Chương 26
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 29 tháng 10
Tôi viết những dòng này trong chuyến tàu từ Varna đến Galatz. Chiều hôm qua, trước lúc mặt trời lặn một chút, chúng tôi lại được ngồi quây quần bên nhau. Ai cũng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất. Suy ngẫm, táo bạo và thời cơ sẽ giúp chúng tôi chuẩn bị thật tất cho một chuyến đi xa, thậm chí đến tận lâu đài Dracula. Như thường lệ, Mina tiếp tục chuẩn bị cho một lần thôi miên mới. Van Helsing phải mất khá nhiều thời gian để đưa cô vào trạng thái nhập đồng. Nói chung, cô bắt đầu nói ngay từ biểu hiện nhập đồng đầu tiên, nhưng giáo sư phải hỏi tương đối nhiều và thật chính xác trước khi hiểu ra vấn đề. Cuối cùng, Mina trả lời đại loại như thế này :
- Tôi chẳng phân biệt được gì cả. Chúng tôi đang đứng im một chỗ. Không phải những tiếng sóng vỗ dập dềnh, mà là một vùng nước xoáy liên tục và nhẹ nhàng cuốn quanh sợi dây chão. Tôi nghe có những tiếng gọi tới của đám đàn ông, lúc gần, lúc xa, rồi tiếng cột trèo nghiến ken két. Đâu đó vang lên một tiếng nổ, tiếng vọng đến từ rất xa. Tiếng những bước chân vang lên phía trên đầu tôi, có cả tiếng kéo dây cháo, dây xích. Cái gì vậy? Kia là một vệt sáng. Tôi cảm thấy có một làn gió vừa tràn qua.
Cô nói không gì thêm, mà ngồi bật dậy khỏi chiếc tràng kỷ như vừa bị một người đẩy bất ngờ, hai tay giơ lên, lòng bàn tay để ngửa như thể đang đỡ một vật nặng lắm. Tôi và Van Helsing đưa mắt nhìn nhau, bởi chúng tôi hiểu đang xảy ra chuyện gì. Quincey nhíu mày quan sát, trong khi Jonathan Harker, như một bản năng, lại đưa tay lần mò con dao Kukri của mình. Tất cả im lặng một hồi lâu. Ai cũng hiểu có nói gì bây giờ cũng vô ích. Mina chợt đứng bật dậy, hai mắt mở to và khẽ hỏi :
- Có ai muốn làm một tách trà không? Chắc mọi người phải mệt lắm!
Chúng tôi chỉ còn biết gật đầu. Đợi cô bước vào buồng trong lấy trà quay ra, Van Helsing mới lên tiếng :
- Các bạn ạ, chắc ai cũng đã hiểu cả rồi. Lão đang ở gần một bờ biển và đã chui ra khỏi hòm đất. Lão cần lên bờ. Buổi tối, lão có thể ẩn náu ở bất cứ chỗ nào. Nhưng nếu lão không được đưa lên bờ hoặc nếu con tàu không thể cập bờ, lão sẽ chưa thể lên bờ bằng cách thông thường được. Trong những tiếng huống như vậy, khi đêm xuống, lão có thể thay hình đổi dạng để nhảy hoặc bay lên bờ như lão đã từng làm ở Whitby trong cái lốt của một con chó. Nhưng nếu mặt trời thức dậy trước khi tàu ghé bờ, thì lão chỉ có thể tiếp tục trốn chúng ta nếu như còn nằm trong hòm gỗ. Nếu cứ nằm trong đó, thế nào lão cũng bị hải quan phát hiện. Nói tóm lại, nếu như không kịp nhảy lên bờ vào đêm nay, cụ thể là trước lúc rạng Đông, lão sẽ phải phí mất cả một ngày và vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể xuất hiện kịp thời. Bởi vì nếu như lão không thể trốn thoát vào ban đêm, chúng ta sẽ đến gặp lão vào ban ngày, khi lão còn bị nhốt trong hòm và số phận đang tùy thuộc vào chúng ta. Lão sẽ không dám tự bộc lộ mình dưới một cái vỏ thực chất cụ thể của mình vì sợ bị phát hiện.
Không còn gì để nói thêm. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi tới lúc rạng Đông, khi Mina Harker có thể nói cho chúng tôi biết thêm một vài chi tiết nào đó. Vào lúc đầu ngày, trong một tâm trạng lo lắng không yên, chúng tôi lại tụ tập để nghe cô nói khi Van Helsing thôi miên. Lần này, giáo sư phải vất vả lắm mới đưa được cô vào trạng thái nhập đồng. Cuối cùng thì Mina cũng phải tuân theo sự chỉ bảo của ông :
- Tất cả đều tối mò. Tôi nghe thấy tiếng sóng vỗ oàm oạp rồi tiếng gỗ va gỗ lộc cộc.
