Chương 15
Nhật ký của bác sĩ Seward (tiếp theo)
Nếu Lucy còn sống, chắc hẳn tôi đã không nổi khùng lên đến như thế.
- Giáo sư, ngài điên rồi sao? - Tôi đập bàn đứng dậy nói như quát, mặt đỏ gay gắt.
Van Helsing ngồi yên, ngẩng mặt lên nhìn tôi, ánh mắt nhân hậu của ông làm tôi trấn tỉnh ngay lập tức.
- Lạy Chúa? - Ông nói rất chậm rãi. - Tiếc thật, tôi muốn điên mà không thể điên được! Nếu điên được thì đã dễ chịu đựng một sự thật như vậy hơn nhiều. Chà? Anh bạn ạ, theo anh thì tại sao tôi cứ phải nói nhăng nói cuội mãi trước khi thú thực cái điều rất đơn giản ấy? Chẳng lẽ là do tôi ghét anh như tôi vẫn đối xử với anh từ trước đến nay? Chẳng lẽ tôi muốn anh phải chịu khổ đau thêm nữa? Hay là sau ngần ấy năm, lúc nào tôi cũng rắp tâm trả ơn cứu mạng của anh bằng những lời khó lọt tai ấy? Không phải, hoàn toàn không phải, đúng vậy không anh bạn? Cho tôi có lời xin lỗi, thưa giáo sư. Trái lại, anh bạn ạ, khi nói ra sự thật này, tôi rất muốn làm sao để anh càng ít choáng váng càng tốt, bởi tôi luôn hiểu anh cũng là người rất yêu cô gái ấy. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ cũng vậy, tôi chẳng hy vọng anh sẽ tin tôi ngay lập tức. Thật khó có thể tin ngay ở một sự thực mơ hồ mà điểm xuất phát của lại là một sự ngờ vực, nhất là khi chúng ta luôn có xu hướng muốn có một điều ngược lại. Và sẽ khó khăn hơn thế nhiều nếu phải thừa nhận một sự thật cụ thể, nhất là khi nó khủng khiếp như cái sự thật tôi vừa nói ra. Tối nay, tôi sẽ chứng minh để anh phải tin. Thế nào, anh có dám đi cùng tôi không?
Thấy tôi có vẻ lưỡng lự, ông nói tiếp :
- Suy luận của tôi cũng đơn giản thôi. Nói cho cùng đó hoàn toàn không phải là suy luận của một kẻ mất trí nhắm mắt nhảy bừa từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác, giữa đầm lầy, mà chẳng biết mình phải đi về đâu. Nếu điều tôi nói không phải là sự thật thì bằng chứng sắp tới sẽ giúp chúng ta trút đi một gánh nặng, hoặc ít nhất nó cũng không làm nghiêm trọng thêm câu chuyện định mệnh của Lucy. Nhưng nếu điều tôi nói có thật thì sao? Đó! Vấn đề chính là ở chỗ đó! Song tôi cũng xin được nói rằng chính sự nghi ngại cái có thật sẽ hỗ trợ cho lập luận của tôi, vì điều tôi cần trước hết vẫn là lòng tin ở thực tế như nó vốn có. Tôi định đề nghị anh như thế này: trước hết, chúng ta sẽ tới ngay bệnh viện Phương Bắc để thăm một cậu bé, tức là một nạn nhân mà báo chí vừa đưa tin. Bác sĩ Vincent, người của bệnh viện Phương Bắc, là một người bạn của tôi và có thể cũng là bạn của anh, vì các anh đã có dịp cùng nhau nghiên cứu ở Amsterdam rồi thì phải. Ta cứ đến đó đi, nếu anh ta không thể giúp chúng ta vào thăm nạn nhân thì ít ra cũng phải tạo điều kiện để bạn mình được gặp mấy ông thầy thuốc có liên quan. Hãy đừng vội nói gì với anh ta, trừ phi chúng ta muốn có những chi tiết về ca bệnh này. Sau đó...
- Sau đó thì sao?
Van Helsing rút trong túi quần ra một chiếc chìa khóa và tung tung trên lòng bàn tay :
- Sau đó, tôi và anh sẽ qua đêm trong nghĩa địa, nơi Lucy đang yên nghỉ. Đây là chìa khóa cửa ngôi mộ. Người phu đào huyệt đã nhờ tôi giữ để gửi lại cho Arthur.
Cứ nghĩ tới cái bằng chứng khủng khiếp nào đó là tôi lại cảm thấy chân tay mình sắp sửa rụng rời đến nơi. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng thể làm gì khác ngoài việc phải cố gắng tỏ rõ mình cũng là người có khí phách. Vì vậy, tôi đã mạnh mồm giục đi ông nhanh chân, bởi trời sắp tối đến nơi rồi...
Khi chúng tôi bước vào phòng bệnh, cậu bé nạn nhân kia đang thức. Trước đó, nó đã được ngủ sau khi uống một cốc sữa đặc, bởi vậy tình trạng sức khỏe của nó nói chung cũng đã ít nhiều bình phục. Bác sĩ Vincent khẽ bóc lớp băng dán trên cổ cậu bé cho chúng tôi xem hai vết thương nhỏ xíu. Rõ ràng vết thương này cũng giống y như những vết thương trên cổ Lucy, khác chăng là ở chỗ chúng có vẻ tươi hơn và nhỏ hơn một chút. Chúng tôi hỏi Vincent xem anh ta giải thích thế nào về nguyên nhân gây nên vết thương, anh cho rằng cậu bé đã bị cắn bởi một con vật, một con chuột chẳng hạn. Tuy nhiên, anh ta còn nói rằng không thể loại trừ trường hợp đó là vết cắn của một con dơi, bởi ở các vùng cao phía bắc Luân Đôn có rất nhiều đàn dơi đang cư trú. Anh ta giải thích :
“Sống giữa những đàn dơi hiền lành vô hại thỉnh thoảng cũng có một loài dơi hoang dại, hung hãn, từ phía nam tới. Cũng không loại trừ trường hợp có một anh chàng thủy thủ nào đó đã bắt và mang về nhà mình một con dơi như vậy và rồi vô ý để nó xổng mất, hoặc cũng có thể đó là một con dơi sổng chuồng của vườn bách thú. Trong trường hợp này, ai dám đảm bảo đó không phải là giống dơi hút máu người? Bởi vì trong vườn bách thú, người ta đang nuôi rất nhiều loài dơi. Lại còn chuyện này nữa: cách đây chừng chưa đầy mười ngày, vườn bách thú đã để sổng chuồng một con sói, và có người đã thoáng nhìn thấy nó đang lẩn khuất đâu đó trong khu vực quanh đây. Chưa hết, trong suất một tuần nay, người ta kháo nhau rằng lũ trẻ không còn thích trò chơi gì khác ngoài trò Cô bé quàng khăn đỏ. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như trò chơi này không trùng hợp với sự xuất hiện của người đàn bà nhuốm máu và sự bỏ nhà đi qua đêm của lũ trẻ... Như vậy là bọn nhóc... Cả cậu nhóc này nữa, vừa mới mở mắt tỉnh đậy, nó đã hỏi cô y tá là nó có thể đi khỏi đây được chưa. Khi cô ta hỏi đi đâu, nó nói ngay là nó muốn đi chơi với người đàn bà bí ẩn kia.”
