Chương 19
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 1 tháng 10, 5 giờ sáng
Tôi cùng mọi người đến nhà Carfax trong một tâm trạng thật thoải mái, bởi chưa bao giờ tôi thấy Mina khỏe khoắn và tự tin đến thế. Nếu như để cô ấy trực tiếp tham gia vào công việc của chúng tôi thì thế nào cô cũng khó tránh được những cơn ác mộng, nhưng may quá bây giờ cô ấy đã chịu để chúng tôi hành động một mình, nên tôi cũng phần nào yên tâm. Vả lại, tôi còn hy vọng cô ấy đang nghĩ mình đã làm cái điều cần phải làm rồi: tất cả các chi tiết nhỏ nhặt nhất đã được tập hợp lại, nếu như có ích cho chúng tôi thì chẳng phải là nhờ công sức và sự thông minh của cô đó là gì?
Tôi tin rằng tất cả chúng tôi đều bị ám ảnh sau cuộc viếng thăm Renfield. Từ lúc ra khỏi phòng hắn, chúng tôi chẳng ai nói với ai một lời. Chỉ tới khi trở về phòng làm việc của Seward, tôi mới thấy Moriss lên tiếng :
- John này, nếu như Renfield không phải là kẻ lừa bịp, thì đây quả là một thằng điên có lý trí nhất mà tôi từng thấy từ trước tới nay! Tôi không dám phán lung tung, nhưng hình như trong đầu hắn đang nung nấu một điều gì đó thật sự nghiêm túc thì phải, bởi vậy, ông nên để mắt tới hắn!
Tôi và huân tước Godalming không thấy có gì đáng chú ý, nhưng bác sĩ Van Helsing lại khác, ông nói :
- Anh bạn John ạ, tôi thật vui mừng khi thấy anh là người đã hiểu mọi giai đoạn phát bệnh của các bệnh nhân tâm thần hơn tôi, bởi nếu là người phải ra quyết định, có lẽ tôi đã cho thả Renfield ngay trước khi hắn rơi vào tình trạng quá khích như vậy. Nhưng cho tới lúc này, càng ngày chúng ta càng hiểu rõ những gì liên quan đến mình, vì vậy, như anh bạn Quincey đã nói, chúng ta không thể làm bừa một điều gì khi công việc chúng ta đang đảm đương là một nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm. Mọi sự đều diễn ra tuần tự theo chiều hướng vốn phải có của chúng.
Dường như bác sĩ Seward định trả lời cả hai người cùng lúc thì phải :
- Đúng là như vậy. Nếu hắn giống như nhiều bệnh nhân khác, tôi sẽ chẳng ngại gì mà không cho hắn thấy rằng tôi rất tin tưởng ở hắn. Nhưng đằng này, cách xử sự của hắn lại có vẻ tùy thuộc rất nhiều vào chuyện đi lại của lão bá tước. Nếu để hắn đi mà không chú ý tới tính khí thất thường của hắn, tôi sẽ phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được. Có lần, đứng trước mặt tôi, hắn đã luôn mồm lải nhải gọi lão bá tước là “Đức ông” và “ông chủ” của hắn. Tôi nghi có thể hắn đang chuẩn bị giúp Dracula thực hiện một sứ mệnh ma quỷ nào đó Con quỷ này có khả năng sai khiến chó sói và lũ chuột bẩn thỉu, đó là chưa nói đến các thực thể giống y như lão: vậy thì làm sao hắn không nghĩ tới việc bắt một thằng điên phải phục tùng mình kia chứ? Đúng, có vẻ như Renfield đã nói năng rất nghiêm túc, tôi nhận ra điều đó mặc dù cũng biết rất rõ về căn bệnh của hắn. Tôi hy vọng chúng ta làm đứng những gì cần phải làm. Nhưng đlều này lại xảy ra đúng. Vào lúc chúng ta đang tiến hành các cuộc tìm kiếm tang tóc, nên tôi sợ sẽ làm nhụt ý trí của một người.
Giáo sư mỉm cười bước tới vỗ vai Seward và trấn an :
- Anh bạn thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả! Đúng là chúng ta đang nỗ lực đảm đương một sứ mệnh thực sự khủng khiếp, và chúng ta chỉ có thể hành động bằng một lý trí mà chúng ta thấy là đúng đắn nhất, nhưng thiết tưởng cũng nên hy vọng ở lòng nhân từ của Chúa chứ!
Không hiểu ít phút trước, Huân tước Godalming bước ra ngoài làm gì, chỉ thấy khi quay trở lại, anh đang tung hứng một chiếc còi bạc trên tay.
- Có thể ngôi nhà ấy sẽ đầy nhung nhúc chuột. – Anh giơ chiếc còi ra trước mặt chúng tôi và giải thích. - Tôi có cái này để đuổi lũ vật bẩn thỉu ấy ra chỗ khác.
Chúng tôi lặng lẽ đi về phía ngôi nhà bị bỏ hoang, nép dưới các tán lá cây để tránh nguy cơ bị lộ vì ánh trăng có thể bất ngờ ló rạng sau các đám mây bất cứ lúc nào. Tới trước cửa ngôi nhà, Van Helsing mở túi xách lấy ra hàng tá những đồ vật nhỏ và đặt xuống ngưỡng cửa thành bốn đụn nhỏ - rõ ràng là mỗi đụn ấy được sẽ được chia cho một người trong chúng tôi.