Không thấy cô nói gì thêm, hơn nữa mặt trời cũng vừa xuất hiện đỏ chói. Lại phải đợi đến chiều vậy.
Chúng tôi đến Galatz trong một tâm trạng lo lắng và sốt ruột như vậy. Lẽ ra chúng tôi phải đến đó vào tầm hai, ba giờ sáng. Nhưng từ Bucarest, chúng tôi đã khởi hành chậm mất ba tiếng, vì vậy, chắc chắn chúng tôi sẽ đến nơi sau khi mặt trời đã mọc. Một trong hai thông điệp thôi miên của Mina, hoặc cả hai, có thể rọi một vài tia sáng vào các sự kiện đang xảy ra.
* * * * *
Một lúc sau
Lại thêm một lần mặt trời lặn nữa, cũng may nó xảy ra vào lúc chúng tôi không hề bị quấy rầy bởi bất cứ một điều gì. Nếu mặt trời lặn trùng vào lúc tàu tạm dừng ở một ga, chắc chắn chúng tôi không thể yên tĩnh để làm thôi miên với Mina: lần này cô còn khó nhập đồng hơn nhiều so với lần trước. Tôi sợ khả năng giải mã cảm giác của lão bá tước trong cô sẽ biến mất đúng vào lúc chúng tôi cần đến nó nhất. Cho đến lúc này, khả năng của cô vẫn chỉ giới hạn trong các sự việc đơn giản nhất, nếu điều này cứ tiếp diễn mãi, rất có thể cô sẽ dẫn chúng tới đến chỗ sai lầm. Nếu như nghĩ quyền năng mà lão bá tước áp đặt nơi cô giảm đi trùng hợp với khả năng nhìn thấu vấn đề của cô thì tôi không có lý do gì để không vui cả. Nhưng thú thực, tôi vẫn nghi ngờ trường hợp đang diễn ra với cô. Cuối cùng, cô chỉ giải mã đơn giản thế này :
- Có một cái gì đó vừa biến mất. Tôi cảm thấy một cơn gió lạnh thoảng qua. Có những tiếng động mơ hồ vẳng đến từ xa, hình như có mấy người nói tiếng nước ngoài, có cả tiếng một dòng chảy rất dữ và cả tiếng tru thê thảm của loài sói nữa.
Cô đột ngột dừng lại, rùng mình giây lát rồi toàn thân chợt run bần bật như lên cơn động kinh. Không thấy cô trả lời những câu hỏi của Van Helsing. Lúc bừng tỉnh, trông cô có vẻ mệt lử, rã rời, người lạnh như nước đá, nhưng may mà còn làm chủ được bản thân. Cô nói không nhớ gì cả và muốn biết điều cô vừa phát hiện được. Khi hiểu ra vấn đề, cô ngồi im lặng và suy nghĩ rất lâu.
* * * * *
Ngày 30 tháng 10, 7giờ sáng
Chúng tôi đang tiến gần tới Galatz, và lát nữa, có thể tôi sẽ không còn thời gian để viết nữa. Tất cả chúng tôi đều tỉnh táo chờ đợi buổi rạng Đông. Biết càng ngày càng khó làm thôi miên đối với Mina, nên Van Helsing bắt đầu các động tác huơ tay sớm hơn thường lệ. Chỉ đến trước lúc mặt trời mọc khoảng một phút, Mina mới chịu nhập đồng. Không để phí thời gian vào những chuyện vớ vẩn, giáo sư đi luôn vào các câu hỏi cần thiết nhất. Cô trả lời cũng rất nhanh :
- Tất cả tối om. Tôi nghe có tiếng nước xoáy tầm ngang tai, tiếng gỗ va gỗ lộc cộc. Thấp hơn là tiếng súc vật kêu từ xa vọng tới. Còn một âm thanh khác, kỳ lạ... phải nói là...
Cô lại chợt im bặt, mặt mày mỗi lúc một xanh mét.
- Còn gì nữa, âm thanh gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi! - Van Helsing thúc giục, giọng nghe thật thống thiết và khẩn khoản, nét mặt lộ rõ vẻ thất vọng, bởi ngoài kia mặt trời đã bừng sáng soi đỏ cả nước da xanh mét của Mina.
Cô mở tròn mắt run run khẽ nói với chúng tôi, nét mặt không giấu nổi sự lo lắng :
- Thưa giáo sư, tại sao ngài lại hỏi tôi những điều mà ngài thừa biết là tôi không thể trả lời? Tôi không còn nhớ gì hết!
Cô quay sang nhìn bộ mặt còn lộ rõ vẻ ngơ ngác của chúng tôi và tiếp tục :
- Tôi đã nói những gì rồi? Tôi đã làm những gì? Tôi chẳng còn biết gì cả, nếu không phải là tôi đang nằm đây nửa tỉnh nửa mê, và nghe thấy tiếng ai nhắc: “Còn gì nữa? Nói tiếp đi, tôi ra lệnh nói tiếp đi!” Mọi người nói cứ như thể coi tôi là một đứa trẻ có lỗi không bằng!