- Hy vọng là khi trả đứa trẻ này về nhà, - Van Helsing nói - anh sẽ nhắc nhở bố mẹ nó phải để mắt tới nó nhiều hơn. Vlệc chúng bỏ nhà đi là rất nguy hiểm, chưa biết chừng còn ảnh hưởng đến tính mạng nữa ấy chứ. Nhưng này, hình như anh còn định giữ cậu nhóc này ở đây vài hôm nữa thì phải?
- Ít nhất là một tuần nữa, hoặc cũng có thể lâu hơn nếu yêu thương của nó vẫn chưa chịu lành.
Cuộc viếng thăm bệnh viện của chúng tôi kéo dài hơn dự kiến. Khi chúng tôi quay ra thì trời đã tối.
- Có vội cũng chẳng giải quyết vấn đề gì. - Van Helsing bảo tôi. - Tôi nghĩ bây giờ vẫn chưa đến nỗi quá muộn... Hay là ta kiếm cái gì ăn cho đỡ đói đi, sau đó có làm gì thì làm...
Chúng tôi vào ăn tối ở quán Lâu đài Jack Straw, nơi có một nhóm tay đua xe đạp đang ngồi ăn nhậu ầm ĩ cùng mấy thanh niên. Khoảng mời giờ tối, chúng tôi rời quán trọ. Ngoài phố, trời tối đen như mực. Rõ ràng Van Helsing đã tăm trước con đường chúng tôi phải đi, bởi tôi thấy ông phăm phăm rảo bước mà chẳng sợ vấp phải bất cứ một trở ngại nào. Còn tôi, thú thực tôi sẽ rất ngượng nếu có người hỏi tôi đang ở đâu. Càng lúc đường đi càng vắng hơn, cho dù đã có lúc chúng tôi gặp một toán cảnh sát cưỡi ngựa đi tuần. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng đến dược nghĩa địa. Do cổng nghĩa địa đã khóa, nên chúng tôi phải trèo qua tường vào bên trong. Công việc chẳng dễ chút nào, bởi ở đây trời còn tối hơn ngoài đường phố nhiều nên chúng tôi không thể xác định được mình đang đứng ở chỗ nào. Thế mà rồi Van Helsing cũng nhanh chóng tìm được khu nhà mồ của gia đình Westenra. Ông rút chìa khóa mở cửa nhà mồ, cánh cửa nặng nề nghiến ken két làm tôi dựng tóc gáy. Giáo sư giữ ý lùi lại một bước nhường đường cho tôi vào trước. Tôi cảm thấy trong một hoàn cảnh như vậy, cử chỉ lịch thiệp của ông có cái gì đó thật khôi hài. Ông cẩn thận đóng cửa, rồi móc trong túi ra một bao diêm và mẩu nến cháy dở để thắp soi đường. Ngôi nhà mồ, mới hôm nào còn để lại trong tôi một cảm giác gần gũi thân thương là thế, lúc này bỗng làm tôi rùng mình ớn lạnh. Những cánh hoa trắng ngần dành cho Lucy giờ đây đã úa tàn, rơi rụng thành một màu đất, nhường chỗ cho mạng nhện đan chằng chịt. Bụi thời gian ngàn năm vẫn tiếp tục lầm lũi làm cái công việc câm lặng của nó là xóa nhòa đi tất cả những gì thuộc về cuộc sống ngắn ngủi này. Cảnh đêm trong nhà mồ sao mà rùng rợn đến thế! Tôi sợ mình sắp sửa tưởng tượng ra những điều hãi hùng nhất có thể có trong một đêm tối mịt mùng, giữa nghĩa địa quạnh hiu, những điều mà tôi chỉ được biết trong các câu chuyện kỳ bí hoang đường.
Van Helsing bắt tay vào công việc một cách có tính toán. Ông giơ cao ngọn nến, khom người đọc những hàng chữ khắc trên từng chiếc quan tài. Những giọt nến thỉnh thoảng lại rơi độp xuống nắp một quan tài như muốn đẩy sự căng thẳng của tôi đến tột độ. Tới trước quan tài của Lucy, giáo sư chợt cúi xuống móc trong túi đồ mang theo một chiếc tuốc-nơ-vít.
- Ngài định làm gì vậy? - Tôi hỏi.
- Mở nắp quan tài. Có lẽ phải như vậy anh mới chịu tin!
Ông cặm cụi mở từng chiếc vít và khệ nệ nhấc chiếc nắp gỗ nặng trịch sang một bên, để lộ ra một lớp bọc chì trong quan tài. Có lẽ sức chịu đựng của tôi đã lên tới cực độ, hành động của ông khiến tôi hổ thẹn như phải chứng kiến cảnh người ta đang lột quần áo của một phụ nữ đang say giấc nồng. Tôi giơ tay định ngăn lại, nhưng ông vẫn thản nhiên đáp :
- Yên tâm đi, rồi anh sẽ được thấy tất cả?
Đoạn ông lôi trong túi đồ ra một cái cưa sắt nhỏ. Tôi chưa kịp hiểu chuyện ra sao đã thấy ông nhanh tay căm phập chiếc tuốcnơvít vào lớp bọc chì và ngoáy thành một lỗ khá rộng, đủ để đưa lưỡi cưa vào. Tôi sửng sốt nhảy lùi lại mấy bước, vì sợ cái mùi xú uế từ trong quan tài sắp sửa xộc ra. Nhưng giáo sư vẫn cặm cụi với công việc của mình mà chẳng cần quan tâm đến điều gì khác ngoài cái mục đích cuối cùng của mình. Ông cưa lớp bọc chì theo một đường hình vuông, sau đó giật ra một mảnh khá rộng. Thấy tôi vẫn nghệt mặt đứng một chỗ, ông vẫy tay gọi lại.
Tôi thận trọng tiến từng bước về chiếc quan tài. Lạ chưa? Dưới ánh sáng mờ mờ tỏ tỏ của ngọn nến, tôi nhận thấy chiếc quan tài rỗng tuếch như chưa từng có gì ở bên trong.