- Các bạn ạ, - Ông giải thích - chúng ta đang phải đương đầu với một thách thức cực kỳ nguy hiểm, bởi vậy, cần phải có đủ loại vũ khí. Mối đe dọa từ kẻ thù không chỉ là khả năng ra lệnh cho các linh hồn. Nên nhớ rằng chỉ một mình lão cũng thừa sức để địch lại cả hai chục người gộp lại. Với quyền năng đầy mình của lão, việc chúng ta đánh lão bị thương còn khó chứ chưa nói gì đến chuyện... Vả lại, nếu bị thương, lão còn nổi điên, khiến chúng ta khốn nạn hơn gấp vạn lần ấy chứ. Bởi vậy, cẩn thận một chút vẫn hơn. Anh đeo cái này lên ngực đi - ông đưa cho tôi một cây thánh giá nhỏ, bởi tôi là người đứng gần ông nhất - và cả tràng hoa này nữa – ông đưa tiếp cho tôi một tràng hoa tỏi khô để quàng lên cổ. Cầm luôn lấy khẩu súng ngắn và con dao, chúng ta vẫn chưa biết còn có kẻ thù nào khác nữa. Mỗi người cầm lấy một cái đèn cất vào áo vét, và hãy nhớ lấy điều này: tất cả chúng ta, không ai được phép lọ mọ đi lung tung trong nhà đấy, nhớ chưa?
Ông cầm một chiếc bánh thánh bỏ vào một bì giấy nhỏ rồi đưa cho tôi.
Những người còn lại cũng nhận được số “vũ khí” tương tự như của tôi :
- Mà này, John, mấy cái móc khóa đầu rồi nhỉ? – Giáo sư hỏi bác sĩ Seward.
- Nếu mở được cửa lớn, chúng ta sẽ không phải trèo qua cửa sổ như lũ trộm. Hôm ở nhà Lucy, chúng ta cũng đã làm như vậy mà.
Loay hoay một lúc Seward mới chọn được một chiếc móc vừa với ổ khóa ngôi nhà. Đối với anh, chỉ cần thế là đủ để mở khóa cửa. Cánh cửa nặng nề nghiến ken két khi bị đẩy vào. Tiếng kêu ấy làm tôi nhớ ngay đến hình ảnh bác sĩ Seward cùng mấy người vào nhà mồ của gia đình Westenra mà anh đã kể lại trong nhật ký. Hình như những người còn lại cũng đang có liên tưởng như tôi, bởi họ bỗng cùng lúc đứng sững cả lại Giáo sư Van Helsing là người quyết định bước vào trước.
- In manus tuas, Domine! - Ông lẩm bẩm niệm điều gì đó khi bước qua ngưỡng cửa.
Chúng tôi thận trọng khép cửa lại. Lúc này, mỗi người chỉ còn chú ý đến ánh đèn rọi từ tay mình. Giáo sư cẩn thận kiểm tra lại chất cửa đề phòng trường hợp chúng tôi phải khẩn cấp chạy tháo lui. Cuộc điều tra ngôi nhà bỏ hoang bắt đầu.
Trong vệt sáng vàng ệch từ cây đèn pin nhỏ, tôi thấy đồ vật nào ở đây cũng mang một hình thù quái dị. Đã thế, ánh đèn của người này thỉnh thoảng lại dọi loáng qua người khác, khiến cho cái bóng của chính chúng tôi cũng trở nên rất đáng sợ. Tôi không thể xua đuổi được cái cảm giác chúng tôi không phải là những người duy nhất có mặt trong ngôi nhà tối tăm này. Có lẽ hồi ức kinh hoàng ở Transylvanie đã bất thần trở lại với tôi giữa đêm đen lạnh lẽo nơi đây. Tuy nhiên, tôi tin rằng không riêng gì tôi, mà tất cả những người bạn kia cũng có chung một cảm giác lo ngại như tôi, bởi cứ mỗi lần nghe thấy một tiếng động nhỏ, hoặc bất giác ngờ ngợ thấy một cái bóng đổ dài lên tường, là ai nấy đều giật mình ngoảnh lại nhìn.
Trong nhà, chỗ nào cũng đầy bụi là bụi. Tôi có cảm giác trên nền nhà, trừ những chỗ mới có dấu chân người, bụi dày dễ đến cả đốt ngón tay. Các bức tường cũng vậy, bụi bám lô nhô như một lớp lông bẩn thỉu; ở các góc tường, bụi bám thành mảng trên các lớp mạng nhện treo lơ lửng khiến cho tôi tưởng trên đầu mình đang lơ lửng những mảnh vải bố bị xé rách nham nhở. Trên một mặt bàn kê ngoài hành lang, có một xâu chìa khóa to bự, ở mỗi chìa đều có gắn một mảnh nhựa ghi số phòng đã bị ố vàng bởi thời gian. Có vẻ như những chiếc chìa khóa này đã được sử dụng không ít lần, bởi tôi thấy những vệt nhỏ kéo dài trên lớp bụi ở mặt bàn rất giống.ong với những đường rãnh khi giáo sư vừa nhấc xâu chìa khóa lên.
Giáo sư cầm xâu chìa khóa và quay sang bảo tôi :
- Jonathan này, anh là người biết rõ ngôi nhà này hơn ai hết, anh lại có trong tay các bản bình đồ của ngôi nhà - hoặc ít nhất là các bản sao - mà chắc chắn là anh đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu, vậy thì anh vẫn còn nhớ điện thờ của ngôi nhà này nằm ở chỗ nào chứ?
Tất nhiên là tôi biết rất rõ vị trí nhà thờ nằm ở đâu, cho dù trong lần đầu tiên tới thăm ngôi nhà này, tôi vẫn chưa có dịp được vào trong đó. Tôi dẫn mọi người đi lòng vòng qua mấy khúc hành lang, đến trước một ô cửa bằng gỗ sồi có khung vòm bên trên.
- Đúng là đây rồi! - Giáo sư vừa nói vừa rọi đèn kiểm tra bản sao bức hoành đồ mà tôi từng sử dụng khi mua ngôi nhà.