- Nhưng Mina à, - Giáo sư đáp lại, giọng buồn buồn – đó chính là một bằng chứng, nếu có thể nói như vậy, về tình bạn mà tôi dành cho bà. Thực ra tôi đã nói nghiêm túc hơn bao giờ hết, trong một tình thế rất khó khăn, mong bà đừng chấp.
Một hồi còi bất ngờ rú lên thê thảm. Thế là đã tới Galatz. Chúng tôi như ngồi trên đống lửa vì lo lắng và sốt ruột.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 10
Quincey Moriss dẫn tôi đến một khách sạn mà anh đã đặt trước bằng điện tín. Đây là một khách sạn rất dễ chịu, ít nhất cũng vì ở đây người ta không nói bất cứ một thứ tiếng xa lạ nào. Cũng như ở Varna, huân tước Godalming phải đến gặp viên Phó lãnh sự để được nhận chế độ bảo đảm an toàn dành cho chúng tôi, ngay cả trong tình huống khẩn cấp nhất. Jonathan cùng hai bác sĩ đến đại lý hàng hải xem có tin gì mới về con tàu Tsarine Catherine.
* * * * *
Một lúc sau
Huân tước Godalming vừa quay về. Viên Tổng lãnh sự đi vắng, trong khi Phó bị ốm. Nhưng mọi việc đều được giải quyết nhanh gọn nhờ một nhân viên được ủy quyền, tính tình rất dễ chịu và tận tụy với công việc thuộc thẩm quyền của mình.
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 30 tháng 10
Đã 9 giờ sáng. Bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward cùng tôi đến nhà Mackenzie ở Steinkoff, đại lý của công ty hàng hải Hapgood ở Luân Đôn. Nhắc đến huân tước Godalming, họ liền cho biết họ đã nhận được đề nghị giúp đỡ của anh và dẫn ngay chúng tôi đến tàu Tsarine Catherine đang thả neo ở một cảng sông. Chúng tôi gặp vị thuyền trưởng có tên là Donelson, người đã kể cho chúng tôi nghe lại toàn bộ cuộc hành trình của con tàu. Ông nói cả đời ông chưa bao giờ gặp phải một chuyến đi kinh dị và quái đản đến như vậy.
Chuyến đi đã làm chúng tôi sợ khiếp vía, bởi chúng tôi cứ ngỡ mình sẽ phải trả giá sau các nỗ lực đưa con tàu về hải trình đúng của nó. Lênh đênh giữa Biển Đen đâu phải là chuyện đùa. Dường như có một con quỷ nào đó đã thổi gió làm các cánh buồm đưa con tàu đi theo hướng nó đã định thì phải. Làm gì có cách nào để nhận biết thực hư ra sao. Cứ mỗi lần chúng tôi định ghé sát vào một con tàu khác, hoặc vào một cảng biển, mũi đất là y như rằng lại có một màn sương mù dày đặc không hiểu từ đâu bỗng nhiên ập xuống, rồi cứ thế bám theo con tàu suất chặng đường mới chết chứ lị. Tới gần vùng này, cái cảnh địa ngục quái gở ấy mới chịu buông tha chúng tôi. Chúng tôi qua Gilbraltar mà không làm sao đánh tín hiệu về đất liền được. Rồi thì khi tới Dardanelles, lẽ ra chúng tôi phải ghé bến trình giấy phép mới được đi tiếp, ấy thế mà con tàu vẫn cứ tiến mà chẳng thấy một nhà chức trách nào gọi hỏi cả. Lúc đầu tôi cũng định giảm áp suất không khí và cho tàu đi vát gió cho tới khi sương mù tan hẳn, nhưng sau lại thôi, vì tôi nghĩ rằng một khi trong đầu con quỷ đã muốn con tàu phải chạy hết tốc lực ra Biển Đen thì chắc chắn nó sẽ làm như vậy, cho dù chúng tôi có muốn hay không cũng thế thôi. Và con quỷ hẳn đã thỏa nguyện mà không phải bực mình vì sự chống đối của chúng tôi.
Tính khí pha tạp giữa thật thà, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần tinh quái và mê tín kiểu con buôn của viên thuyền trưởng như càng kích thích Van Helsing. Ông nói :
- Ông bạn ạ, ma quỷ nhiều khi còn táo tợn hơn cả những gì mà một số người vẫn nghĩ về nó ấy chứ, và nó hoàn toàn biết mình đang đứng trước ai?
Câu đùa gợi ý của vị giáo sư đã không gây hứng khởi cho viên thuyền trưởng.