Người tôi bủn rủn như muốn rụng rời chân tay. Quả là một cú sốc thực sự đối với tôi, nhưng với Van Helsing thì không: tôi thấy ông vẫn đứng thản nhiên như đã biết trước mọi việc từ lâu rồi. Hơn lúc nào hết, tôi chợt hiểu ông đã nói đúng!
- Bây giờ anh đã chịu tin chưa, anh bạn John? Tâm phục khẩu phục rồi chứ?
Tuy nhiên, tôi vẫn chưa chịu :
- Tôi công nhận là Lucy không nằm ở trong quan tài, nhưng dù sao thì sự thật này vẫn chỉ chứng tỏ được một điều.
- Điều gì vậy, John?
- Điều gì ? Thi thể của Lucy không có trong quan tài, thế thôi.
- Lập luận hay đấy! Nhưng anh giải thích như thế nào... anh định lý giải như thế nào về việc thi thể cô ta lại không nằm ở trong đó?
- Có thể do bị trộm đột nhập... Hoặc giả là thi thể cô ấy đã bị lấy đánh cắp bởi chính các nhân viên của nhà đòn...
Tôi cũng hiểu ngay rằng mình đang nói những lời thật ngây ngô, song dù sao thì đó cũng là lời giải giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra trong lúc này.
Nghe tôi cãi, Van Helsing chỉ còn biết thở dài :
- Thôi được! Vậy là chúng ta lại phải tìm thêm một bằng chứng nữa rồi. Anh hãy theo tôi ra ngoài kia!
Ông lặng lẽ đậy nắp quan tài lại, nhặt dụng cụ, thổi tắt nến, rồi bỏ tất cả vào trong túi đồ. Chúng tôi mở cửa bước ra ngoài. Khóa cửa xong, giáo sư giơ chiếc chìa khóa lên bảo tôi :
- John này, nếu cảm thấy thích thì anh cứ cầm lấy, có lẽ phải như vậy anh mới hết nghi ngờ.
Tôi cười gượng, gạt đi :
- Một chiếc chìa khóa thì có nghĩa lý gì? Biết đâu chẳng còn cả chục cái như vậy nữa ấy chứ, mà cái ổ khóa kia có phải là khó mở đâu.
Van Helsing im lặng bỏ chiếc chìa khóa vào túi và chỉ tay bảo tôi nấp sau một cây thông để quan sát những gì sẽ xảy ra, trong khi ông một mình đi kiểm tra đầu bên kia nghĩa địa. Đứng nấp sau cây thông quả đỏ, tôi còn trông rõ bóng ông trước lúc ông khuất hẳn vào những lùm cây đen sẫm.
Thú thực tôi đã mất tự tin khi phải đứng một mình trong nghĩa địa, giữa đêm tối dày đặc như thế này. Tiếng chuông đồng hồ chợt vẳng tới từ xa xăm, khiến tôi không khỏi rung mình. Vậy là đã nửa đêm rồi. Tôi vẫn sốt ruột chờ đợi. Một giờ, rồi hai giờ... Tiếng chuông thỉnh thoảng lại cất tiếng ngân dài lê thê như từ thế giới bên kia vọng về. Tôi cảm thấy ớn lạnh dọc sống lưng, nếu cứ như thế này thì có lẽ tôi sẽ chẳng còn đủ sức bình sinh và lòng kiên nhẫn để mà đứng rình mãí ở đây. Có lẽ đây cũng là những giây phút khó nhọc nhất mà tôi không thể quên được trong đời.
Bất giác, tôi ngoảnh lại phía sau và giật thót người khi bất ngờ nhìn thấy một vệt trắng lờ nhờ đang luồn lướt qua khoảng trống giữa hai cây thông phía bên kia nhà mồ. Cùng lúc đó, một bóng đen sẫm bất thình lình xuất hiện đúng chỗ giáo sư đang đứng. Tôi định băng tới nhưng không được, bởi tôi không thể nhảy qua những nấm mồ mà không vấp ngã lộn cổ.
Bầu trời vẫn tối đen như mực, dù thỉnh thoảng đã có tiếng gà gáy đâu đây.
Cách tôi không xa, phía sau những cây bách xù trồng bên lối đi dẫn tới nhà thờ, lại là một bong trắng mờ ảo đang tiến nhanh về phía khu mộ nhà Westenra. Tuy nhiên, cái bóng ấy cũng đã nhanh chóng biến khỏi tầm mắt tôi sau những lùm cây, tôi không thể xác định nó chạy về hướng nào. Chỉ còn tiếng những bước chân gấp gáp ở ngay tại nơi cái bóng trắng ấy vừa đi qua. Vài phút sau, tôi thấy Van Helsing đột ngột xuất hiện trở lại, hai tay ôm một đứa trẻ.
Vừa bước tới chỗ tôi, ông hỏi luôn :
- Thế nào, bây giờ thì cậu vẫn chưa chịu tin chứ?
- Chưa!
- Thế anh không trông thấy thằng nhóc này sao?
- Có, tôi trông thấy nó từ nãy... Nhưng ai dẫn nó tới đây mới được chứ? Nó có bị thương không?
- Sẽ biết ngay thôi mà.
Ông chỉ nói có vậy rồi bế thằng bé đi thẳng ra phía cổng nghĩa địa. Tôi mỏi mệt bước theo sau.
Chúng tôi dừng chân bên một lùm cây um tùm. Van Helsing đánh điểm kiểm tra cổ thằng bé. Không có một vết xước nào, dù là rất nhỏ.
- Tôi nói cũng đúng đấy chứ? - Tôi hỏi, giọng đắc thắng.
- May mà chúng ta đã tới kịp! - Giáo sư đáp lại cùng một tiếng thở phào.
Biết phải làm gì với thằng nhóc này bây giờ? Nếu mang nó tới một đồn cảnh sát, chắc chắn chúng tôi sẽ phải giải trình với họ tại sao lại tìm thấy nó, và như vậy thì không ổn chút nào. Vậy là chúng tôi phải quyết định mang nó ra ngoài trảng, khi nào nghe thấy tiếng cảnh sát, chúng tôi sẽ thả nó ở một chỗ mà cảnh sát không thể không nhìn thấy. Ngay sau đó, chúng tôi sẽ tìm cách chuồn càng nhanh càng tất. Và tất cả đều đã trôi qua êm xuôi đúng như chúng tôi mong đợi.
Lúc vừa đến trảng, chúng tôi đã nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của một viên cảnh sát. Sau khi thả cậu nhóc bên một lối nhỏ, chúng tôi lẩn vội vào một lùm cây chờ cho đến khi viên cảnh sát cầm đèn đi ngang qua và thất lên một tiếng kinh ngạc, vì bất ngờ nhận ra nạn nhân nhỏ tuổi ngồi chơ vơ một mình. Chỉ đợi có vậy, hai chúng tôi bấm tay nhau lủi thật nhanh. Cũng may vừa ra tới đường cái, chúng tôi gặp ngay một chiếc xe ngựa chở khách đang trên đường vào thành phố.
