Chương 22
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 3 tháng 10
Tôi cảm thấy nếu không làm gì thì sẽ phát rồi lên mất, vì vậy, tôi lại phải viết nhật ký. Bây giờ là sáu giờ rưỡi, nửa tiếng đồng hồ nữa, chúng tôi sẽ lại ngồi điểm tâm với nhau ở phòng bác sĩ Seward. Anh và Van Helsing bảo tôi dù thế nào cũng phải cố gắng ăn một chút, để còn lấy sức tiếp tục làm việc. Hôm nay, biết đâu chẳng có việc đòi hỏi chúng tôi phải nỗ lực hơn nhiều. Tôi cầm bút viết đại vài dòng vào đây, bởi nếu dừng lại, tôi sợ mình sẽ lại nghĩ ngợi lung tung. Đúng là tất cả những gì chúng tôi biết cho đến nay vẫn chưa được dùng vào việc gì hết. Nhưng dù sao, tôi và Mina vẫn phải tin tưởng và hy vọng vào kết quả tốt đẹp cuối cùng. Nhà tôi vừa tâm sự rằng chính trong những lúc khốn khó như thế này chúng tôi mới chứng tỏ được sự chung thủy với nhau, vì vậy đừng để mình bị gục ngã trước hoàn cảnh, thế nào Chúa cũng sẽ bảo vệ chúng tôi đến cùng. Đến cùng? Ôi? Chúa ơi! Đến cùng cái gì mới được chứ?...
Khi bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward từ phòng Renfield trở về, chúng tôi lại ngồi bàn bạc với nhau về những việc cần phải làm. Trước tiên, Seward kể lại cho chúng tôi nghe chuyện của tên bệnh nhân: khi xuống tới phòng hắn, anh và Van Helsing thấy hắn đang nằm dài trên nền nhà, mặt be bét những vết thương, xương sống bị gãy nát.
Thực ra, trước đó bác sĩ Seward đã bảo một giám thị nhà thương trông nom và đứng gác ở hành lang ngoài cửa phòng hắn. Tay giám thị đã không làm tròn nhiệm vụ, bởi anh ta thú nhận rằng trong lúc trực, anh ta đã ngủ gà ngủ gật.
Chính cái lúc gà gật đó, anh ta giật mình khi nghe thấy những tiếng kêu thất thanh của Renfield trong phòng: “Chúa ơi? Chúa ơi!... Chúa ơi!...” Tiếp đó là một tiếng rơi huých nặng nề xuống nền nhà. Khi chạy vào, anh ta trông thấy Renfield đang nằm sóng soài dưới đất, đúng như hiện trạng mà Seward đã được chứng kiến. Van Helsing hỏi tay giám thị lúc đó có giọng nói của một hay nhiều người, nhưng anh ta đã không trả lời được. Lúc đầu, anh ta cảm giác trong phòng không thể chỉ có một mình Renfield, nhưng khi hộc tốc chạy vào ngay sau khi có tiếng va đập dưới nền nhà, anh ta chẳng trông thấy ai khác. Và anh ta thề rằng chỉ có Renfield kêu “Chúa ơi?” mà thôi.
Bác sĩ Seward nói với chúng tôi rằng anh không muốn đẩy sự việc đi quá xa, bởi thế nào nhà chức trách cũng sẽ tiến hành một cuộc điều tra, mà chúng tôi có tìm hiểu thêm vấn đề cũng chẳng có ích lợi gì cho việc nói ra sự thật, vì sẽ chẳng có ai tin vào sự thật mà chúng tôi nêu ra. Anh nói tốt nhất cứ bảo tay giám thị làm giấy chứng từ cho Renfield, với kết luận hắn bị tai nạn sau khi bị ngã lộn cổ từ trên giường xuống. Nếu có tiến hành điều tra, nhà chức trách cũng chỉ có thể cùng đi đến một kết luận như vậy mà thôi.
Nhưng sau đó, chúng tôi sẽ phải làm gì đây? Giờ quyết định đã điểm rồi. Tất cả những người đàn ông chúng tôi đều đồng ý với một quyết định: nếu không thể về Exerter, Mina lại một lần nữa trực tiếp tham gia nhóm chúng tôi, cô sẽ lại được biết mọi hành động của chúng tôi. Như vậy cô lại có dịp được chia sẻ niềm vui, nỗi buồn và cả tâm trạng lo lắng cùng chúng tôi trong mỗi lần ngồi bàn bạc, đồng thời cũng cũng là dịp để cô cố gắng chứng tỏ lòng can đảm của mình.
- Đừng, xin mọi người hãy đừng giấu tôi điều gì nữa có đựợc không? Tôi đã phải câm lặng và mù tịt trước rất nhiều chuyện rồi. Hơn nữa, qua những gì tôi vừa được biết, xin mọi người đừng tin là tôi không thể chịu đựng thêm được một điều gì ngoài những bất hạnh mà tôi đã phải trải qua tử trước đến nay? Ngược lại, tôi có lý đo để chính đáng để hy vọng và chứng tỏ sự dũng cảm của mình trước bất cứ một điều gì khác có thể xảy ra!
