chúng ta đứt tung hết cả. Đúng vào lúc xuất hiện cái ranh giới đó, ông hoàng Cười bỗng bất ngờ xuất hiện như một tia nắng mặt trời, làm chùng sợi dây lại, và chúng ta lại có thể tiếp tục công việc của mình bất kể ở hiện trạng nào.
Tôi không định làm giáo sư bị tổn thương khi thú thực với ông rằng tôi chẳng hiểu gì về cái triết lý đó của ông. Mặc dù ông đã giải thích, nhưng quả thực tôi vẫn chưa xác định được lý do gì khiến ông cười sằng sặc lên như vậy. Tôi buộc phải nói thẳng với ông về sự thiếu thông thái của mình.
- Chà chà? - Ông tiếp tục giải thích. - Đó chẳng qua chỉ là một sự trớ trêu bi ai nhất mà thôi! Cô bé dịu dàng ấy nằm yên giữa những bông hoa trắng tinh. Cô đẹp như chính cuộc sống vậy, đẹp đến nỗi hết người này đến người khác trong chúng ta phải tự hỏi không hiểu cô đã chết thật hay chưa. Bây giờ thì cô bé đã ngon giấc ngàn thu dưới nấm mồ đá trong một nghĩa địa xa xôi, nơi những người thân thiết nhất của cô cũng đang an nghỉ. Chúa ơi? Tiếng chuông cầu hồn ấy sao mà mà buồn và thê thảm đến thế! Và cả những vị linh mục nghiêm trang đọc lời cầu nguyện trong bộ đồ trắng... Còn chúng ta, tất cả đều nghiêng mình, cúi đầu... Tại sao lại thế? Chẳng phải là cô ấy đã chết rồi ư?
- Nhưng thưa giáo sư, tôi vẫn chưa thấy gì đáng để cười trong những lời giáo sư vừa nói! Thậm chí tôi thấy lời giải thích của giáo sư càng lúc càng rối rắm hơn là đằng khác. Nếu như việc chôn cất có điều gì buồn cười, chẳng lẽ anh chàng tội nghiệp Athur, một con người đang rơi xuống tột cùng của đau đớn lại...?
- Chính xác! Anh ta chẳng nói dòng máu mà anh ta hiến cho Lucy đã làm cho cô bé trở thành vợ anh ta rồi là gì?
- Đúng là Athur có nghĩ như vậy, nhưng đó là điều sẽ an ủi được anh ta.
- Phải! Nhưng nếu thế sẽ có chuyện không ổn. Bởi nếu chỉ cho máu thôi mà Athur đã cảm thấy Lucy là vợ của mình rồi thì không 1ẽ cô bé cũng là vợ của chúng ta cả hay sao? Ha? Ha? Vậy là Lucy, cô bé dịu hiền Lucy đã có rất nhiều phu quân. Còn tôi, tôi cũng có thể nói là mình mất đi một người vợ đáng thương, nhưng Giáo Hội và thiên đàng vẫn còn cô ấy. Tôi cũng trở thành một người chồng chung thủy của một cô vợ không còn trên trái đất này nữa, tôi là người đã hai vợ!
- Tôi vẫn chưa thấy gì đáng buồn cười cả! - Tôi buộc phải thú nhận sự mông lung của mình một lần nữa, bởi thực ra những lưu ý của ngài vẫn chẳng có gì hay ho.
Ông vỗ vai tôi và tiếp tục những lời giải thích của mình :
- Anh bạn John ạ, xin lỗi nếu có làm anh đau đầu. Tôi đâu có thói quen đem bừa tình cảm của mình dành cho những người khác, vì điều đó rất dễ làm họ bị tổn thương. Nhưng đối với anh thì lại khác, John ạ. Giá như anh nhìn được tất cả những gì xảy ra tự đáy lòng tôi lúc tôi đang cười, hoặc lúc tiếng cười xuất hiện trên môi tôi, giá như lúc này anh nhìn được những gì tiếp tục ẩn chứa trong lòng tôi khi Đức ông hoàng Cười đã cởi bỏ vương miện và xiêm y - bởi ông ta sẽ bỏ đi rất xa, rất xa tôi trong một thời gian rất rất dài - thì chắc là trong số chúng ta, tôi sẽ là người mà anh cảm thấy ái ngại nhất.
- Tại sao vậy? - Tôi hỏi, trong lòng cảm thấy thực sự xúc động khi nghe ông nói đến câu cuối cùng. - Tóm lại là tôi vẫn không hiểu được lòng ngài.
- Tại sao ? Tại vì tôi biết là như vậy?