Tưởng rằng mình sẽ chẳng thể ngủ được, tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, định bụng liên hệ các sự việc rời rạc với nhau để tìm ra một sợi dây nào đó xuyên suất vấn đề, nhưng rồi lại thiếp đi từ lúc nào không biết, bởi khi Van Helsing đến gọi tôi thì trời đã trưa rồi. Ông định rủ tôi mò mẫm một lần nữa.
* * * * *
Ngày 27 tháng 9
Đã hai giờ đồng hồ trôi qua kể từ khi chúng tôi quyết định liều lĩnh với toan tính thứ hai này. Việc chôn cất một người xấu số nào đó, được bắt đầu từ trưa, vừa kết thúc; bạn bè và gia quyến người quá cố đang lục tục kéo nhau ra về. Ngồi nấp sau một lùm cây, chúng tôi trông thấy rõ người phu đào huyệt - người cuối cùng trong nghĩa địa đang chuẩn bị thu dọn những công việc cuối cùng. Chỉ lát nữa thôi, anh ta sẽ khóa cổng, và chúng tôi sẽ được tự do làm những gì mình muốn cho tới tận sáng mai. Nhưng giáo sư bảo chúng tôi chỉ cần tối đa một tiếng đồng hồ là đủ. Cũng như hôm trước, tôi lại bắt đầu trải qua một cảm giác ghê sợ mơ hồ không sao diễn tả nổi, mặc dù bây giờ đang là ban ngày, và dù tôi đã cố gắng tưởng tượng ra những hình ảnh tốt lành nhất. Tôi hoàn toàn hiểu rằng để làm xong cái công việc khó hiểu này, có thể chúng tôi sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt của luật pháp. Hơn nữa, thú thực tôi vẫn tin công việc chúng tôi sắp làm chỉ là một trò vô tích sự? Nếu như việc mở nắp quan tài ra để xem cái thi thể mà người ta đặt vào đó từ hơn một tuần nay đã chết thật hay chưa là một trò ghê tởm, thì việc vất vả quay trở lại nhà mồ một lần nữa để chứng tỏ chiếc quan tài rỗng tuếch như tôi đã tận mắt chứng kiến - bây giờ quả là một hành động hoàn toàn điên rồ! Song tôi không có ý định bình luận gì về điều mình đang nghĩ, vì tôi luôn hiểu một khi Van Helsing đã nung nấu điều gì trong đầu thì khó có ai có thể lay chuyển được ông. Bởi vậy, tôi vẫn lặng im nhìn ông lấy chìa khóa mở cửa nhà mồ. Cũng như lần trước, ông né người sang một bên như một cử chỉ lịch sự nhường lối cho tôi vào trước. Cảnh bên trong nhà mồ có vẻ đỡ rùng rợn hơn buổi đêm khuya, nhưng ánh mặt trời lọt qua khe cửa sao vẫn yếu ớt và mỏng manh quá! Van Helsing bước lại gần quan tài Lucy, tôi lầm lũi bước theo sau. Ông cúi xuống nhấc nắp quan tài và mảnh chì bọc đã cưa rồi lần trước đặt sang một bên. Tôi thật không còn tin ở mắt mình nứa: vâng, lại một lần nữa tôi phải kinh ngạc, kinh ngạc đến khiếp sợ!
Lucy đang nằm trong đó, đúng với tư thế chúng tôi đã chứng kiến khi người ta đặt cô vào quan tài cách đây ít hôm. Có một điều rất lạ là thi thể cô lúc này trông đẹp hơn bao giờ hết, khiến tôi không thể tin là cô đã chết. Cặp môi cô vẫn đỏ như son, còn đỏ hơn so với khi cô còn sống, và cả đôi má kia cũng ửng hồng rạng rỡ như vừa được đánh một lớp phấn hảo hạng.
- Chẳng lẽ lại là một trò ảo thuật? - Tôi hỏi, trong long chưa hết sửng sốt.
- Bây giờ anh đã chịu chưa? - Vừa hỏi, Van Helsing vừa thò tay xuống phía xác chết. Hành động của ông khiến tôi muốn nôn mửa: ông đang vén cặp môi của người đang nằm, để trơ ra hai hàm răng trắng ởn.
- Anh hãy nhìn đi, nhìn cho thật kỹ vào: hai hàm răng cô ta trước kia có nhọn như thế này không? Đây chính là những chiếc răng đã cắn vào cổ mấy cậu bé đây. Bây giờ thì anh không thể nghi ngờ được gì nữa, đúng vậy không, John?
Tôi vẫn muốn cãi lại, muốn phủ nhận những gì là hiển nhiên đối với ông, song lại tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với tôi.
- Thế nhỡ đêm hôm qua, có người đã mang thi thể Lucy trả lại đây thì sao?
- Thế hả? Anh thử nói xem kẻ nào vậy?
- Làm sao tôi biết được. Nhưng chắc chắn phải có người đã mang xác chết về chỗ cũ của nó!
- Thì cứ cho là như vậy đi, nhưng Lucy đã chết từ hơn một tuần nay rồi kia mà. Chẳng lẽ sau chừng ấy ngày, xác chết lại không thể thay đổi được sắc diện hay sao?
Đến đây thì tôi chịu cứng họng. Tuy nhiên, Van Helsing chẳng buồn để ý đến sự bế tắc của tôi, đâu đó cũng là một phần tính cách của ông, trong mọi trường hợp, rất ít khi tôi thấy ông tỏ thái độ bực dọc hay thỏa mãn ra mặt. Ông đang chăm chú quan sát khuôn mặt của Lucy, một lần nữa tôi cảm thấy lợm giọng khi thấy ông vạch môi kiểm tra hai hàm răng của kẻ xấu số.
Đoạn ông quay sang bảo tôi :
- Dường như còn có một cái gì đó rất khác biệt với tất cả những gì tôi được biết từ trước tới nay. Chúng ta đang đứng trước một hiện tượng phân đôi hóa cuộc sống rất hiếm khi gặp cô bé này đã bị một con ma cà rồng cắn khi đang trong trạng thái thôi miên, mộng du... ơ kìa? Anh giật mình đấy à? John ạ, đúng là anh không biết thật, nhưng tôi sẽ giải thích để anh hiểu... Khi cô gái rơi vào trạng thái ảo giác, hẳn con ma đó đã tới hút sạch máu trong người cô. Cô đã chết trong trạng thái miên man. Mặt khác, cô cũng trở thành một kẻ không-chết trong cùng một trạng thái bởi chính quyền năng của con ma ấy. Đây là nguyên nhân khiến cô không hề giống với những trường hợp khác. Thông thường, khi những người bất tử ngủ tại “nhà” mình, - giáo sư vừa nói vừa khoát tay như muốn nhắc tôi rằng những con ma cà rồng nào đó đang ở “nhà mình” tại các nghĩa địa - bộ mặt của chúng luôn bộc lộ những nét gớm ghiếc đặc trưng không thể không có ở chúng. Nhưng đằng này, nét mặt Lucy vẫn dịu dàng đến kỳ lạ và chẳng mang một vẻ gì là dấu ấn của quỷ dữ cả. Chính vì vậy mà việc giết Lucy trong lúc cô đang ngủ như thế này là một điều hết sức khó khăn đối với tôi.