Van Helsing vẫn chăm chú ngồi quan sát cô từ nãy đến giờ, hình như ông đang nhận ra một điều gì đó khác thường ở cô thì phải, bởi ông bỗng dưng hỏi cô :
- Nhưng Mina, chẳng lẽ bà cảm thấy không sợ sau những gì vừa xảy ra ha sao?... Không phải là sợ cho bà, ý tôi muốn là sợ cho những người thân xung quanh bà kia?
Nét mặt cô chợt đanh lại, còn ánh mắt thì long lanh thể hiện sự chấp nhận hy sinh của một kẻ tử vì đạo. Cô trả lời :
- Không? Không! Bởi vì tôi đã quyết định rồi.
- Quyết định?... - Giáo sư tròn mắt hỏi lại.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau, bởi gần như ai cũng đoán ra điều cô muốn nói.
Cô trả lời thản nhiên như sự việc hiển nhiên phải là thế vậy :
- Đúng thế... Nếu bao giờ nhận thấy mình không còn muốn người mình yêu nữa, tôi sẽ chết!
- Bà không nói là bà sẽ tự tử đấy chứ? - Giáo sư ngạc nhiên hỏi lại, giọng khàn khàn.
- Có chứa... Trừ phi tôi có một người bạn thật sự muốn chia sẻ với mình nỗ lực hoàn thành một nhiệm vụ khủng khiếp đến như vậy!
Cô đưa mắt nhìn vị giáo sư bằng ánh mắt đầy ý nhị. Nghe cô nói, ông từ từ đứng dậy xoa nhẹ lên mái tóc rối bời của cô và trịnh trọng nói :
- Mina ạ, bà đang có một người bạn đây. Ông ta sẽ hành động nếu nhừ bà rơi vào nguy hiểm. Chúa sẽ chứng giám cho tôi điều đó, tôi sẽ không bao giờ lùi bước trước hiểm nguy vì bạn bè mình, nếu cần, tôi có thể hành động ngay bây giờ. Nhưng, thưa bà...
Cảm xúc trào dâng trong lòng khiến ông nghẹn ngào không nói hết câu, phải một.lát sau, khi đã bình tĩnh trở lại, ông mới có thể nói tiếp :
- Có một người đã quên mình đứng giữa bà và thần chết. Bà không nên chết như vậy. Không có bất cứ bàn tay nào có thể đẩy bà đến với cái chất, trừ phi là bàn tay của chính bà. Cho đến ngày kẻ đã làm vấy bẩn cuộc sống của bà bị chết thực sự, bà sẽ không thể chết được! Bởi chừng nào còn một kẻ không chết còn sống để gây tội ác như lão, thì cái chết của bà sẽ làm cho bà trở thành một kẻ giống như lão. Bà phải sống? Bà phải chiến đấu, chiến đấu vì cuộc sống, kể cả khi bà tưởng rằng cái chết sẽ là một điều thiện nên làm. Bà phải chiến đấu chống lại chính thần chết, cho dù nó đến với bà trong lúc bà đau khổ hay vui sướng, ngày hay đêm, bình yên hay lúc gặp nguy hiểm? Để giải thoát cho tâm hồn của bà, tôi đề nghị bà hãy đừng chết... hoặc đừng bao giờ nghĩ tới cái chết, cho tới khi con quỷ kia bị hủy diệt!
Toàn thân Mina run bần bật như phải sốt, mặt tái nhợt như một xác chết thực sự. Chúng tôi vẫn ngồi im, bởi chẳng ai biết phải nói gì vào lúc này. Phải một lúc sau, khi đã trấn tĩnh lại, cô mới ngẩng mặt lên nói với giáo sư, giọng buồn buồn :
- Tôi xin hứa với ngài, người bạn thân thiết của chúng tôi, rằng nếu Chúa muốn tôi phải sống, tôi sẽ cố gắng hết mình cho tới khi những điều khủng khiếp kia kết thúc.
Sự dũng cảm và lòng quyết tâm của Mina chẳng khác nào một luồng sinh khí tiếp thêm sức mạnh và lòng can đảm cho chúng tôi trong cuộc chiến không cân sức chống lại kẻ thù độc ácđang chờ đợi mình ở phía trước. Vâng, tấm lòng cô đã khiến chúng tôi biết chấp nhận thêm những gian truant! không thể tránh khỏi để cứu sống cô.
Tôi hứa với cô rằng chúng tôi sẽ giao cho cô toàn bộ các tài liệu cất trong hòm cũng như các loại giấy tờ, nhật ký, hay cuốn băng từ mà chúng tôi nghĩ là cần thiết trong thời gian tới. Trong thời gian sắp xếp lại các tài liệu, cô vẫn cứ tiếp tục ghi nhật ký của mình. Viễn cảnh được bận bịu với công việc dường như đã làm cô cảm thấy dễ chịu hơn.
Như thường lệ, Van Helsing bắt đầu đi lại trước mặt chúng tôi và suy ngẫm lại toàn bộ tình hình từ trước tới giờ, sau đó ông sẽ nói chính xác những việc chúng tôi cần phải làm.