Phải thử một lô chìa ông mới tìm được một chiếc vừa ổ khóa. Chúng tôi chờ đợi một điều gì đó rất khó chịu sắp sửa xảy ra. Quả thực là lúc cánh cửa chỉ vừa hé mở, mùi hôi thối nồng nặc đã lập tức xộc ra, khiến chúng tôi lập tức mường tượng tới cảnh phải hít thở cái không khí tởm lợm khi phải bước vào bên trong.
Ngoại trừ tôi, chưa có ai trong nhóm được nhìn thấy lão bá tước. Về phần mình, lúc tôi nhìn thấy lão là lúc lão hoặc đang rúc ở đâu đó trong các căn phòng bụi bặm của mình, hoặc đang đầy mọng máu trong một ngơi nhà đổ gần như ở ngoài trời. Nhưng nơi chúng tôi đang đứng đây lại hoàn toàn chật chội và kín như bưng với một bầu không khí tù hãm không biết từ đời thừa nào. Tôi cảm thấy có mùi của đất, và càng lúc càng cảm thấy rặt một mùi chướng khí tràn ngập. Tôi thật không biết phải mô tả như thế nào về bản chất thực có của cái mùi xú uế ấy. Không chỉ tất cả những tà ác gây nên chết chóc trên đời được nhập vào đấy, mà dường như chính bản thân sự thối rữa cũng đang biến chất để làm nên cái địa ngục này. Chỉ nghĩ thế thôi cũng đủ làm tôi sinh bệnh rối! Mỗi hơi thở của quỷ dữ dường như đều gắn với từng hòn đá trên bốn bức tường của điện thờ!
Có lẽ trong những tình huống khác, chỉ cần ngủ thế thôi là chúng tôi cũng phải bỏ cuộc rồi. Nhưng trước mắt chúng tôi là một cái đích quan trọng và hệ trọng, đến mức chúng tôi buộc phải vượt qua những trở ngại kinh tởm nhất. Sau khi đứng sững lại và nhảy giật lùi theo phản xạ tự nhiên, chúng tôi lại sực nhớ tới công việc nên cứ phải coi nơi đây như một vườn hồng.
- Trước hết, - Giáo sư nói - cần phải xem còn lại bao nhiêu thùng gỗ nữa. Phải kiểm tra mọi góc ngách, hang hốc và mọi dấu vết có thể giúp chúng ta phát hiện ra một cái gì đó!
Chúng tôi không gặp trở ngại gì khi đếm các thùng gỗ, bởi thực ra đó toàn là những hòm gỗ có kích cỡ khá lớn. Không thể có chuyện nhầm được! Tổng số theo giấy tờ là năm mươi thùng, nhưng ở đây chỉ còn lại hai mươi chín! Trong khi đếm, đã có lúc tôi giật mình sợ run khi thấy huân tước Godalming bất ngờ quay ra kiểm tra cánh cửa đang khép hờ nhìn ra ngoài một hành lang tối đen. Tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi có cảm giác ánh mắt sáng quắc của lão bá tước đang nhìn xuyên qua cái màn đêm tưởng như có thể sờ được kia, rồi tôi hình dung ra dưới con mắt ấy là cái mũi khoằm, đôi môi mọng đỏ nổi bật trên bộ mặt lúc nào cũng trắng bệch... Khoảng một phút sau, huân tước Godalming quay trở lại, miệng lẩm bẩm: “Cứ tưởng một thằng chết giẫm nào, hóa ra chỉ là mấy cái bóng vớ vẩn.” Tôi cẩn thận lia đèn ra cửa và ngoài hành lang, nhưng rõ ràng là không có ai cả. Ở đây không có góc ngách, không có cửa giả, cũng chẳng có một khe hẻm nào, tất cả chỉ là những bức tường phủ dày bụi. Tôi phải kiểm tra để chắc chắn rằng trong này không có chỗ để một kẻ nào đó có thể ẩn náu - kể cả lão. Sự sợ hãi đã biến tôi thành nạn nhân cho sự tưởng tượng của chính mình. Tuy nhiên, ai dại gì hé răng nói ra chuyện này.
Vài phút sau, đang ngó nghiêng kiểm tra một góc nhà thờ, Moriss bỗng hốt hoảng nhảy ngược trở ra. Chúng tôi giật mình đổ dồn mắt về phía anh. Người tôi lạnh toát mồ hôi khi thoáng nhận ra những đốm sáng lập lòe như những ánh lân tinh ẩn hiện lao vụt qua trước mặt. Chúng tôi lập tức lùi lại theo bản năng. Chỉ trong nháy mắt, không biết cơ man nào là chuột chạy náo loạn trong nhà thờ hoang.
Cảnh tượng trước mặt làm chúng tôi thực sự khiếp sợ. Chỉ có huân tước Godalming vẫn tỏ ra bình thản như không, có vẻ như anh đã lường trước được sự việc. Anh lao nhanh tới ô cửa gỗ sồi, rút then, mở toang cánh cửa, rồi lấy chiếc còi bạc thổi liền một hơi. Nghe thấy tiếng còi rên rỉ như tiếng mèo hen, lũ chó sau nhà thương điên đồng loạt sủa inh ỏi cả một vùng. Khoảng hơn một phút sau, có ba con chó săn thú hang lập tức chạy vòng vào góc ngôi nhà hoang. Chúng tôi vẫn lùi lại một cách vô thức. Lùi đến gần cửa, tôi để ý thấy lớp bụi ở đây cũng đã bị giày xéo bởi nhiều vết giầy: hẳn là các thùng gỗ bị thiếu kia đã được chuyển qua lối này. Nhưng đó cũng chính lúc thêm một đàn chuột khác thình lình ào tới hợp bọn với lũ chuột trước tạo nên một cảnh tượng náo loạn, hãi hùng trước mắt chúng tôi. Chúng chạy tràn ra khắp nhà thờ cùng những tiếng kêu chí chóe lạnh gáy, con nào con nấy mắt sáng quắc như đom đóm lập lòe dưới nền đất. Mấy con chó hung hăng định nhảy xổ vào, nhưng không hiểu sao vừa đến ngưỡng cửa, chúng bỗng khựng cả lại, gầm gừ, tru tréo hệt như loài sói. Đàn chuột, dễ có đến cả nghìn con, tiếp tục hoành hành điên loạn trong nhà thờ. Chúng tôi hất hoảng nhảy bổ ra ngoài cửa.