- Sau khi rời Bosphore, - Viên thuyền trưởng nói tiếp - trên tàu bắt đầu có những lời càu nhàu của hành khách. Một số người Rumani đã đến tìm tôi và đòi vứt khỏi tàu một chiếc hòm gỗ khá lớn do một lão già quái gở gửi theo tàu từ lúc chúng tôi rời Luân Đôn. Lúc đó, tôi thấy họ liếc nhìn lão già và giơ vội hai ngón tay như muốn tránh xa một điều gì đó thật xúi quẩy khi trông thấy lão bước đến gần: Đúng là tín ngưỡng của người nước ngoài nhiều khi cũng kỳ lạ thật đấy!. Tôi đã phải vài lần xua họ đi chỗ khác. Nhưng ngay sau đó, một màn sương mù chẳng hiểu từ đâu lại đổ ập xuống con tàu, đến nỗi tôi phải tự hỏi không biết bọn người Rumani kia nói có đúng hay không nữa, mặc dù tôi thấy không có gì phải kỳ thị với chiếc hòm gỗ kia. Mặc kệ, chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Màn sương mù bao bọc con tàu suốt năm ngày liền. Tôi phó mặc hải trình cho những cơn gió, bởi nếu ma quỷ muốn con tàu phải đến một nơi nào đó thì chúng tôi chỉ còn cách cứ để cho nó làm, chúng tôi có làm khác đi cũng không được kia mà! Thế rồi con tàu cứ băng băng tiến, rất an toàn và không có bất cứ một va. chạm nào hết. Ngày hôm kia, khi mặt trời thức dậy xuyên thủng màn sương mù đáng ghét, tôi chợt nhận ra con tàu đã đến một dòng sông, đối diện với Galatz. Đám người Rumani lại một lần nữa nổi cơn điên đòi quẳng ngay lập tức chiếc hòm gỗ xuống sông. Tôi đã phải nói chuyện với họ bằng gậy gộc, và khi tay cuối cùng ôm đầu nhảy khỏi sàn tàu, tôi mới đến thuyết phục họ rằng dù có xúi quẩy xúi kiếc gì thì tôi cũng vẫn đặt tài sản và niềm tin của hành khách lên trên hết. Cũng nên lưu ý trước đó, mấy thằng cha Rumani này đã lôi chiếc hòm chết tiệt đó đặt lên boong tàu để chuẩn bị quẳng xuống nước rồi. Tôi định khi nào dỡ hàng xuống cảng sẽ quẳng nó xuống luôn thể. Nhưng tới sáng, khoảng một tiếng đồng hồ trước lúc mặt trời mọc, bỗng dưng có một người đàn ông xuất hiện và leo lên tàu trình giấy ủy quyền, được gửi từ Anh quốc, để nhận chiếc một chiếc hòm đề địa chỉ người nhận là bá tước Dracula. Mọi giấy tờ của anh ta đều hợp lệ nên không có lý do gì tôi không giao cho anh ta chiếc hòm, hơn nữa tôi cũng bắt đầu cảm thấy không yên với cái của nợ ấy. Nếu quỷ dữ gửi hành lý lên con tàu của tôi, thì đó hẳn phải là chiếc hòm gỗ chứ chẳng phải là một cái gì khác!
- Thế người đến nhận hàng tên là gì nhỉ? - Van Helsing sốt ruột hỏi.
- Tôi sẽ nói để ngài biết ngay đây...
Viên thuyền trưởng bước xuống cabin lấy một tờ giấy biên nhận có chữ ký Emmanue! Hildesheim, số 16, Burgenstrasse.
Biết là không thể biết thêm được thông tin nào từ viên thuyền trưởng, chúng tôi bèn cảm ơn ông rồi tiếp tục lên đường.
Chúng tôi gặp Hildesheim ở văn phòng của ông. Đó là một người Do Thái có bộ mặt đỏ như gà chọi. Chẳng khó dễ gì trước đề nghị của chúng tôi, ông thuật lại ngay tất cả những gì ông biết. Ông nói đã nhận được một lá thư gửi từ Luân Đôn của Ngài De Vilie, trong thư đề nghị ông tiếp nhận - nếu có thể trước lúc mặt trời mọc thì càng tất, để tránh sự soi mói của hải quan - một hòm gỗ được gửi theo tàu Tsarine Catherine đến bến Galatz; sau đó, ông phải giao chiếc hòm cho tay Petrof Skinsky nào đó. Đây là một người có quan hệ với những người Slovaki chuyên buôn bán trên sông. Ông được trả công bằng một tờ giấy bạc Anh và được Nhà băng Quốc tế ĐanuÝp trả chuyển đổi bằng vàng. Ông dẫn Skinsky lên tàu và giao hàng luôn tại đó để tránh phải trả phí giao chuyển hàng. Tất cả chỉ có vậy, ông không thể nói gì hơn.