Dòng máu trong người tôi như sắp đóng băng lại đến nơi. Dường như cái lý luận của Van Helsing đã dần dần thuyết phục được tôi. Nhưng nếu Lucy chết thật rồi thì việc gì phải sợ khi quyết định giúp cô yên phận một lần nữa kia chứ?
Giáo sư đưa mắt nhìn tôi, không hiểu sao giọng ông lại có vẻ vui hơn trước, có lẽ cảm xúc trong ông đang thay đổi thì phải :
- A! Bây giờ thì anh đã chịu tin tôi rồi, phải vậy không?
- Không đến nỗi nhanh thế đâu. Thú thực là càng muốn thừa nhận ý kiến của ngài bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy phải suy nghĩ nhiều bấy nhiêu. Thế ngài định giải quyết như thế nào?
- Phải đóng một cái cọc vào thân người kẻ bất tử, nơi bên trái lồng ngực, sau đó bỏ đầy tỏi vào miệng cô ấy.
Suýt nữa tôi lại quát vào mặt giáo sư. Tôi thật không thể chịu nổi cái cảnh người ta băm vằm thân xác của một cô gái mà tôi hằng yêu thương? Tuy nhiên, tôi vẫn cố kìm nén cảm xúc trong lòng. Người tôi bắt đầu run lên khi sực nhớ ra sự tồn tại của một thực thể xa lạ, một kẻ mà giáo sư gọi là người bất tử. Người con gái tôi yêu đã trở thành một loài tồn tại ghê tởm. Chẳng lẽ tình yêu lúc nào cũng mang hai thái cực như vậy sao?
Cái khoảnh khắc chờ đợi Van Helsing ra tay hành động dường như đang kéo dài vô tận. Ông vẫn đứng đó, bất động, chìm nghỉm trong dòng suy tư của mình.
Cuối cùng, tôi thấy ông lấy chân gạt phắt túi đồ sang một bên và nói bằng một giọng thật quả quyết :
- John ạ, tôi đã nghĩ kỹ rồi, cần phải hành động sao cho có hậu nhất. Nếu cứ làm theo thiện kiến của mình, chắc chắn tôi sẽ phải ra tay ngay lập tức - đúng thế, ngay bây giờ. Nhưng không thể không lường trước những hậu quả mà chúng ta chưa thể tưởng tượng nổi. Rõ ràng Lucy chưa giết hại một người nào, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian. Nếu bây giờ ra tay, tôi sẽ vĩnh viễn loại cô ta ra khỏi nguy cơ đe dọa đối với bao nhiêu người. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng không thể không hỏi ý kiến của Arthur. Thú thực tôi vẫn chưa biết phải giải thích toàn bộ câu chuyện với cậu ta như thế nào bây giờ. Nếu như cậu ta đã thấy vết thương trên cổ Lucy và những vết thương trên cổ các nạn nhân nhỏ tuổi trong bệnh viện; nếu như cậu ta đã tận mắt chứng kiến chiếc quan tài, chỉ mới hôm qua thôi, còn rỗng tuếch, nhưng hôm nay đã lại xuất hiện nguyên vẹn một người con gái mà hơn một tuần sau khi qua đời, bỗng trở nên tươi tắn và xinh đẹp hơn bao giờ hết; nếu anh, người đã trực tiếp thấy một bóng trắng mờ mờ ảo ảo lôi kéo một đứa trẻ vào nghĩa địa giữa đêm hôm khuya khoắt hôm qua, còn cảm thấy khó tin ở mắt mình, thì làm sao có thể hy vọng Arthur - người hoàn toàn chưa được tận mắt trông thấy gì cả - sẽ tin ở câu chuyện tôi kể kia chứ? Anh ta sẽ nghi ngờ mà hỏi tại sao tôi lại cản trở anh ta ôm hôn Lucy khi cô ấy sắp chết. Nếu có thứ lỗi cho tôi thì chẳng qua cũng là vì anh ta tin rằng tôi đã ngăn cản anh ta nói lời vĩnh biệt với cô gái do một chẩn đoán sai lầm. Và bây giờ, rất có thể anh ta sẽ tin rằng chính vì sự sai lầm đó mà cô gái đã bị chôn sống. Nói tóm lại, anh ta sẽ nghĩ chính chúng ta đã giết chết cô gái bởi những sai lầm chồng chất. Và thế nào anh ta chẳng nghĩ chúng ta chỉ là những kẻ lừa bịp dốt nát, là thủ phạm giết chết cô gái để cố chứng tỏ việc làm của mình là đúng. Kết quả là càng ngày anh ta càng cảm thấy bất hạnh hơn, và khổ một nỗi anh ta sẽ chẳng bao giờ chắc chắn được một điều gì. Đó chính là điều tệ hại nhất. Khi thì anh ta nghĩ người yêu mình bị người ta đem chôn sống, và thế là những cơn ác mộng nào đó sẽ trở nên quái ác đến bội phần khiến cho anh ta không khỏi hình dung ra những điều khủng khiếp nhất mà cô gái từng phải hứng chịu, khi thì anh ta lại tự nhủ có thể chúng ta đã làm đúng, và rốt cuộc thì cô gái đúng là một kẻ không chết như tôi đã bảo. Chà! Cũng đã có lần tôi nói bóng gió với anh ta về điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, nhưng có lẽ chưa bao giờ anh ta tưởng tượng nổi một cảnh trái khoáy và oan nghiệt như thế này. Còn bây giờ tôi chỉ có thể dám chắc được một điều: Arthur cần phải trải qua những giờ phút khó khăn và cay đắng trước khi có một cuộc sống bình yên trọn vẹn mãi sau này. Lạy Chúa! Anh chàng tội nghiệp ấy còn phải tiếp tục trải qua những khoảnh khắc thê lương mà đối với anh ta, bầu trời sẽ như sắp đổi sập xuống. Tuy nhiên, sau đó chúng ta sẽ phải làm sao để anh chàng trở lại với sự bình yên, thanh thản trong lòng. Phải như thế... Bây giờ, có lẽ ta về đi. Anh sẽ quay về với các bệnh nhân của mình. Còn tôi, tôi sẽ qua đêm ở đây, giữa chốn nghĩa địa này. Sáu giờ chiều mai, anh hãy tới tìm tôi ở Khách sạn Berkeley. Tôi sẽ viết vài dòng gửi Arthur để mời anh ta và cả anh chàng người Mỹ Quincey Morris tới đây luôn thể. Tất cả chúng ta đều có rất nhiều việc phải làm... Bây giờ, tôi sẽ cùng anh tới Piccadilly ăn cái gì trước đã, sau đó tôi sẽ cố gắng trở lại đây trước khi mặt trời lặn.