Huân tước Godalming ôm xốc một con chó quẳng vào trong nhà thờ. Chân vừa chạm đất, con chó chuyên săn thú hang lập tức lấy lại sự can đảm vốn có và lao vào tàn sát không thương tiếc các đối thủ không đội trời chung của nó. Loáng một cái nó đã giết chết tươi hơn hai chục con chuột, nhưng cũng chỉ trong chừng ấy thời gian, lũ chuột đã tháo chạy tan tác, chúng trốn nhanh đến nỗi không để lại một cơ hội sát thủ nào cho hai con chó còn lại vừa lao vào trong nhà.
Lũ chuột đột ngột biến mất khiến chúng tôi cảm thấy quỷ dữ cũng vừa tháo lui. Lũ chó vẫn lăng xăng lùng sục khắp nhà, đuôi ve vẩy như rất vui mừng với chiến công vừa lập được. Chúng có vẻ rất khoái nhìn xác chết của những con chuột thiếu may mắn trên nền nhà. Chúng tôi thấy mình như vừa được tiếp thêm lòng can đảm. Không hiểu là do sự xuất hiện của mấy con chó săn, do bầu không khí tù hãm trong phòng đã được giải phóng khi các cánh cửa nhà thờ được mở toang, hay do tiếng thở phào của chính mình khi cảm thấy mình không còn bị nhất kín nữa, nhưng dù thế nào thì mối đe dọa đè nặng lên chúng tôi cũng phần nào được trút bỏ giống như người ta vừa trút bỏ được một mảnh áo bẩn thỉu khó chịu. Lũ chuột đi rồi, chúng tôi lại khóa cửa nhà thờ, cài chất, chằng dây xích và bắt đầu đi lục soát toàn bộ ngôi nhà. Vẫn không có gì đặc biệt nếu không phải là bụi, bụi phủ dày khắp các phòng còn lại, và điều đáng lưu ý là không có chỗ nào có dấu chân người, ngoại trừ những dấu chân do chính tôi để lại trong lần đến thăm nhà trước để làm thủ tục môi giới. Không thấy lũ chó có biểu hiện gì đặc biệt, kể cả lúc chúng tôi quay trở lại nhà thờ cũng vậy. Chúng chỉ chạy lăng xăng như thể đang được đi săn thỏ rừng trong một ngày đẹp trời vậy.
Khi chúng tôi ra ngoài cổng ngôi nhà cũng là khi một ngày mới sắp sửa bắt đầu. Van Helsing cẩn thận khóa cửa và bỏ chiếc chìa khóa vào túi. Tôi không rõ ông tháo chiếc chìa này từ xâu chìa khóa trong nhà từ lúc nào.
- Tốt rồi! - Ông nói. - Vậy là cuộc điều tra của chúng ta đêm nay đã diễn ra êm xuôi? Chúng ta đã biết có bao nhiêu thùng gỗ được chuyển đi. Hơn nữa lại không phải đối mặt với bất cứ sự nguy hiểm nào như tôi vẫn lo. Nhưng điều làm tôi vui nhất là chúng ta đã hoàn thành bước đầu của công việc mà không có sự tham gia của Mina, vì thế cô ấy sẽ không sợ bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng trong nhà thờ vừa rồi. Hơn nữa, cuộc điều tra này cũng cho chúng ta thấy một điều khá thú vị, nếu như không phải là một kết luận chắc chắn về một vấn đề khác hẳn: những con ôn vật ghê tởm chịu sự sai khiến của lão bá tước không phải lúc nào cũng tuân theo quyền năng tâm linh thuần túy của lão. Hãy cứ nhìn đàn chuột mà xem, các bạn sẽ thấy chúng xuất hiện ào ào khi có lệnh của lão - giống như trường hợp lão gọi bầy sói đến khi anh đòi ra khỏi lâu đài Dracula ấy, Jonathan ạ - nhưng rồi cũng biến mất ngay lập tức khi nhìn thấy những chú chó nhỏ kia! Đúng là chúng ta chỉ đang bắt đầu ở vào một thử thách. Đây không phải là lần duy nhất hay lần cuối cùng con quỷ này... sai khiến thế giới thú vật bằng quyền năng của mình. Lão chỉ tạm thời biến mất trước khi tặng chúng ta một dịp được reo vui là “lão đã thất bại?” Cuộc chơi sẽ còn dài đấy. Bây giờ, chúng ta về nhà đi. Trời cũng sắp sáng rồi. Vậy là hôm nay, chúng ta đã có thể bằng lòng với đêm làm việc đầu tiên của mình.
Lúc trở về, tôi không thấy có gì đặc biệt trong nhà thương điên còn đang chìm trong giấc ngủ của bác sĩ Seward, ngoại trừ những tiếng kêu oai oái của một kẻ bất hạnh nào đó ở một phòng cuối hành lang, hoặc những tiếng rên rỉ trong phòng Renfield. Chắc là đầu óc hắn đang bị giày vò ghê gớm lắm - bởi đây là điều vẫn thường thấy ở những người bị rối loạn tâm thần.