Vậy là chúng tôi chỉ còn cách đi tìm người có tên là Skinsky, nhưng rất cục cũng chẳng tìm được. Một người hàng xóm của anh ta cho biết anh ta đã bỏ đi từ hôm kia, nhưng không biết đi đâu. Ông chủ nhà trọ cũng cho chúng tôi biết anh ta đã nhờ một bưu tá gửi lại chìa khóa phòng và tiền thuê nhà trọ cho ông. Chuyện này xảy ra trong khoảng từ mười đến mười hai giờ tối hôm qua. Vậy là chúng tôi đang đi vào một điểm chết.
Chúng tôi đang nói chuyện với ông chủ quán trọ thì có một người bỗng hớt ha hớt hải chạy xộc vào và kêu toáng lên rằng người ta vừa tìm thấy xác Skinsky trong nghĩa địa Saint - Pierre trong tình trạng cổ bị cắn phanh ra bởi một vết răng nanh của một con thú hoang nào đó. Những người tiếp chuyện chúng tôi đều đứng bật cả dậy và lập tức chạy nháo nhác đi xem cảnh tượng hãi hùng mà họ vừa nghe kể, trong khi mấy phụ nữ hét với theo: “Gây ra chuyện đó chính là một thằng Slovaki đấy?” Chúng tôi bỗng thấy bủn rủn hết cả người vì sợ có thể bị dính dáng vào vụ việc và như vậy sẽ hỏng hết kế hoạch.
Trở về khách sạn, chúng tôi không sao đưa ra nổi một kết luận chính xác nào. Mọi người chỉ dám nghĩ có lẽ chiếc hòm tiếp tục được chuyển đi bằng đường thủy, nhưng về đâu chứ? Đây là một câu hỏi hóc búa mà chúng tôi phải trả lời. Chúng tôi gặp lại Mina trong một tâm trạng trĩu nặng lo âu. Lúc ngồi hội ý, chúng tôi đặt vấn đề tiếp tục thôi miên cô một lần nữa. Đây có lẽ sẽ là cơ hội cuối cùng của chúng tôi. Bấp bênh quá!
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 30 tháng 10, buổi chiều
Trông họ có vẻ mệt mỏi và nhụt chí quá! Cứ kiểu này thì chẳng ai làm được gì nếu không đi nghỉ một chút. Bởi vậy, tôi phải giục họ ngả lưng khoảng nửa giờ, trong thời gian đó tôi sẽ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra cho đến nay. Tôi thật biết ơn người nào đã phát minh ra chiếc máy chữ xách tay và Quincey Moriss, người đã mất công mang nó hộ tôi tới đây! Hẳn là tôi sẽ đứt mạch suy nghĩ nếu cứ phải mài ngòi bút hoài trên trang giấy...
Tất cả thế là hết. Jonathan đang nằm dài trên ghế tràng kỷ, toàn thân rã rời bất động như một kẻ bại liệt, mặt mày nhăn nhúm chán chường. Hẳn là anh đang nghĩ ngợi ghê lắm. Ước gì tôi có thể giúp được anh! Tôi sẽ cố gắng làm điều mình có thể làm.
Theo đề nghị của tôi, bác sĩ Van Helsing đã trao lại cho tôi toàn bộ các ghi chép mà tôi chưa được biết. Trong lúc ông đi nghỉ, tôi định. sẽ đọc kỹ lại tất cả và nếu có thể, sẽ rút ra một kết luận nào đó. Tôi cố gắng noi gương giáo sư và suy ngẫm một cách thật khách quan về các sự việc phơi bày trước mắt. Tôi tin mình sẽ có một khám phá thực sự sau khi suy nghĩ cân nhắc và quan sát thật cẩn thận các tấm bản đồ địa phương.
Vâng, càng ngày tôi càng cảm thấy mình không nhầm. Tôi sẽ họp những người bạn của mình lại và nói cho họ biết suy nghĩ của mình. Họ sẽ phán xét giải pháp của tôi. Tất cả đều phải chính xác. Mỗi phút trôi qua đều rất đáng quý.
Bản tóm tắt đánh giá trong nhật ký của Mina Harker
Khởi điểm điều tra. Vấn đề: bá tước Dracula đang trên đường về nhà.
a) Chắc hẳn phải có người mang lão về. Đó là điều hiển nhiên, bởi nếu cớ quyền năng đi lại tùy ý thì lão phải làm như vậy dưới cái lốt thực sự của một con người, con sói, con dơi hoặc một bất cứ một cái lốt nào khác. Rõ ràng lão đang cảm thấy nghi ngờ mình bị bại lộ hoặc bị gây phiền phức trong trạng thái dễ bị tổn thương hiện nay, khi bị gò bó trong chiếc hòm đất giữa lúc mặt trời mọc và lặn.