Van Helsing lặng lẽ khóa cửa nhà mồ và cùng tôi đi về phía tường rào nghĩa địa. Tôi trèo ra trước, ông ra sau. Hai chúng tôi lầm lũi trở lại con đường dẫn tới quán trọ Piccadilly.
Thư gửi bác sĩ John Seward của Van Helsing cất trong valy tại khách sạn Berkeley
Ngày 27 tháng 9
“John thân mến,
Tôi phải viết mấy dòng gửi anh đề phòng trường hợp có chuyện bất trắc xảy ra mà không còn cơ hội được gặp lại anh. Tôi phải quay trở lại nghĩa địa để theo dõi tình hình mà tôi đã dự đoán. Tôi muốn ngăn cản người bất tử, tức Lucy, ra khỏi nhà mồ vào tối nay để đêm mai, cô ta càng ham muốn thoát ra khỏi đó hơn. Tôi sẽ gắn vào cửa nhà mồ những thứ mà kẻ không chết đó không thích là tỏi và cây thánh giá, chỉ cần vậy là đủ để giữ cửa cô ta. Có điều tỏi và cây thánh giá chỉ có tác dụng ngăn cản Lucy trốn ra ngoài, chứ không phải là một đảm bảo để cô ta từ bỏ ham muốn ra ngoài đó. Tôi sẽ ở lại nhà mồ suốt đêm, kể từ lúc mặt trời lặn cho tới khi bình minh thức dậy, để nếu có chuyện gì xảy ra còn có cái mà báo cho anh. Về những gì liên quan đến Lucy, hoặc là đối với bản thân cô ta, hoặc là xuất phát từ cô ta, tôi chẳng hề lo ngại.
Điều đáng lo ngại lại xuất phát từ một thế lực nào đó vốn là nguyên nhân biến Lucy thành kẻ không chết kia. Thế lực ấy hiện có quyền năng để tìm đến ngôi mộ của cơ và trú ẩn ở trong đó. Hắn là kẻ cực kỳ xảo quyệt. Tôi nói vậy không phải là chỉ nghe theo lời kể của Jonathan, mà còn căn cứ vào nhiều thủ đoạn kẻ xảo quyệt đó từng giở chiêu trước chúng ta khi hắn can dự vào cuộc đời của Lucy và biến chúng ta thành kẻ thua cuộc. Trong thực tế, người không chết luôn rất khỏe. Một tay hắn có khi còn khỏe hơn cả chúc người. Việc bốn chúng ta lần lượt hiến máu cho Lucy rất cuộc cũng chỉ là việc làm vô ích. Đã thế, thế lực hắc ám ấy còn có quyền năng gọi được cả chó sói và có thể là những hoang thú khác mà tôi còn chưa biết. Nói tóm lại, nếu hắn tới nghĩa địa vào đêm nay, hắn sẽ đụng phải tôi. Nhưng cũng có thể là hắn sẽ không tới. Lãnh địa săn lùng của hắn hẳn sẽ còn nhiều con mồi khờ dại hơn ở cái bãi tha ma hoang. vu này, nơi chỉ có một cô gái trẻ bất tử là Lucy đang ngủ và một ông già là tôi đang thức.
Dù sao thì tôi cũng vẫn cứ viết mấy dòng ngắn ngủi này gửi anh để nếu có bề gì... Anh hãy cầm cuốn nhật ký của Harker, những giấy tờ khác mà tôi đã sắp sẵn cùng với lá thư này, rồi đọc và nghiền ngẫm cho kỹ nhé. Sau đó, anh phải can đảm hơn để thay tôi hành động. Hãy làm như tôi đã nói: dù rất đau lòng, anh cũng phải tìm đến kẻ bất tử ấy để hỏa thiêu trái tim địa ngục hoặc phải đóng cọc vào thi thể của cô ta. Có như vậy mọi người xung quanh chúng ta mới thoát khỏi một tai họa tiềm ẩn do cô ta gây ra sau này.
Chào tạm biệt, hoặc có thể là vĩnh biệt!
Van Helsing.”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 28 tháng 9
Kể ra ngủ được một đêm đối với tôi lúc này cũng là một điều rất tất. Hôm qua, tôi hầu như đã chấp nhận hết các ý tưởng quỷ quái của Van Helsing. Tôi không còn nghi ngờ việc ông luôn tin vào những gì ông đã kể, song thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi có lúc nào đầu óc ông bị rối loạn hay không. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận ông có một cách giải thích rất phù hợp với tất cả những điều mà tôi thấy là bí ẩn kia. Hơn nữa, ông còn là người thông minh và kiên quyết đến ngoan cố. Mỗi khi hăng tiết lên, ông sẽ tìm mọi cách để thực hiện cái ý định của mình - cho dù đó là ý định gì và tất nhiên, chẳng có gì có thể cản trở được ông. Thú thực tính cách của ông cũng có đôi lúc làm tôi phiền lòng, và điều tôi sợ nhất lúc này là có người bảo ông điên! Nhưng nói gì thì nói, bây giờ tôi sẽ phải luôn để mắt tới ông, bởi trên đời này chẳng có chuyện gì là không thể xảy ra! Dĩ nhiên, tôi cũng phải xác định xem có ánh sáng nào dẫn đến câu chuyện bí ẩn kia hay không.
* * * * *
Ngày 29 tháng 9
Khoảng gần mười giờ tối hôm qua, Arthur và Quincey rủ nhau đến phòng Van Helsing. Giáo sư đã nới với chúng tôi những gì ông chờ đợi ở từng người, song người ông quan tâm nhiều hơn cả tất nhiên vẫn là Arthur, cứ như thiện ý của tất cả chúng tôi chỉ tùy thuộc ở anh ta không bằng.
Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc bày tỏ hy vọng cả ba chúng tôi sẽ nghe theo lời ông, “bởi chúng ta - ông nói cụ thể phải cùng nhau hoàn thành một nhiệm vụ vừa thiêng liêng vừa rất khó nhọc.” - Chắc là anh đã rất ngạc nhiên khi đọc thư tôi? – Ông hỏi Arthur.