Tôi rón rén đi về phòng. Mina vẫn đang chìm trong giấc ngủ, hơi thở của cô chậm và nhẹ đến nỗi tôi phải ghé sát người xuống môi nghe được. Chỉ tới lúc này tôi mới giật mình để ý thấy cô có vẻ xanh xao hơn bình thường. Mong sao cuộc họp hôm qua không làm cô nghĩ ngợi nhiều? Thật may cô không tham già các cuộc điều tra, tìm kiếm hoặc các quyết định của chúng tôi nữa. Rất có thể cô sẽ lo sợ khi nghe chúng tôi bàn về một vài điều gì đó. Tuy nhiên, biết đâu việc chúng tôi giấu cô có khỉ còn làm cô khủng hoảng hơn nếu một lúc nào đó, cô bỗng nghi ngờ chúng tôi muốn cô lặng thinh về chuyện này hay chuyện khác.
Có thể trong thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng để cô tuyệt đối không nghi ngờ gì về các quyết định và công việc của mình - ít nhất là cho đến lúc chúng tôi có thể thông báo cho cô biết rằng cơn quỷ khát máu kia đã vĩnh viễn bị loại bỏ khỏi trái đất này. Đối vôi tôi, giữ im lặng hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng, nhất là khi hai chúng tôi có thói quen cái gì cũng tâm sự cho nhau nghe. Nhưng tôi đã quyết rồi, khi cô ấy thức dậy, nhất định tôi sẽ không kể gì về chuyện vừa xảy ra trong đêm. Nếu cô ấy có gặng hỏi, tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Trời sắp sáng hẳn, tôi rón rén tới nằm nghỉ trên ghế trường kỷ để khỏi làm phiền giấc ngủ của cô.
* * * * *
Ngày 1 tháng 10, một lúc sau
Chắc là không có chuyện gì bất bình thường khi chúng tôi ngủ một mạch tới tận trưa, vì cả ngày lẫn đêm hôm trước, chúng tôi chưa hề được ngả lưng một lúc nào. Mina chắc cũng rất mệt, bởi tôi - người thức dậy đầu tiên - đã phải hai, ba lần lay gọi cô mới chịu tỉnh. Cô ngủ say đến nỗi không nhận ngay ra trước mặt mình đang có người. Cô ngơ ngác và sợ hãi nhìn tôi cứ như người vừa trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp vậy. Thấy cô kêu mệt, tôi bảo cô cứ nán lại trên giường thêm ít phút nữa rồi dậy cũng được... Bây giờ, chúng tôi đã biết có hai mươi mất thùng gỗ đã biến mất trong ngôi nhà bỏ hoang. Bởi vậy, tôi phải điều tra cho rõ số thùng thiếu đó đã được chuyển đi đằng nào. Hôm nay, tôi sẽ tới nhà Thomas Snelling.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 1 tháng 10
Tôi thức dậy khi trời đã gần trưa. Van Helsing có mặt trong phòng tôi từ lúc nào tôi cũng không rõ. Trông ông có vẻ hồ hởi ra mặt, đây là điều rất ít thấy ở ông. Có lẽ những gì chúng tôi vừa phát hiện được đã làm cho tinh thần ông thoải mái hơn. Ông bắt đầu câu chuyện bằng việc nhắc lại một chút về cuộc điều tra đêm hôm qua, rồi chuyển sang nói về vấn đề bệnh nhân Renfield :
- Tay bệnh nhân của anh làm tôi chú ý đấy. Hôm nay, tôi có thể gặp hắn một lần nữa được không? Nếu bận, anh cứ để tôi đến với hắn một mình cũng được. Tôi thấy trường hợp của hắn cũng hay hay. Một thằng điên lại biết nói chính xác về lý luận và triết học mới chết chứ!
Quả thật hôm nay tôi rất bận, bởi vậy tôi phải bảo ông đến phòng Renfield một mình vì không muốn ông phải đợi cho mất thời gian. Tôi gọi một tay giám thị tới dặn mấy điều cần thiết và bảo anh ta dẫn ông đi. Nhưng trước khi ông bước ra khỏi phòng, tôi vẫn nhắc ông phải dè chừng.
- Tôi chỉ định nói chuyện về chính hắn - Ông đáp lại – và nỗi đam mê đã thúc đẩy hắn nuốt sống các côn trùng thôi mà. Hôm qua, tôi có đọc nhật ký của anh và biết rằng hắn đã nói chuyện với Mina. Nhưng anh cười cái gì vậy, John?
- Xin lỗi, nhưng lời đáp cho câu hỏi của ngài lại nằm ở đây - Tôi nói và đặt tay lên xấp giấy đánh máy - Khi tay bệnh nhân điên có lý trí và có giáo dục của chúng ta bàn về thói quen ăn các thực thể sống với tôi, quả thực mồm miệng hắn vẫn còn đính nhoe nhoét chân nhện và chân ruồi mà hắn vừa mới ăn ngay trước khi bà Harker bước vào phòng.
Van Helsing phì cười.
- Anh có một trí nhớ tuyệt đấy, anh bạn ạ! Lẽ ra tôi cũng nên nhớ chi tiết này mới phải, Tuy nhiên, cũng chính những khiếm khuyết tương tự trong suy nghĩ và trí nhớ lại là một sức hút lôi cuốn người ta nghiên cứu về các bệnh nhân tâm thần. Biết đâu khi tìm hiểu về căn bệnh điên qua biểu hiện lạ lùng của Renfield, tôi lại chẳng biết thêm về sự thông thái của con người? Ai mà biết được?