b) Lão có thể được chuyển đi bằng cách nào? Hãy làm phép loại trừ sau đây :
1. Bằng đường bộ. Điều này sẽ gây ra vô số khó khăn cho lão, nhất là khi ra khỏi các thành phố.
a) Gặp phải nhiều người. Dân tình sẽ tò mò và tìm cách soi mói. Một dấu hiệu, một sự ngờ vực đối với những gì được cất giấu trong hòm, và thế là lão toi mạng.
b) Có thể hoặc chắc chắn chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan.
c) Các đối thủ theo đuổi lão có thể lần theo dấu vết của lão. Đó chính là nỗi lo sợ lớn nhất của lão và chính vì muốn tránh bị lộ mà lão đã tìm mọi cách để chạy xa nhất trong khả năng cỏ thể, kể cả đối với nạn nhân của lão - đó là tôi!
2. Bằng đường sắt. Nếu sử dụng loại phương tiện này, sẽ không có ai đứng ra để trông nom chiếc hòm gỗ vốn lúc nào cũng có nguy cơ bị chậm trễ, và chính sự chậm trễ sẽ là cơ hội chí tử để kẻ thù lần theo dấu vết lão. Tất nhiên, lão có thể chạy trốn trong đêm tối, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu lão bị tống xuống một nơi xa lạ không có chỗ nào ẩn náu thích hợp. Đó không phải là ý định của lão, và cũng không phải một rủi ro mà lão có thể chấp nhận dấn thân vào.
3. Bằng đường thủy. Một mặt chính là phương tiện chắc chắn nhất, nhưng mặt khác lại là nguy hiểm nhất. Trên mặt nước, lão không có quyền năng, ngoại trừ trong đêm. Đồng thời lão chỉ có thể sai khiến sương mù, bão tố, băng tuyết và đàn sói của mình. Và nếu bị đắm tàu, lão sẽ bị hà bá nhấn chìm mà chẳng thể làm gì được, vậy là lại thêm một khả năng thất bại nữa.
Nếu lão nằm trên một con tàu, thì đương nhiên chúng tôi phải xác định cho được con tàu đang lênh đênh ở vùng nước nào.
Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi là phải xác định chính xác việc lão đã làm cho đến nay, điều này sẽ chỉ cho chúng tôi thấy những gì cần tiếp tục cần phải làm.
Trước hết, chúng tôi sẽ cân nhắc các hành động ở Luân Đôn của lão như một phần toàn bộ kế hoạch của lão, trong khi lão phải gấp gáp từng phút và muốn rút chạy ngay lập tức.
Sau đó, chúng tôi sẽ cố gắng suy luận những gì lão đã làm ở đó với những sự việc mà chúng tôi đã biết.
Để bắt đầu, hiển nhiên là lão định đến Galatz. Đối với chúng tôi, trật tự liên quan đến Varna đã bị chệch hướng nếu chúng tôi hiểu lão đã rời khỏi nước Anh và chúng tôi phải ra sức xác định điểm đến thực sự của lão. Mục đích duy nhất, trước mắt của lão là tìm cách thoát khỏi sự đeo bám của chúng tôi. Bằng chứng chính là lời chỉ dẫn, ghi trong thư gửi Emmanuel Hildesheim, nhận và bốc dỡ chiếc hòm trước lúc mặt trời mọc - cũng như chỉ dẫn dành cho Petrof Skinsky. Đến đây, chúng tôi chỉ còn biết đoán mò. Chắc chắn phải có một lá thư hoặc một thông điệp liên lạc nào đó, vì đích thân anh ta đến tìm Hildesheim.
Theo chúng tôi biết thì tính đến đây, mọi kế hoạch của lão đều đã được hoàn thành. Tàu Tsarine Catherine đã có một cuộc hành trình nhanh khủng khiếp, đến nỗi viên thuyền trưởng Donelson phải sinh nghi. Tại sao con tàu lại có thể thuận buồm xuôi gió đến Galatz giữa màn sương mù quái đản mà không xảy ra bất cứ một trục trặc hay va chạm nào? Mọi sự chuẩn bị của lão bá tước đều phát huy hiệu quả. Hildesheim đã đến nhận chiếc hòm gỗ và giao cho Skinsky. Đến lượt mình, Skinsky cũng đã xoay xở với chiếc hòm - nhưng chúng tôi chỉ biết đến thế thì mất dấu vết. Hẳn là những người mang chiếc hòm đã tìm cách tránh chạm trán với các nhân viên hải quan hoặc thuế quan trên đường đi.
Bây giờ chúng tôi phải suy ngẫm xem lão bá tước đã làm gì sau khi đến đất Galatz.