- Sau khi vào ngôi nhà hoang Carfax, - Ông bắt đầu đi vào vấn đề - tôi thấy chúng ta có lý khi chưa vội động chạm gì tới các thùng đất trong đó. Nếu không, lão bá tước sẽ dễ dàng đoán ra ý đồ của chúng ta và chắc chắn lão sẽ nghĩ cách cản trở chứng ta tìm ra các thùng còn lại. Cho đến bây giờ, lão vẫn không nghi ngờ gì về mục đích mà chúng ta đang hướng tới, thậm chí lão còn không biết chúng ta có thừa khả năng vô hiệu hóa tất cả các thùng đất của lão, khiến cho lão không còn một chỗ trú ẩn an toàn nào. Bây giờ chúng ta đã có đủ thông tin để sau khi đột nhập vào ngôi nhà ở Piccadiny, chúng ta cũng sẽ dễ dàng tìm ra các thùng gỗ còn lại. Như vậy, ngày hôm nay sẽ rất quan trọng với chúng ta, chưa biết chừng đây sẽ là ngày quyết định thắng lợi cuối cùng của chúng ta. Mặt trời lên sẽ soi tỏ nỗi bất hạnh của chúng ta và sẽ bảo vệ chúng ta cho tới khi những tia nắng cuối cùng trong ngày vụt tắt? Quả thực cho tới lúc đó, con quỷ kia sẽ không thể thay hình đổi dạng được. Lão sẽ chỉ có thể chui rúc vào trong lớp đất bao bọc để trú ẩn, lão không thể hòa mình Vào không khí hoặc chui người qua các khe cửa hẹp. Nếu muốn qua cửa, lão sẽ phải mở cửa như bất cứ một người nào khác. Vì vậy, chúng ta sẽ có cả một ngày để tìm ra và phá hỏng các sào huyệt của lão. Tối nay, kể cả khi chưa tóm được lão để tiêu diệt, chúng ta vẫn dồn được lão vào một nơi mà lão không thể thoát khỏi chúng ta được nữa.
Nghe đến đây, tôi không thể im lặng được nữa: ý nghĩ chúng tôi đang để phí từng phút, từng giây rất quý báu để giành lại niềm vui và mạng sống cho Mina đã khiến tôi không chịu nổi. Lúc nói chuyện cũng là lúc chúng ta không hành động! Như hiểu được sự sốt ruột của tôi, Van Helsing đã xua tay gạt đi :
- Đợi một lát, một lát nữa thôi, anh bạn Jonathan thân mến ạ! - Ông nói. - Đối với một việc quan trọng như thế này, chúng ta không nên vội vàng nếu muốn đi!đến thắng lợi cuối cùng. Lúc nào đáng hành động, chúng ta sẽ hành động? Các bạn cứ nghĩ mà xem, xét theo mọi khả năng thì ngôi nhà ở Piccadiny chính là nơi sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ nhiều vấn đề. Có thể Dracula đã mua nhiều ngôi nhà. Nếu vậy thì lão phải có nhiều giấy biên nhận mua nhà, sổ ký séc và cả các chìa khóa của từng ngôi nhà được mua nữa... Tất cả những thứ đó phải được cất ở đâu đó. Tại sao không phải là ở trong ngôi nhà yên ắng giữa thành Luân Đôn, nơi lão có thể ra vào bằng cổng chính hoặc cửa phụ vào bất cứ giờ nào thích hợp mà không bị ai chú ý? Chúng ta sẽ phải khám phá ngôi nhà Piccadiny và khi nào phát hiện ra những gì được chứa chấp bên trong, chúng ta hoàn toàn có thể săn đuổi con cáo già đến tận hang của nó... Các bạn thấy thế nào?
- Vậy thì đi ngay thôi! - Tôi thúc giục. - Đừng có chần chừ phí thời gian nữa?
- Nhưng làm thế nào để vào được ngôi nhà Piceadihy đó mới được chứ? - Van Helsing ôn tồn hỏi lại tôi.
- Thế nào cũng không quan trọng! - Tôi sốt ruột trả lời.
- Nếu cần thì cứ đùng sức mà vào, có vấn đề gì đâu nào!
- Thế còn cảnh sát thì sao? Chẳng lẽ khu phố đó lại không có cảnh sát? Và nếu có thì họ sẽ im miệng hết chắc?
Rõ ràng ông nói thật có lý, nếu ông chưa muốn chúng tôi lên đường ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi vẫn cố làm ra vẻ điềm nhiên đáp lại :
- Ngài cứ hay lo quá xa, có lẽ là không có cảnh sát đâu.
- Đừng nghĩ tới chuyện gàn nữa có được không? Tôi thấy khổ lắm rồi?
- Anh bạn ạ, tôi rất hiểu tâm trạng anh! Và tôi đâu có muốn làm cho anh nặng đầu thêm kia chứ Nhưng anh cứ thử nghĩ mà xem: chúng ta có thể làm gì được trong lúc ngoài phố có đầy những ánh mắt tình cờ? Đành rằng đã tới lúc chúng ta phải hành động, nhưng tôi cũng nghĩ nhiều rồi, cứ tin ở tôi, anh bạn ạ, cách đơn giản nhất bao giờ cũng là cách tốt nhất. Chúng ta muốn vào ngôi nhà đó trong khi chẳng có trong tay chiếc chìa khóa nào! Đó cũng là một vấn đề, đúng không nào?
Tôi gật đầu trả lời.
- Thế đấy. Bây giờ hãy giả thiết anh là người chủ của ngôi nhà, nhưng lại không có chìa khóa vì một lý do gì đó, thì anh sẽ phải làm gì nào?