Bây giờ thì chúng tôi đã tạm biệt nhau, mỗi người lại tìm về sự cô đơn dưới mái nhà lạnh lẽo của mình. Vậy là Lucy đã yên nghỉ trong khu mộ của gia đình, một khu mộ câm lặng nằm giữa một nghĩa. địa cổ kính, nơi âm thanh đời thường của thành Luân Đôn không thể vẳng tới, bầu không khí không hề vẩn một chút bụi đời, mà chỉ có những tia nắng mặt trời óng ả nhẹ buông từ đỉnh đồi Hampstead và những bông hoa dại mọc vương vãi trên từng thảm cỏ xanh mướt như nhung.
Vậy là tôi có thể kết thúc những dòng nhật ký này được rồi. Chỉ có Chúa mới biết đến bao giờ tối lại bắt đầu những dòng tự bạch khác mà thôi. Nếu tôi có thêm một lần như thế, hoặc giả nếu tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký này, thì chắc chắn tôi sẽ viết về những con người khác, hoặc những câu chuyện khác hẳn. Sau khi ghi lại toàn bộ câu chuyện tình đơn phương của mình và trước khi trê lại với cuộc sống của công việc, tôi đã buồn bã buông một tiếng chẳng hề hàm chứa một chút hy vọng nào hết.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Một bí ẩn ở Hampstead
“Các khu vực phụ cận Hampstead đang xảy ra nhiều sự kiện gợi nhắc lại những chuyện mà chúng tôi đã có lần nói đến trong các bài báo nhan đề: Nỗi kinh hoàng ở Kensington, hoặc Người phụ nữ bị đâm đao, hoặc Người đàn bà mặc bộ đồ đen. Quả thực là từ hai ba ngày nay, người ta đã xì xào nhiều về chuyện những đứa trẻ biến khỏi nhà, hoặc nói đúng hơn, không ai thấy chúng về nhà sau khi ra chơi ngoài trảng.
Đành rằng lu trẻ còn quá nhỏ để có thể đưa ra những lời giải thích thuyết phục về trường hợp vắng mặt của mình, song lần nào trở về chúng cũng đều nói rằng chúng đi theo một “người đàn bà vấy máu.” Và lần nào cũng vậy, cứ quá xẩm tối là người ta lại không còn nhìn thấy chúng đâu nữa. Có hai đứa trẻ trong số bị mất tích trong đêm chỉ được tìm thấy vào rạng sáng ngày hôm sau. Khi trở về nhà, đứa trẻ mất tích đầu tiên có kể lại rằng “người đàn bà vấy máu” đã gạ gẫm rủ em đi dạo cùng. Những trường hợp khác cũng kể lại một câu chuyện tương tự. Chúng ta đều biết rằng bọn trẻ ngày nay rất không thích bắt chước nhau, nên chuyện cùng dối nhà bỏ đi qua đêm là không thể có. Một thông tín viên của chúng tôi cho biết anh đã thấy mấy chú bé có điệu bộ rất nực cười khi chúng bắt chước bộ dạng và cử chỉ của “người đàn bà vấy máu”. Nếu thích, các nhà biếm họa của chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều khi xem các điệu bộ bắt chước của những chú nhóc này!
Tuy nhiên, sự việc xem ra không phải là không đặt ra những vấn đề nghiêm trọng, vì hai đứa trong bọn trẻ tức là những đứa trẻ bỏ đi qua đêm đã bị những vết cắn nhỏ ở cổ. Có vẻ như đó là những vết cắn của một con chuột lớn hoặc một con chó nhỏ. Mặc dù chưa có gì nghiêm trọng, nhưng các vết thương đều chứng tỏ một điều: dù là chuột hay là chó, con vật cũng chỉ luôn cắn người theo đúng một cách không đổi. Cảnh sát đã nhận được lệnh theo dõi những trẻ thường bén mảng tới chơi ngoài trảng Hampstead hoặc ở các khu vực phụ cận, nhất là những cô, cậu còn ít tuổi, và canh chừng cả những chú cho hay lảng vảng gần đó”.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Số đặc biệt
Nỗi kinh hoàng của Hampstead thêm một nạn nhân mới
“Chúng tôi vừa nhận được tin là lại thêm một đứa trẻ nữa bị mất tích vào xẩm tối ngày hôm qua và chỉ vừa được tìm thấy trong một bụi cây kim tước trên đồi Thợ Săn một khu vực thuộc trảng Hampstead, ít người lui tới hơn các khu vực khác vào sáng hôm nay. Với một vết cắn nhỏ trên cổ giống y như các nạn nhân nhỏ tuổi trước đó, cậu bé được tìm thấy trong một tình trạng yếu ớt và nhợt nhạt. Sau khi được đưa về nhà và bình tĩnh trở lại, cậu bé đã khai rằng cậu cũng bị người đàn bà vấy máu lôi kéo”.
Xem tiếp chương 14