Chiếc hòm gỗ đã được trao cho Skinsky trước lúc rạng đông. Vào lúc mặt trời mọc, lão bá tước có thể xuất hiện dưới hình dạng thật của mình. Chúng tôi phải tìm hiểu tại sao Skinsky lại được chọn như một người phụ trợ. Theo nhật ký của chồng tôi, Skinsky có quan hệ với đám người Slovaki đang buôn bán trên thượng nguồn cảng. Và thủ phạm giết người được đồn thổi chính là một người Slovaki; chi tiết đáng chú ý này cho thấy dân tình thường xuyên nghĩ tới những người này. Lão bá tước định đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người.
Đó là phỏng đoán của tôi. Từ Luân Đôn, lão bá tước quyết định trở về lâu đài Dracula bằng đường thủy, một con đường chắc chắn nhất và cũng bí mật nhất. Trước đây, những người Digan đã cho mang lão đi và có thể đã nhờ người Slovaki mang các thùng đất đến Varna rồi chuyển tiếp bằng tàu thủy đến Luân Đôn. Như vậy, lão bá tước thừa biết ai là người đủ khả năng tổ chức giùm lão dịch vụ này. Bây giờ, khi chiếc hòm được đưa lên mặt đất, lão sẽ chui ra trước lúc mặt trời mọc hoặc sau khi mặt trời lặn và rồi chỉ dẫn cho Skinsky tiếp tục vận chuyển chiếc hòm theo đường sông. Chắc chắn là lão đã giết chết tay này để bịt đầu mối và xóa dấu vết của mình.
Xem lại bản đồ, tôi nhận ra rằng con sông gần nhất thuận tiện cho người Slovaki đi ngược dòng chỉ có thể là sông Pruth hoặc sông Sereth. Tôi thấy các ghi chú của Van Hesing có nhắc đến những tiếng nước xoáy ngang tầm tai, tiếng gỗ kêu lộc cộc mà tôi cảm nhận được trong lúc bị thôi miên. Như vậy, có thể lão bá tước vẫn đang nằm trong quan tài, nhưng được đặt trong lòng một con thuyền không boong và di chuyển bằng mái chèo hoặc bằng sào.
Tất nhiên, chưa hẳn con thuyền đã đi trên sông Pruth hoặc Sereth, nhưng chúng tôi có thể xác định được điều này. Trong hai con sông nhỏ này, việc đi lại trên sông Pruth có vẻ dễ hơn nhiều, nhưng con sông Sereth, ở đoạn Fundu, lại tiếp nhận dòng Bistriza vốn là con sông nhỏ chảy quanh đèo Borgo. Khúc quanh bên chân đèo chính là điểm dễ tiếp cận lâu đài Dracula nếu tính đi bằng đường thủy.
Nhật ký của Mina Harker (tiếp theo)
Nghe tôi đọc xong, Jonathan lao tới ôm chầm lấy tôi. Những người bạn còn lại cũng nắm chặt đôi bàn tay tôi, vẻ hồ hởi lắm. Còn bác sĩ Van Helsing thì thất lên :
- Một lần nữa, Mina lại chứng tỏ mình xứng đáng là người đưa đường chỉ lối của nhóm chúng ta. Cô thực sự là người sáng suất, còn chúng ta chỉ là những kẻ có mắt như mù. Chúng ta lại tìm ra dấu vết và nếu gặp được kẻ thù giữa ban ngày ban mặt, trên mặt nước, thì nhiệm vụ của chúng ta coi như đã xong. Đúng thế, lão đi trước chúng ta, nhưng lão không thể nhanh chân được, làm sao lão dám rời khỏi chiếc quan tài kia chứ? Những người hộ tống chiếc hòm thế nào cũng sẽ sinh nghi, và chỉ cần phát hiện ra dấu hiệu khả nghi đầu tiên là họ sẵn sàng quẳng ngay cái của nợ ấy xuống sông. Lão thừa hiểu điều đó và chắc chắn sẽ chẳng dám bày trò gì dại dột. Còn bây giờ, cần phải hội ý một chú vì chúng ta không thể không bàn ngay việc cần phải làm của từng người.
- Tôi sẽ đi tìm mua một chiếc xuồng và các phụ tùng kèm theo. - Huân tước Godalming nói.
- Còn tôi, tôi sẽ tìm mua ngựa để đuổi theo lão dọc bờ sông nếu thuyền của lão ghé vào bờ. - Quincey Moriss tuyên bố.
- Tốt rồi. - Giáo sư tiếp tục. - Cả hai nói đều có lý, nhưng cũng đừng nên đi một mình. Hai người cần phải có sức mạnh nếu chạm trán phải sức mạnh. Người Slovaki nói chúng đều rất khỏe và hung hăng, hơn nữa lại thường mang đầy đủ vũ khí.
Tất cả cùng bật cười, bởi ai nấy đều sẵn sàng mang theo một hộp đạn nhỏ.