- Tôi sẽ cho gọi một anh thợ khóa tử tế đến và bảo hắn mở bằng móc.
- Thế cảnh sát sẽ không tới can thiệp chứ?
- Không, nếu như họ nhận thấy rằng tay thợ khóa làm việc đó theo lời đề nghị của chủ nhà.
- Như vậy, - Ông nói và nhìn thẳng vào mắt tôi - điều duy nhất mà người ta có thể nghi ngờ là người vào nhà có đúng là chủ nhà thật sự hay không. Ngoài ra, sự thành công của phi vụ còn phụ thuộc vào sự cả tin của các nhân viên cảnh sát khu vực. Nhưng anh bạn Jonathan thân mến ạ, đôi khi anh vẫn có thể dùng móc mở khóa hàng trăm ngôi nhà ở Luân Đôn hoặc ở bất kỳ đâu trên thế giới này mà không sao, miễn là anh tạo ra một hoàn cảnh thích hợp và làm đúng lúc. Tôi có thể kể cho mọi người nghe một câu chuyện mà tôi đã từng đọc. Chuyện là thế này: có một quý ngài sở hữu một biệt thự tuyệt đẹp ở Luân Đôn. Mùa hè năm đó, do có việc phải đi Thụy Sĩ trong một thời gian khá lâu, khoảng dăm bảy tháng gì đó, ông đã chủ quan khóa cửa nhà trước khi lên đường và chẳng cần nhờ ai trông nom hết. Kết quả là sau khi ông đi được một thời gian ngắn, có kẻ trộm đã đập vỡ kính một ô cửa sổ nhìn ra vườn rồi đột nhập vào trong. Vào nhà rồi, hắn bèn mở tất cả các ô cửa sổ ở mặt tiền của ngôi nhà và đàng hoàng mở cửa chính đi ra ngoài ngay trước mắt đám cảnh sát. Sau đó, hắn công khai rao bán sạch mọi đồ đạc trong nhà bằng một tấm biển quảng cáo to tướng dán trên tường ngoài cổng, hắn đã nhờ một đại diện bán đấu giá tới bán tất cả đồ đạc của quý ngài đang ở Thụy Sĩ kia. Thế rồi chính ngôi nhà cũng bị hắn bán tống cho một chủ thầu xây dựng vì hắn đã tìm được giấy tờ sở hữu cất trong nhà. Tay chủ này đã bàn với hắn phá bỏ ngôi nhà vào một ngày cụ thể để cất lên một tòa nhà mới. Cảnh sát và chính quyền thành phố cứ tưởng hắn là chủ nhân thật sự của ngôi biệt thự nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp đồng xây dựng trao tay này. Chỉ buồn cho người chủ thật sự của ngôi nhà: từ Thụy Sĩ về, trước mắt ông chỉ còn là một cái hố vĩ đại thế chỗ cho ngôi nhà thân quen của ông. Nhưng biết làm sao được, mọi việc đều diễn ra hợp lệ, đúng nguyên tắc mua bán và xây dựng mà thành phố đã quy định. Có lẽ công việc của chúng ta cũng nên tuân theo các nguyên tắc tương tự. Không nên đến Piccadiny quá ốm để tránh sự soi mói của cảnh sát, chỉ có như vậy họ mới không tình cờ để ý thấy sự xuất hiện của chúng ta là không bình thường. Sớm lắm thì cũng chỉ được phép bắt đầu từ mười giờ trở đi, vì khi đó, thế nào người qua lại cũng nghĩ chúng ta chính là chủ nhân thực sự của ngôi nhà.
Tôi để ý nét mặt Mina như rạng ngời hẳn lên, vì rõ ràng Van Helsing nói rất có lý. Không chỉ có cô, mà cả chúng tôi cũng thừa nhận và hy vọng ở cách lý giải khôn ngoan của ông.
- Một khi đã vào nhà rồi, - Ông tiếp tục phân tích – có thể chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra nhiều dấu vết khác. Dù thế nào thì chúng ta cũng nên chỉ để lại một hai người ở đó, số còn lại phải đi ngay Bersmondsey và Mile End để tìm các thùng gỗ còn thiếu.
- Nếu thế, tôi cũng có ích cho mọi người đấy. – Huân tước Godalming hồ hởi đứng bật dậy nói. - Tôi sẽ đánh điện để người nhà chuẩn bị cho mọi người vài cỗ xe ngựa.
- Một ý kiến không chê vào đâu được? - Quincey reo to - Nhưng anh không sợ việc đi lại cồng kềnh như vậy qua các nẻo đường ở Walworth hay ở Mile End rất có thể sẽ gây chú ý cho thiên hạ sao? Tôi cho rằng chúng ta nên bắt xe dọc đường thì hay hơn, bởi như vậy ta có thể lên xuống xe lúc nào, chỗ nào cũng tiện.
- Anh chàng Quincey này thế mà thông minh gớm! - Van Helsing đùa vui. - Đúng là trong công việc nguy hiểm của chúng ta, càng ít bị để ý bao nhiêu càng tất bấy nhiêu.