Nói đến đây, tôi phải đến văn phòng để bắt đầu công việc. Thời gian sao trôi nhanh quá, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy giáo sư quay lại.
- Tôi không làm phiền anh đấy chứ?
- Không, ngài cứ việc vào! - Tôi trả lời. - Tôi cũng vừa giải quyết xong mấy việc cần làm, bây giờ tôi có thể dẫn ngài đi nếu ngài còn muốn.
- Khỏi cần đi! Tôi đã gặp hắn rồi!
- Thế hả?
- Chỉ sợ hắn nghĩ về tôi chẳng ra gì. Cuộc nói chuyện thật chóng vánh. Khi tôi vào, hắn đang ngồi chồm hỗm trên chiếc ghế đẩu đặt giữa phòng, hai tay chống cằm, mặt lì lợm, khó chịu. Tôi cố gắng hỏi chuyện hắn bằng một thái độ vui vẻ và rất tôn trọng hắn, nhưng hắn vẫn không thèm trả lời. “Anh không biết tôi à?” - Tôi hỏi. Câu trả lời của hắn rõ ràng là không ổn: “Có chứ! Là ông già Van Helsing ngớ ngẩn chứ ai. Tôi muốn ông tìm chỗ khác mà chơi. Hãy đi mà nghiên cứu cái bộ não ngu ngốc của ông? Quỷ tha ma bắt ông đi, đúng là cái bọn Hà Lan đần độn!” Tôi không thể nói gì được nữa, còn hắn vẫn giữ cái bộ mặt cau có lì lợm của mình và quên hẳn sự có mặt của tôi. Vậy là cơ hội tìm hiểu thêm một điều gì đó từ tên bệnh nhân thông minh này đã qua. Để tự an ủi mình, có lẽ tối phải tìm đến nói chuyện với cô Mina hiền dịu thôi. John ạ, biết diễn tả với anh như thế nào về niềm vui trong tôi khi chúng ta giấu được cô ấy những gian khổ và hiểm nguy còn đang chờ đợi phía trước bây giờ nhỉ? Đành rằng cô ấy vẫn còn có thể giúp chúng ta được một số việc, nhưng chúng ta cũng phải làm sao cho phải đạo mới được.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài. Tất hơn hết là đừng để Mina phải lo lắng thêm điều gì. Tình hình bây giờ đang rất nguy hiểm cho chúng ta, những người đàn ông từng trải qua nhiều thời điểm gian khó trong mưu cầu sinh tồn của cuộc sống. Nếu cứ tiếp tục tham gia với chúng ta, thế nào người phụ nữ trẻ này cũng sẽ héo mòn mất.
Vậy là Van Helsing đã quyết định tìm đến trò chuyện với vợ chồng Harker. Lúc này, Quincey và Arthur đang tiếp tục đi tìm các thùng đất - hoặc ít nhất là lần theo dấu vết của chúng. Tối nay, chúng tôi sẽ lại có một buổi hội ý với nhau.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 1 tháng 10
Tôi cảm thấy rất ấm ức khi bị gạc ra ngoài cuộc như ngày hôm nay. Trong bấy nhiêu năm, Jonathan luôn tỏ ra rất tin tưởng ở tôi, nhưng hôm nay, tôi phải gặp anh mà không được biết gì về cuộc nói chuyện của bọn họ. Sáng nay, tôi dậy rất muộn, vì tôi đã rất mệt mỏi suốt cả ngày hôm qua. Jonathan cũng chỉ dậy trước buổi trưa không lâu... nhưng anh vẫn là người tỉnh giấc đầu tiên! Trước khi đi, anh nói với tôi bằng một giọng dịu dàng và âu yếm hơn bao giờ hết, nhưng tuyệt nhiên không thấy anh đả động một lời nào về cuộc điều tra ngôi nhà lão bá tước đêm hôm qua. Tuy nhiên, chắc hẳn anh vẫn hiểu tôi đang rất lo lắng về chuyện này. Tội nghiệp anh! Việc giữ im lặng sẽ càng làm cho anh bận lòng hơn vì tôi. Tất cả bọn họ đều nhất trí đặt tôi ngoài cuộc, và tôi chỉ còn biết chấp nhận. Nhưng cứ nghĩ người chồng đang ấp ủ nhiều điều bí mật đối với mình là tôi lại thấy ấm ức? Song tôi lại bật khóc như một đứa con nít khi nghĩ chỉ vì tình yêu dành cho tôi mà anh ấy phải giữ im lặng. Và số còn lại cũng vậy, họ là những người bạn hào hiệp và tất bụng, chỉ muốn đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho tôi mà thôi!
Tuy nhiên, những giọt nước mắt nóng bỏng lăn dài trên gò má đã làm tôi nhẹ lòng đi đôi chút. Tôi tự nhủ rồi cũng có ngày Jonathan sẽ kể cho tôi nghe tất cả. Còn bây giờ, tôi sẽ tiếp tục viết nhật ký như bình thường. Nếu có lúc nào anh nghi ngờ niềm tin của tôi, tôi sẽ cho anh biết cảm xúc, nghĩ suy của mình trong những dòng nhật ký ấy. Nghĩ vậy thôi, chứ hôm nay tôi vẫn buồn và uể oải lắm. Có lẽ đây cũng là hậu quả của những cảm xúc thái quá của tôi.