- Vâng, quả là như vậy. - Arthur trả lời. - Tôi đã có quá nhiều chuyện phiền muộn, quá nhiều điều phải bận tâm trong thời gian qua. Cầu mong tôi có đủ nghị lực để dễ dàng vượt qua tất cả! Tôi và Quincey đã nói với nhau rất nhiều về lá thư của ngài. Chúng tôi chưa hiểu chính xác lá thư ấy định nói gì. Càng bàn, chúng tôi càng không hiểu. Tôi chỉ có thể nói dù đã nghĩ nát óc, rất cuộc tôi vẫn chẳng rõ...
- Cả tôi cũng chịu chết, thưa giáo sư. - Quincey ngắt lời.
- Ồ? Vậy thì các anh sẽ hiểu vấn đề nhanh hơn anh bạn John đây. Ánh ta đã phải đì đẹt suốt cả một chặng đường dài, để bây giờ mới bắt đầu láng máng nhìn ra những gì ngay trước mặt.
Rõ ràng là dù tôi chưa tham gia một lời nào, ông vẫn đoán được là tôi còn chưa hết nghi ngờ. Ông quay sang giải thích với hai vị khách kia bằng một vẻ hết sức nghiêm trọng :
- Tôi định xin các anh cho phép tôi tối nay được làm cái việc mà tôi cân nhắc là phải làm. Có thể tôi đòi hỏi ở các anh hơi nhiều. Chỉ khi nào biết ý định của tôi, các anh mới cân đong những đòi hỏi mà tôi đưa ra. Vậy tôi có thể đề nghị các anh cho phép tôi mà không cần quan tâm đến việc tôi phải làm là gì, để sau đó, nếu muốn, - điều này tôi nghĩ rất có thể xảy ra - các anh cũng chẳng có gì phải tự trách mình không?
- Vậy thì xin giáo sư cứ nói thẳng ra. - Quincey sốt sắng đề nghị. - Tôi tin ở giáo sư. Dù chưa biết ngài đi về đâu, nhưng lúc nào tôi cũng hiểu rằng trong bết cứ hoàn cảnh nào, dự định của ngài cũng đều là tất đẹp. Và với tôi, chỉ cần thế là đủ.
- Cảm ơn anh bạn trẻ. Thật vinh dự khi có một người bạn đáng tin cậy như anh, và sẽ chẳng bao giờ tôi quên được điều đó Van Helsing đáp lễ và chìa tay cho Quincey.
- Thưa bác sĩ Van Helsing, - Đến lượt Arthur lên tiếng - tôi thật không muốn mua mèo trong túi như người ta vẫn nói, nhưng điều tôi lo ngại là ở chỗ nếu danh dự của một nhà quý tộc và đức tin ở Chúa lòng lành của tôi bị tổn hại, thì chắc chắn tôi không thể đưa ra lời hứa như ngài đã đề nghị. Ngược lại, nếu ngài đảm bảo với tôi điều mà ngài định làm không gây nguy hại đến người này hay người khác, thì tôi có thể để ngài được tự do hành động ngay bây giờ, cho dù tôi không rõ là ngài đang dự định điều gì.
- Tôi xin chấp nhận các điều kiện của anh, - Van Helsing đáp lời - và tất cả những gì tôi đề nghị bây giờ là trước khi phản đối hành động này hay hành động khác của tôi, các anh hãy nên suy nghĩ và tìm hiểu cho thật kỹ xem tôi có gì không đáp ứng được các điều kiện đó không.
- Đồng ý - Arthur hứa. - Bây giờ tôi có thể hỏi ông về những gì chúng tôi sẽ phải làm được rồi chứ?
- Tôi muốn các anh sẽ cùng tôi tới nghĩa trang Kingstead với một ý thức giữ bí mật tối đa.
Althur sửng sốt hỏi lại, mặt như dài ra :
- Tới nghĩa trang Lucy đang yên nghỉ?
Giáo sư gật đầu trả lời.
- Thế rồi sao nữa?
- Sao nữa à? Chúng ta sẽ cùng vào nhà mồ nhà cô ấy.
Arthur đứng bật dậy.
- Bác sĩ Van Helsing, ngài không đùa đấy chứ?... Xin lỗi, nhìn ngài thì không có vẻ gì là không nghiêm túc ở đây cả.
Arthur lại từ từ ngồi xuống, rõ ràng anh đang cố giữ ý tứ. Ngồi trầm ngâm một lát, anh mới hỏi nhỏ, vẻ nhượng bộ :
- Thế khi nào chúng ta vào trong đó?
- Chúng ta sẽ mở nắp quan tài của Lucy. - Van Helsing nói tiếp mà không trả lời thẳng vào câu hỏi của Arthur.
- Ngài thật quá quắt! - Arthur đứng phắt dậy, vẻ tức giận ra mặt. - Cái gì cũng vừa vừa, phai phải thôi chứ! Tôi chỉ có thể kiên nhẫn trong chừng mực nào đó, nhưng đằng này... cái kiểu làm ô ụế chỗ an nghỉ... của một người đã...
Cơn thịnh nộ làm cho Arthur không thể nói được nữa.
Van Helsing buồn buồn nhìn anh, vẻ thương hại :
- Anh bạn tội nghiệp ạ, nếu như tôi có thể tránh gây cho anh bị xúc động mạnh như vậy thì chắc rằng Chúa luôn biết tôi sẽ làm điều đó? Nhưng đêm nay, chúng ta vẫn buộc phải đi vào một con đường đầy chông gai, nếu không sau này, mãi mãi về sau này, người con gái.anh hằng yêu thương sẽ phải chìm ngập trong những nẻo đường đầy lửa bỏng của địa ngục!
Arthur ngước mắt nhìn ông bác sĩ già, mắt tái dại đi.
- Thưa ngài bác sĩ, xin ngài ăn nói cẩn thận cho!
- Có lẽ trước hết, các anh hãy chịu khó lắng nghe tôi nói ra những gì tôi phải nói đi. - Van Helsing điềm tĩnh đáp lại. Nói cho cùng thì anh vẫn rất cần phải biết ý định của tôi. Anh cớ muốn tôi nói ngay cái ý định đó ra bây giờ không?
- Có khi nên thế thì tốt hơn! - Quincey muốn nói như muốn làm dịu đi bầu không khí nặng nề của cuộc nói chuyện.
Van Helsing ngồi yên lặng một hồi lâu, dường như ông đang chuẩn bị tinh thần để nói ra cái điều mà ông thấy là rất khó nói. Cuối cùng, ông vẫn phải đi thẳng vào vấn đề :
- Cô Lucy đã chết rồi, đúng không ạ? Tất nhiên ai trong chúng ta cũng biết điều đó. Nếu đúng là như vậy thì sẽ chẳng có gì làm hại được cô ấy. Nhưng nếu cô ấy không chết thì...