Có vẻ như Mina càng lúc càng tỏ ra háo hức hơn, và tôi cũng rất vui khi nhận ra rằng cô đã tạm quên được cái đêm khủng khiếp của mình. Tuy nhiên, trông cô vẫn rất xanh xao và hốc hác, còn đôi môi thì khô co hẳn lại để lộ ra cả hai hàm răng. Dù không nói ra, nhưng thú thực là tôi đã lạnh cả sống lưng khi hên tưởng Mina với Lucy sau những lần cô bị Dracula hút hết máu, có điều là tôi chưa cảm thấy hai hàm răng của Mina nhọn hơn bình thường. Nhưng nói gì thì nói, từ khi tôi nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng trong đêm qua, mới chỉ vài tiếng đồng hồ trôi qua, biết đâu điều tồi tệ nhất đối với cô và chúng tôi lại chẳng xảy ra tương tự như trường hợp của Lucy...
Trước khi đến Piccadiny, chúng tôi quyết định phải phá hủy bằng được sào huyệt gần nhất của Dracula. Bởi nếu có bị lão phát hiện ngay, chúng tôi vẫn còn lợi thế để tiếp tục công việc của mình. Sự hiện nguyên hình của lão dưới dạng một người bình thường suất nhiều giờ còn ánh mặt trời khiến lão không thể giở trò ma thuật ra với chúng tôi có thể sẽ mang lại cho chúng tôi những dấu hiệu mới.
Van Helsing muốn rằng sau khi hành động ở Carfax xong, tất cả nhóm chúng tôi sẽ đến ngay Piccadiny. Hai bác sĩ chúng tôi sẽ ở lại đó, trong khi Quincey và huân tước Godalming sẽ lên đường tới Walworth và Mile End để phá nốt chỗ trú ẩn còn lại của Dracula. Van Helsing cho rằng có khả năng vào ban ngày, lão đang ở Piceadihy, nếu đúng là như vậy, chúng tôi sẽ túm được lão. Nhưng dù thế nào thì chúng tôi cũng phải hợp sức bám đuổi lão cho bằng được. Về phần mình, tôi không hoàn toàn tán thành kế hoạch của ông: tôi muốn tôi ở nhà để chăm sóc và bảo vệ Mina, nhưng Mina đã nhất quyết không chịu nghe. Cô nói có khi cả nhóm sẽ rất cần đến tôi để giải quyết những vấn đề liên quan đến pháp luật. Cô lý luận rằng trong số giấy tờ của lão bá tước chắc chắn sẽ có những điểm mà chỉ có mình tôi - người không lạ gì Dracula - có thể hiểu được và trong một!trường hợp, để có thể đương đầu vôi sức mạnh phi thường của lão, chúng tôi phải càng đông càng tốt. Nghe cô nói có vẻ có lý nên tôi không thể cố chấp được.
- Tất cả mọi người cùng đi với nhau thì em mới có cái để mà hy vọng. - Cô bảo tôi. - Về phần mình, em chẳng có gì mà phải sợ cả. Điều hãi hùng nhất đã qua rồi, tất cả những gì có thể đến với em bây giờ là một chút hy vọng và an ủi. Anh phải đi cùng mọi người, anh yêu ạ? Nếu Chúa rủ lòng thương, thì cho dù em có ở lại một mình, Ngài cũng sẽ che chở cho em được an toàn như mọi người đang bảo vệ em vậy?
- Vậy thì nhân danh Chúa, - Tôi nói - chúng ta hãy lập tức lên đường đi? Lão bá tước có thể đến Piccadiny sớm hơn là chúng ta nghĩ đấy!
- Không đâu, không đâu! - Van Helsing xua tay như muốn làm dịu đi sự sốt ruột của tôi.
- Làm sao ngài biết được?
- Anh quên là đêm qua, lão vừa có một bữa tiệc no nê để rồi sáng nay sẽ phải dậy rất muộn hay sao? - Giáo sư vừa nói vừa tủm tỉm cười.
Quên! Tôi mà lại quên? Liệu có bao giờ tôi quên được không? Chẳng lẽ trong chúng tôi lại có người có thể quên được một điều khủng khiếp đến như vậy. Mina cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng dường như nỗi đau trong lòng cô vừa bị đánh thức, sự kiềm nén của cô quả là có giới hạn, bởi tôi lại thấy cô ôm mặt thổn thức, người cô lại run bần bật từ đầu tới chân.
Câu nói đùa vô tình của Van Helsing rõ ràng là một nhát dao chọc vào vết thương của cô. Lúc này ông mới thấy giật mình vì lời nói thiếu suy nghĩ của mình.
- Ôi! Mina, tôi xin lỗi? - Ông bối rối đến bên cô gái để an ủi - Tôi không có ý định làm cho bà bị tổn thương. Thực ra, tôi cũng đau lắm chứ! Nhưng rồi bà sẽ quên được cơn ác mộng đó, đúng không nào?
- Không, tôi sẽ không quên đâu, - Cô nức nở đáp lời vị giáo sư già - trái lại, tôi cần phải nhớ, và những kỷ niệm đẹp đẽ về ngài cũng sẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong lòng vợ chồng tôi. Bây giờ, có lẽ mọi người cũng sắp phải đi rồi. Bữa điểm tâm đã được chuẩn bị xong, chúng ta cùng xuống đi, bây giờ ai cũng cần phải có sức mới được.
Bữa điểm tâm hôm nay đối với chúng tôi là một bữa khá khác thường. Chúng tôi, ai cũng muốn động viên nhau cho vui lên một chút, ngay cả Mina cũng cố gắng tỏ ra thật phấn chấn. Cuối cùng, Van Helsing đứng dậy tuyên bố.