Tối hôm qua, tôi lên giường nằm ngay sau khi Jonathan và những người bạn ra khỏi nhà, đơn giản là vì họ khuyên tôi nên làm như vậy. Tôi không buồn ngủ, mà chỉ thấy lo, lo kinh khủng. Tôi chợt nghĩ về những gì đã xảy ra tử cái hôm Jonathan đến thăm tôi lần đầu tiên ở Luân Đôn, tất cả cứ như một màn kịch khủng khiếp mà các số phận đang nghiệt ngã tiến dần đến điểm cuối cùng của nó. Dường như hành động nào của chúng tôi, cho dù là có thiện ý nhất, cũng đều dính phải những kết quả tệ hại thì phải. Nếu tôi không đến Whitby, chắc gì Lucy đã phải chết. Trước khi tôi đến, có bao giờ cô ấy ra nghĩa địa đâu? Nếu như không cùng tôi đi dạo ở đó, cô ấy sẽ không thể mộng tới tới đó, và như vậy sẽ không có chuyện cô bị con quỷ kia làm hại. Trời ơi! Tại sao tự nhiên tôi lại vác mặt tới Whitby kia chứ? Vâng... thế là tôi lại khóc... Tôi tự hỏi không hiểu hôm nay mình bị làm sao. Jonathan hẳn không biết rằng tôi - người chưa bao giờ khóc vì tủi thân, và cũng chưa bao giờ rơi nước mắt trước mặt chồng mình - đã hai lần khóc vào ngày hôm nay. Nếu nhận ra điều này, chắc chắn anh sẽ bối rối vô cùng. Bởi bình thường ra, nếu có buồn về một chuyện gì đó, tôi cũng chẳng bao giờ để lộ ra mặt...
Hôm qua, tôi không biết mình ngủ thiếp đi từ lúc nào. Tôi chỉ nhớ mình chợt nghe thấy những tiếng sủa inh ỏi của lũ chó nhà và vô số những tiếng kêu lí nhí kỳ lạ vang lên từ phòng tên bệnh nhân Renfield, tức là căn phòng ở ngay dưới phòng tôi. Tiếp đó là một sự im lặng sâu thẳm khiến tôi không thể không cảm thấy lo lắng. Cảm giác mơ hồ khó chịu khiến. tôi phải vùng dậy nhìn ra ngoài cửa sổ. Sự im lặng và bóng tối, thỉnh thoảng được điểm thêm bằng một chút ánh trăng mờ ảo, làm cho đêm khuya càng trở nên huyền bí hơn. Không có gì động đậy ngoài ấy, tất cả bao trùm một vẻ sầu thảm và im lìm như trong một thế giới chết, ngoại trừ mệt làn sương mù bàng bạc bay rất chậm - chậm gần như tôi không cảm nhận được sự chuyển động là là mặt cỏ về phía ngôi nhà của nó, xem ra chỉ có làn sương ấy là hiện thân duy nhất của sự sống lúc này. Làn sương cứ bồng bềnh mãi trong tâm trí tôi, khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, bởi lúc trở lại giường nằm, tôi thấy mình bắt đầu lâng lâng như đang thiu thiu đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể ngủ được, làn sương vẫn đang bồng bềnh trong ý nghĩ của tôi, khiến tôi phải vùng dậy nhòm qua cửa sổ một lần nữa. Làn sương lúc này đã trải đài ra và lơ lửng tiến sát đến ngôi nhà: tôi trông rõ làn sương đầy đặc bám sát vào tường như đang muốn leo qua các ô cửa sổ. Renfield lúc này bỗng gào lên như chó dại, không hiểu hắn nói những gì mà thảm thương đến thế. Rồi tôi chợt có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng ai đó đang đánh nhau, có lẽ viên giám thị vừa vào phòng và bị hắn cự nự quyết liệt nên mới sinh chuyện đánh vật với nhau. Tôi sợ hãi về giường nằm, kéo chăn trùm kín đầu, bịt thật chặt hai tai. Lúc này, tôi không còn cảm thấy buồn ngủ nữa. Song cuối cùng thì tôi cũng dần dần thiếp đi, bởi sau một cơn mê, tôi chẳng còn nhớ những gì đã xảy ra cho đến tận. trưa hôm nay, khi Jonathan gọi tôi dậy. Phải định thần một lúc, tới mới nhận ra mình đang ở đâu và ai đang đứng trước mặt. Trong giấc ngủ li bì, tôi đã trải qua một giấc mơ thật quái gở, điều đó cho thấy tôi đã nghĩ ngợi và lo lắng như thế nào. Đúng là tôi vừa trải qua một giấc ngủ mê mệt!