Arthur bỗng nhảy chồm đậy và gào lên :
- Lạy Chúa? Ngài đang lải nhải cái gì thế? Chẳng lẽ lại là một trò bịp bợm ? Chẳng lẽ người ta đã chôn sống cô ấy?
- Tôi không nói là khi đó, cô ấy còn đang sống, anh bạn ạ, và tôi cũng không hề nghĩ như vậy. Tôi chỉ nói có thể cô ấy đã trở thành một kẻ không chết, thế thôi.
- Không chết? Rồi lại không sống nữa chứ gì? Ngài nói như vậy là thế nào? Chẳng lẽ tôi vẫn chưa qua được cơn ác mộng của đời mình hay sao?
- Trên đời luôn có những điều bí ẩn mà trí tuệ con người chỉ biết phỏng đoán mà chẳng biết phải lý giải như thế nào; cũng có những bí ẩn mà mỗi thế kỷ trôi qua, người ta chỉ dần dần làm sáng tỏ được từng phần nội dung của nó mà thôi. Xin hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, quả thực chúng ta đang đứng trước một bí ẩn như vậy, và hy vọng chúng ta sẽ tìm được chìa khóa của nó. Hãy cứ để tôi tiếp tục công việc với sự cho phép của anh. Anh sẽ cho phép tôi đóng cọc vào người Lucy chứ?
- Ối trời cao đất dày ơi - Arthur bỗng rống lên thảm thiết, có vẻ như cơn tức giận và sự đau khổ của anh đã lên tới tột độ - Ôi, Chúa ơi! Đừng hòng có chuyện tôi để người ta làm nhục cô ấy. Bác sĩ Van Helsing, ngài làm giọt nước tràn ly rồi đấy! Tôi đã làm gì nên nông nỗi để ngài phải hành hạ tôi như vậy? Lucy có tội tình gì khiến ngài phải lôi bạn bè đến làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy như vậy? Ngài bị điên khi nói ra những lời rồ dại ấy, hay tôi điên khi phải nghe những lời ngài nói? Từ rày trở đi, xin ngài đừng mơ tưởng có thể làm ô uế nơi an nghỉ của cô ấy. Đừng hòng nhé! Tôi phải che chở cho cô ấy, Chúa sẽ chứng giám rằng tôi sẽ tìm mọi cách để làm tròn nghĩa vụ của mình?
Van Helsing rời khỏi đivăng, nơi ông ngồi từ nãy đến giờ, và nghiêm giọng đáp lại :
- Cả tôi cũng vậy, huân tước Godalming ạ, tôi cũng có một nghĩa vụ buộc phải hoàn thành mà không thể nào khác được. Đó là nghĩa vụ đối với mọi người, với chính anh và người con gái đã nằm xuống ấy. Tất cả những gì tôi cần ở anh bây giờ là tin ở tôi, theo tôi đến nghĩa trang để tận mắt chứng kiến, để thấy, để nghe những gì sẽ xảy ra. Sau đó, nếu tôi vẫn đưa ra lời đề nghị như vừa rồi và anh không tiện trả lời, thì tôi xin được... xin được thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp cần thiết. Mọi chuyện tôi sẽ giải thích với anh sau.
Giọng ông nhỏ dần, rồi im lặng, rồi lại chợt khẽ vang lên, nhưng lần này có vẻ hơi tủi thân :
- Nhưng tôi cầu xin anh hãy đừng giận tôi nữa! Trong suốt cuộc đời mình, chẳng mấy khi tôi được làm những việc dễ chịu cả. Thậm chí đã có lúc tôi phải giáp mặt với những việc đau xé lòng mà không thể bỏ qua. Anh tưởng tôi không biết nghĩ sao? Tôi cũng buồn lắm chứ, tê tái lắm chứ! Nhưng đời là vậy mà! Có mấy ai lúc nào cũng được như mong muốn của mình đâu. Tuy nhiên, tôi cùng phải thừa nhận rằng chưa bao giờ tôi phải làm tròn một bổn phận nào khó khăn như cái bổn phận đang chờ đợi tôi. Hãy tin ở tôi, anh bạn ạ, hãy tin là nếu có một ngày, tình cảm của mọi người đối với tơi bỗng thay đổi hẳn, chỉ còn lại tình cảm của một người bạn như anh thôi... Với tôi, như vậy cũng là quá đủ để xua đi những ưu phiền về cái giờ phút buồn tủi này, bởi tôi đã làm cái mà một con người có thể làm để anh vợi đi phần nào những vết thương lòng. Anh cứ thử nghĩ mà xem? Tại sao tôi phải lăn lộn như thế! Tại sao tôi cứ nhất nhất phải chuốc vào mình những việc phiền phức đến thế? Tôi từ Hà Lan sang đây để hết lòng chăm sóc một bệnh nhân. Đầu tiên, tôi đến chỉ là để đáp lại lời mời của anh bạn John đây. Sau đó, tôi đã không quản ngày đêm để chữa trị cho một cô gái - người đã dần dần mang lại trong tôi cảm hứng của một tình bạn thật sự. Biết nhắc lại chuyện này là không hay, nhưng tôi vẫn phải nói tôi cũng đã từng hiến máu cho cô ấy, giống như anh đã từng làm với dòng máu từ trái tim mình. Vâng, tôi đã cho cô gái một phần dòng máu của tôi. Song chỉ có điều với cô ấy, anh là một người chồng chưa cưới, còn tôi, tôi chỉ là một thầy thuốc và hơn chăng cũng chỉ là một người bạn. Tôi đã dành cho cô ấy trọn nhiều ngày, thậm chí là nhiều đêm nữa, và tôi không chỉ làm vậy trước khi cô ấy chết, mà còn suất cả thời gian cô ấy không còn sống nữa. Nếu như cái chết của tôi có thể làm nhẹ đi phần nào cái số mệnh nghiệt ngã của cô gái, người hiện đã trở thành một kẻ bất tử, thì tôi xin được sẵn sàng ngay lập tức.
Thật không khó để nhận ra trong giọng nói của Van Helsing có hàm chứa một cái gì đó thật chua chát, song cũng không thiếu sự cảm thông. Tôi hiểu Arthur cũng đang rất xúc động trong một tâm trạng rối bời, bởi sau một hồi im lặng ngồi nghe vị giáo sư tâm sự, anh đã run run đứng dậy bắt tay ông như một cử chỉ hối hận, và đáp lại bằng một giọng như đứt hơi :
- Trời ơi! Mọi sự sao mà rối bời, tang thương và khó hiểu đến thế! Nhưng thôi được, tôi sẽ theo giáo sư đến nghĩa trang. Rồi chúng ta sẽ thấy...
Xem tiếp chương 16