- Thưa tất cả các bạn, giờ quyết định đã đến gần! Các bạn đã chuẩn bị đủ các vũ khí như lần trước chưa ạ! Tôi xin nhắc lại, đó chính là những lá bùa chống lại một cuộc tấn công cả về thể xác và tinh thần, các bạn có hiểu ý tôi không ạ?
Chúng tôi gật đầu trả lời.
- Rất tuyệt! Mina à, dù thế nào thì bà cũng không phải lo đối phó với bất cứ một sự nguy hiểm nào cho tới khi mặt trời lặn. Từ giờ tới lúc đó, chúng tôi sẽ trở về... nếu... Có chứ, chúng tôi sẽ trở về! Dù thế nào thì bà cũng không phải quá lo lắng, kể cả khi kẻ thù muốn mò tới làm hại bà một lần nữa, bà cũng không sợ gì cả. Lúc bà từ trên phòng xuống đây, tôi đã tới đặt vào đó một số thứ cần thiết - những thứ gì thì chắc bà cũng đã rõ - để ngăn không cho lão vào. Và bây giờ, tôi sẽ đặt lên trán bà một mẩu bánh thánh, nhân danh Cha, Con và...
Tất cả chúng tôi bỗng cùng thất lên một tiếng đầy kinh ngạc. Mẩu bánh thánh bỗng cháy một vùng trán Mina giống như một miếng kim loại bị nung đến sáng trắng. Cô gái tội nghiệp chợt hiểu ngay ra hiện tượng đớ có ý nghĩa gì.
Tiếng kêu của cô vừa thể hiện một sự đau đớn thể xác, nhưng cũng vừa thể hiện một cảm xúc thất vọng vô tận đang trào đang trong lòng. Tiếng kêu ai oán ấy sẽ còn vọng mãi trong đầu chúng tôi. Cô ngã khuỵu xuống với vẻ mặt đau khổ và tuyệt vọng không tả xiết :
- Ô nhục quá? Tôi là đứa ô nhục! Vậy là Chúa đã trừng phạt tôi? Từ nay cho đến chết, tôi sẽ phải mang mãi vết nhơ này trên trán?
Tất cả sững sờ đứng nhìn cô. Tôi bàng hoàng lao tới ôm chặt lấy người vợ trẻ tội nghiệp trong tâm trạng lo sợ và thất vọng tràn trề. Sự tuyệt vọng khiến hai chúng tôi chỉ còn biết ôm chặt lấy nhau và chẳng biết phải làm gì nữa. Như hiểu rõ nỗi lòng tan nát của hai vợ chồng tôi, những người bạn kia chỉ còn biết ngoảnh mặt đi mà khóc thầm. Cuối cùng, như muốn chứng tỏ mình thật sự là một vị cha già và là chỗ dựa tinh thần của cả nhóm, Van Helsing bĩnh tĩnh bước lại gần chúng tôi để vỗ về Mina, giọng ông nhẹ như hơi thở :
- Mina à, dấu hiệu hằn trên trán bà chứng tỏ Chúa đã thấu hiểu những nỗi đau của bà. Có thể bà sẽ phải mang dấu ấn đó cho tới khi Chúa thấy rằng đã đến lúc cần xá tội cho tất cả những con chiên ngoan đạo của Ngài trên trái đất này vào ngày Phán quyết cuối cùng. Thưa bà, tới ngày đó, thế nào chúng tôi cũng có mặt để được chứng kiến vết nhơ trên trán bà biến mất, trả lại sự trong trắng như vốn có trong trái tim bà! Chắc chắn nó sẽ được xóa bỏ khi Chúa rủ lòng thương trút bỏ cái gánh nặng đang đè lên chúng ta. Từ nay tới khi đó, lúc nào chúng ta cũng nên mang theo mình cây thánh giá, giống như đức Chúa con từng mang trên người theo ý chỉ của đức Chúa vậy... Mọi cơ cực rồi cũng sẽ qua đi...
Lời động viên chân tình của giáo sư đã giúp chúng tôi hiểu rằng cần phải biết cam chịu trong những lúc phải cam chịu, và dường như đằng sau sự cam chịu ấy vẫn còn một chút gì đó để chúng tôi hy vọng. Tôi và Mina cùng cảm nhận được điều ấy, chúng tôi thật sự cảm động, mỗi người cúi xuống cầm một tay ông và đặt lên đó một nụ hôn như một cử chỉ biết ơn tấm lòng của một vị cha già. Và trước Chúa linh thiêng, cả nhóm chúng tôi, không ai bảo ai, cùng quỳ xuống thề sống chết có nhau, đồng sức đồng lòng với nhau, cùng nhau cầu Chúa phù hộ cho chúng tôi qua khỏi cơn hoạn nạn để hoàn thành sứ mệnh của mình.
Đã đến giờ chúng tôi phải đi. Tôi quay sang tạm biệt người vợ hiền yêu dấu. Chắc hẳn đây sẽ là giây phút trọng đại mà suất đời chúng tôi sẽ chẳng thể nào quên!...