... Tôi ngủ mê mình đang đợi Jonathan quay trở về. Lo cho anh khủng khiếp, nhưng tôi vẫn không tài nào cựa quậy để đứng dậy và làm theo ý muốn của bản thân: chân tay tôi, và cả đầu nữa, bỗng tê dại bởi một trọng lực rất nặng dè lên người. Trong cơn mê, tôi cảm thấy rất khó chịu và không thể điều khiển được ý nghĩ của mình. Lúc đó, tôi có cảm giác bầu không khí xung quanh có một mùi gì đó nằng nặng, ẩm ớt và lạnh toát. Tôi hất tung chăn ra và kinh ngạc nhận thấy căn phòng đang chìm ngập trong bóng tối. Ngọn đèn tôi vặn nhỏ đợi Jonathan khi nãy bây giờ chỉ còn là một đốm nhỏ đỏ quạch, phát ra một thứ ánh sáng chỉ vừa đủ nhìn trong một lớp sương mù đang mỗi lúc một dày đặc hơn trong phòng. Dù nhớ rất rõ là mình đã đóng cửa sổ trước khi đi ngủ, nhưng tôi vẫn muốn ra kiểm tra lại, chỉ có điều là chân tay tôi cứ như đang được làm bằng gỗ, không thể cử động gì được. Biết làm gì bây giờ? Tôi đã nhắm mắt, nhưng dường như vẫn hé nhìn được qua mi mắt (hình như các giấc mơ thường có những điều kỳ quặc như vậy). Màn sương mù vẫn mỗi lúc một dày đặc thêm, và bây giờ tôi đã nhận ra màn sương quỷ quái ấy vào phòng theo đường nào rồi: nó không vào theo cửa sổ như khói hoặc như hơi nước, mà theo các khe hở ở cửa ra vào. Một lát sau, lớp sương mù biến dần thành một cột mây - vâng, nếu tôi có thể gọi là như vậy - vươn cao vút lên trần nhà, và trên đỉnh đám mây hình như có ánh sáng của một đốm lửa trông như một con mắt nhỏ đỏ ngầu. Tất cả bỗng điên đảo trong đầu tôi. Dường như cột mây càng tích tụ dày đặc trong phòng bao nhiêu thì qua lớp sương mù, tôi càng đọc rõ dòng chữ Cột mây ngày, ngọn lửa đêm được ghi trong Kinh thánh bấy nhiêu. Chẳng lẽ đây lại là một cách cảnh báo mà tôi nhận được trong giấc ngủ? Cột mây được tạo thành bởi hai yếu tố ngày và đêm, bởi ở đó có ánh lửa trong con mắt màu đỏ Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy mình bị quyến rũ bởi cái hình ảnh đó. Một lúc sau, đốm lửa đỏ bỗng tách đôi tựa như hai con mắt. Hình ảnh ấy khiến tôi sực nhớ đến lời nói của Lucy về những tia nắng mặt trời buổi hoàng hôn hắt vào những ô cửa kính của nhà thờ Thánh Mary, khi tôi và cô ngồi trên vách đá ở Whitby. Tôi cũng bàng hoàng nhớ lại chuyện Jonathan từng được chứng kiến ba tạo vật quỷ quái bất ngờ hóa thành những hạt bụi dưới ánh trăng và hiện hình dần thành ba ả đàn bà dâm đãng. Sau đó tôi lịm đi trong cơn mê tối tăm mù mịt.
Trong một nỗ lực cuối cùng của trí tưởng tượng, tôi nhận ra một bộ mặt xanh tái chui ra từ lớp mây mù và cúi xuống gần tôi.
Có lẽ phải dè chừng những cơn mê kiểu như vậy, bởi vì nếu chúng thường xuyên tái diễn, chắc chắn đầu óc tôi sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôi định sẽ hỏi bác sĩ Van Helsing hoặc bác sĩ Seward xem tại sao tôi lại ngủ li bì như vậy, nhưng chỉ ngại họ lại lo vớ vẩn. Nếu tôi kể cho họ nghe cơn mê của mình, chắc chắn họ sẽ càng lo lắng vì tôi hơn. Tối nay, tôi sẽ cố gắng ngủ sao cho thật thoải mái. Nếu vẫn không ngủ được, có lẽ tối mai tôi sẽ xin họ một viên thuốc an thần. Tôi nghĩ chỉ dùng một lần thôi thì cũng chẳng có hại gì, và tôi sẽ có một đêm thật yên giấc. Cơn mê như vừa rồi chỉ có thể làm tôi mệt nếu tôi tiếp tục bị mất ngủ.
* * * * *
Ngày 2 tháng 10, 10 giờ tối
Đêm hôm qua, tôi ngủ thật sâu và không thấy mê man gì. Tuy nhiên, giấc ngủ say vẫn không làm tôi sảng khoái, cho đến hôm nay tôi vẫn còn cảm thấy khá mệt và bải hoải. Cả ngày hôm qua, tôi đã cố gắng đọc nhưng không được vì chứng ngủ gật. Buổi chiều, Renfield kêu muốn gặp tôi. Gã đàn ông khốn khổ tỏ ra rất tử tế khi nói chuyện với tôi, thậm chí lúc chào tạm biệt tôi, hắn còn hôn lên tay tôi và cầu Chúa ban phước lành cho tôi nữa. Tự nhiên tôi cảm thấy thương hại hắn đến phát khóc. Lại một lần nữa tôi tự nhủ mình phải giấu đi điểm yếu này, bởi nếu Jonathan biết tôi khóc, anh ấy sẽ buồn không biết để đâu cho hết.
Jonathan và những người bạn chỉ trở về khi gần đến bữa ăn tối với một vẻ mặt rất mệt. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để cho họ đỡ mệt, và coi đó là một niềm an ủi giúp mình dần dần quên đi sự mỏi mệt của chính mình. Sau bữa tối, họ lại khuyên tôi lên giường nghỉ, còn họ sẽ ra ngoài hút thuốc thư giãn, nhưng tôi thừa biết là họ muốn ra ngoài thông báo cho nhau nghe về công việc mà từng người đã làm được trong ngày. Nhìn Jonathan, tôi đoán là anh vừa khám phá ra một điều gì hệ trọng lắm. Nằm trên giường, tôi cảm thấy mình không thể ngủi được, vì vậy tôi đã đề nghị bác sĩ Seward cho tôi một viên thuốc an thần liều nhẹ. Tôi giải thích với anh rằng đêm hôm qua tôi ngủ không được ngon giấc cho lắm. Anh cho tôi một viên thuốc mà anh bảo là rất nhẹ và không gây tác dụng phụ... Tôi uống và nằm chờ giấc ngủ... Sau đó không lâu, tôi cảm thấy mình có vẻ như sắp chìm vào giấc ngủ... Nhưng đó cũng chính là lúc tôi lại vướng vào một nỗi lo sợ: chắc là tôi không nhầm khi dùng liều thuốc ấy đấy chứ? Có lẽ sẽ tất hơn nếu như tôi tỉnh ngủ suất đêm! Nhưng đã quá muộn rồi... Tôi đang chìm vào giấc ngủ bất khả kháng... Chào tạm biệt!
Xem tiếp chương 20