Chúng tôi không gặp trở ngại gì khi vào ngôi nhà Carfax. Mọi thứ trong nhà vẫn nguyên như lần trước. Không có bất cứ một thứ giấy tờ hay một cái gì đó có thể là dấu hiệu chứng tỏ có người vào. Trong nhà thờ cũng vậy, không có vẻ gì chứng tỏ các thùng gỗ đã bị dịch chuyển, dù chỉ là một phân.
- Các bạn ạ, - Van Helsing bảo chúng tôi - ở đây, chúng ta có nhiệm vụ đầu tiên cần phải hoàn thành. Chúng ta sẽ phải làm mất tác dụng của lớp đất đựng trong các thùng gỗ. Đó là thứ đất đã bị thánh hóa bởi những ký ức sùng đạo và được con quỷ Dracula cho chuyển tới đây làm nơi trú ẩn. Sở dĩ lão chọn thứ đất này là bởi nó đã được thánh hóa. Việc lão có thất bại hay không một phần cũng tùy thuộc vào tác dụng của các thùng đất. Bây giờ, chúng ta sẽ trả lại thứ đất này cho Chúa!
Đoạn ông rút trong túi xách ra một chiếc tuốcnơvít và một chiếc cờ lê vạn năng để mở các thùng đất. Một nắp thùng được mở tung. Đất trong thùng lập tức bốc ra một mùi khăn khẳn lẫn mùi mốc bay xộc vào mũi. Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi chú ý hơn cả vẫn là việc giáo sư đang làm: ông lấy một mẩu bánh thánh đặt nhẹ nhàng lên lớp đất trong thùng và đậy nắp thùng lại như cũ với sự giúp đỡ của chúng tôi.
Chúng tôi cũng lần lượt làm như vậy với tất cả các thùng khác có trong nhà thờ và cẩn thận bắt vít lại y như lúc ban đầu để tránh gây ra bất cứ sự chú ý nào. Công việc diễn ra êm xuôi.
Lúc khóa cửa ra về, Van Helsing nói như reo :
- Thế là xong được một việc! Đối với các thùng khác, nếu chúng ta cũng thành công như vậy thì chiều nay, trước lúc đi ngủ, ông mặt trời có thể sẽ rọi những tia nắng cuối cùng lên vầng trán thanh cao và trinh trắng của Mina!
Khi xuống một lối nhỏ trên đường ra ga đón tàu để tiếp tục công việc, chúng tôi có tạt qua trước nhà thương điên. Tôi bất giác nhìn lên cửa sổ phòng mình và bắt gặp ánh mắt Mina. Tôi vui mừng vẫy tay ra hiệu cho cô hiểu rằng phần việc vừa rồi trong ngôi nhà Carfax của chúng tôi đã được thực hiện êm xuôi. Cô cũng vẫy tay ra hiệu đáp lại và tạm biệt chúng tôi cho tới khi bóng tôi khuất dần sau một lùm cây phía cuối một nẻo đường. Chúng tôi háo hức đến nhà ga khi đoàn tàu chuẩn bị chuyển bánh.
Tôi chỉ viết được những dòng này khi đang ngồi trên tàu.
* * * * *
Piccadiny, mời hai giờ rưỡi trưa
Chúng tôi sắp đến phố Fenchurch thì huân tước Godalming quay lại bảo tôi :
- Tôi và Quincey sẽ đi tìm một tay thợ khóa. Tốt hơn hết là mấy người còn lại đừng đi theo. Tôi nghĩ chúng ta cần phải đề phòng trường hợp bất ngờ có khó khăn xảy ra. Tôi muốn nói tới những tình huống không hay có thể xảy ra khi bất đắc dĩ chúng ta phải phá cửa vào. Là một công chứng viên, có lẽ anh không nên dính líu vào thì hay hơn!
Tôi định cãi lại, nhưng anh gạt đi :
- Vả lại càng ít người, chúng ta càng đỡ gây chú ý hơn. Danh nghĩa của tôi có thể tạo niềm tin cho tay thợ khóa, và danh nghĩa đàng hoàng của anh ta cũng sẽ tạo niềm tin cho đám cảnh sát, nếu như anh ta... Anh cứ đi cùng John và giáo sư ra đợi hai chúng tôi ở Công viên Xanh, nơi đối diện với ngôi nhà. Nhớ phải chọn chỗ nào có thể nhìn được ngôi nhà đấy nhé, khi nào cửa nhà mở và tay thợ khóa đi rồi, ba người sẽ đi vào nhà gặp lại chúng tôi. Chúng tôi sẽ chờ và gọi cả ba người cùng vào.
- Nghe hay đấy!- Van Helsing tán thưởng.
Và chúng tôi tạm tách nhau ra sau đó một đoạn đường, Godalming và Moriss nhảy lên một chiếc xe ngựa chở khách, còn ba chúng tôi gọi một chiếc xe khác.
Tới góc phố Arhngton, ba chúng tôi xuống xe và dạo bộ vào trong.Công viên Xanh. Tôi cảm thấy tim mình như sắp nhảy khỏi lồng ngực, khi thoáng nhận ra ngôi nhà mà chúng tôi đang đặt rất nhiều hy vọng cho sự thành công của mình. Đó là một ngôi nhà nằm im lìm giữa những ngôi nhà rộn rã âm thanh cuộc sống khác. Chúng tôi chọn một chiếc ghế băng có thể ngồi quan sát ngôi nhà và lặng lẽ châm xì gà, chờ đợi sự xuất hiện của hai người bạn cùng một tay thợ khóa nào đó. Mỗi phút trôi qua đối với chúng tôi lúc này chẳng khác nào một thế kỷ.
Cuối cùng, chúng tôi cũng nhận ra một chiếc xe ngựa dừng lại trước ngôi nhà. Huân tước Godalming đường hoàng xuống xe cùng Moriss, tiếp theo đó là một anh thợ khóa tay xách hòm đồ. Họ chậm chạp bước về phía bậc thềm. Tới trước cửa, Godalming chỉ tay vào ổ khóa cần mở. Anh thợ khóa cởi áo ngoài vắt lên lan can và ngoái lại phân trần với một tay cảnh sát đang đi ngang qua phố. Tay cảnh sát gật gù nói vài lời rồi bỏ đi, để mặc cho anh thợ bắt đầu công việc. Anh ta cúi xuống thổi phì phì vào lỗ khóa và lấy một chùm chìa khóa to bự tra thử, phải năm lần bảy lượt mới có một chiếc vừa với ổ khóa. Chẳng hiểu anh ta chọc ngoáy thế nào mà chỉ hích nhẹ một cái, cánh cửa đã mở tung. Ba người bước ngay vào một hành lang. Chúng tôi ngồi im chờ đợi. Tôi rít thuốc hên tục, trong khi điếu xì gà trên môi Van Helsing lại tắt ngấm từ lúc nào. Quả là không gì sốt ruột bằng chờ đợi. Cuối cùng thì tay thợ khóa cũng khệnh khạng bước ra ngoài cùng với hòm đồ của mình. Anh ta kê gối giữ cánh cửa hé mở, tra vào đó một chiếc chìa khóa và rút ra đưa cho huân tước Godalming. Nhận tiền công xong, anh ta nghiêng người cúi chào gia chủ rồi bỏ đi xa dần. Rõ ràng là chẳng có ai để ý đến những gì vừa diễn ra trước cửa ngôi nhà.
Khi anh thợ khóa mất hút khỏi tầm mắt, chúng tôi mới hăm hở ra khỏi công viên, đi qua phố và tới trước ngôi nhà gọi cửa. Quincey Moriss lập tức mở cửa, Godalming đang đứng hút thuốc bên cạnh.
- Ngôi nhà này tởm lợm ghê!- Huân tước bảo chúng tôi lúc cả nhóm cùng vào sâu bên trong.
Quả thực là không khí trong nhà bốc lên một mùi chẳng khác nào cái mùi chúng tôi đã được thưởng thức lần đầu tiên trong ngôi nhà Carfax. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đang dấn thân vào một trong những nơi trú ẩn của lão bá tước. Chúng tôi lần lượt kiểm tra từng phòng một và cẩn thận đi bám sát nhau, bởi rất có thể lão bá tước đang rúc ở đâu đó trong nhà. Tới phòng ăn a đầu hành lang, chúng tôi chỉ tìm được cả thảy tám thùng gỗ, trong khi hy vọng là sẽ tìm được chín thùng! Chúng tôi mở hé các ô cửa tò vò nhìn ra một mảnh sân hẹp được rải đá, ngăn cách phòng chúng tôi đang đứng với một dãy nhà phụ - có lẽ là khu chuồng ngựa không có bất cứ một ô cửa sổ nào, vậy chẳng phải sợ bị ai nhìn thấy. Chỉ đợi có vậy, chúng tôi nhanh chóng lôi các dụng cụ mang theo mở từng thùng một và đặt vào đó một mẩu bánh thánh như đã làm trong ngôi nhà Carfax. Xong việc với tám thùng gỗ, chúng tôi lại tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình.
Sau khi kiểm tra cẩn thận mọi xó xỉnh, góc ngách, chúng tôi đi đến một kết luận rằng mọi cái liên quan đến Dracula trong ngôi nhà này đều nằm ở phòng ăn. Dường như chưa thỏa mãn, chúng tôi bảo nhau phải kiểm tra lại thật tỉ mỉ từng đồ vật trong phòng. Tất cả được vứt lộn xộn trên một chiếc bàn ăn rất lớn.
Có rất nhiều loại giấy tờ: các giấy chứng nhận mua nhà Piccadihy, cũng như các ngô!nhà còn lại ở Mile End và Bermondsey, rồi giấy viết thư, phong bì, lọ mực và bút lông. Một mảnh giấy gói bị phủ đầy bụi, một bàn chải quần áo, một lược chải đầu, một chiếc hũ và một chiếc chậu sành - bên trong còn đầy nước bẩn màu đỏ như máu. Cuối cùng là những chiếc chìa khóa đủ loại, đủ kích cỡ mà tôi đoán là chìa khóa của cả những ngôi nhà khác. Huân tước Godalming và Quincey Moriss đã cẩn thận ghi lại chính xác địa chỉ của các ngôi nhà ở Mile End, Bermondsey và cầm sạch số chìa khóa đó bỏ vào túi để chuẩn bị lên đường, tiếp tục phá nốt các thùng đất còn lại. Bây giờ, chúng tôi sẽ chờ đợi hoặc sự trở về của họ... hoặc sự xuất hiện của lão bá tước.
Xem tiếp chương 23