- Tôi có mang theo vài khẩu súng. - Moriss nói. - Đó là loại vũ khí rất tiện dụng để chống lại các cuộc tấn công của đám đông, không loại trừ có cả những đàn sói nữa. Mọi người nên nhớ lão bá tước lúc nào cũng có các biện pháp đề phòng. Lão có những trò mèo mà bà Harker đây không thể nghe hoặc hiểu được hết. Chúng ta phải cảnh giác với mọi bất trắc có thể xảy ra.
- Tôi nghĩ tôi có thể đi cùng Quincey. - Bác sĩ Seward nói xen vào. - Cả anh nữa, Arthur ạ, anh cũng không nên đi một mình như thế. Có lẽ anh sẽ phải chạm trán với những người Sovakia, và chỉ cần một sai lầm thôi cũng đủ làm cho mọi kế hoạch của chúng ta bị phá sản. Lần này đừng để xảy ra bất cứ một sơ suất nào. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ chỉ dừng tay khi lão bá tước phả! chịu cảnh đầu lìa khỏi cổ và phải đảm bảo rằng lão không thể đầu thai được nữa.
Anh vừa nói vừa nhìn Jonathan, trong khi Jonathan lại đưa mắt nhìn tôi như khó nghĩ một điều gì đó. Tôi hiểu anh đang rất day dứt trong lòng. Tất nhiên là lúc nào anh cũng muốn được ở bên tôi, nhưng có điều chỉ những người ngồi trên xuồng mới có cơ hội hủy diệt... ma cà rồng. (Tại sao tôi cứ phải do dự khi nhắc đến từ này chứ?) Anh đứng lặng im và không thấy nói câu nào. Van Helsing phải lên tiếng để phá tan bầu không khí im lặng :
- Anh bạn Jonathan thân mến ạ, có hai lý do để anh phải nghe theo chúng tôi. Thứ nhất, anh còn trẻ và can đảm không kém, lại có khả năng chiến đấu, trong khi sức bình sinh của tất cả chúng ta đều buộc phải tập trung cho trận đánh cuối cùng. Hơn nữa, anh chính là người xứng đáng được trực tiếp ra tay hủy diệt... cái... đã gây cho anh và những người thân của anh biết bao nhiêu đau khổ. Còn đối với Mina lúc này, anh không cần phải lo lắng gì cả, tôi sẽ hết sức chăm sóc cô ấy trong chừng mực có thể. Dẫu sao thì tôi cùng già rồi, đôi chân không còn nhanh nhẹn như xưa, tôi không quen cưỡi ngựa đường dài, cũng chẳng giỏi cầm vũ khí. Nhưng nếu cần, tôi có thể chết như một thanh niên thực sự. Biết nói thế nào với anh điều tôi đang mong muốn bây giờ nhỉ! Thế này nhé, anh sẽ cùng huân tước Godalming đi xuồng ngược dòng sông, còn anh bạn John và Quincey đi trên bờ bám theo đề phòng trường hợp Tsarine Catherine bất ngờ cặp bến. Trong khi đó, tôi sẽ dẫn Mina đến sào huyệt của kẻ thù. Trong lúc con cáo già còn nằm ườn trong chiếc quan tài trên con tàu ngược lên thượng nguồn mà chưa thể bò lên mặt đất - hoặc không dám mở nắp vì sợ những người Slovaki quẳng xuống nước trong cơn hoảng sợ - chúng tôi sẽ bám theo con đường mà Jonathan đã từng đi, từ Bistritz đến Borgo, và tìm đường đến lâu đài Dracula. Khả năng nhập đồng của Mina chắc chắn sẽ còn giúp chúng tôi tìm được đường đi nơi xứ lạ - ngay sau lần mặt trời mọc đầu tiên trên chặng đường cần phải đi. Còn quá nhiều việc phải làm trước khi hang rắn độc bị xóa sổ.
Jonathan sốt sắng ngắt lời :
- Sao cơ, bác sĩ Van Helsing? Ngài định dẫn Mina của tôi đi trong một tâm trạng ảo não đến sào huyệt của thần chết sao? Không thể như vậy được, như thế chẳng có ích lợi gì hết! ...
Anh lặng thinh một lát rồi mời tiếp tục :
- Ngài có biết đó là một nơi như thế nào không? Ngài đã bao giờ thấy một địa ngục khủng khiếp đến như vậy chưa?. Nơi thậm chí cả ánh trăng cũng hiện thành những hình thù quái đản? Rồi từng hạt bụi đảo điên cuồng loạn trong gió lúc nào cũng có thể là mầm mống hiện hình thành những con quỷ cái nữa? Đã bao giờ ngài cảm thấy làn môi bẩn thỉu của một bóng ma cà rồng ngập vào cổ chưa?
Rồi anh quay sang nhìn trân trân vào trán tôi, hai tay giơ cao kêu trời :
- Trời ơi! Chúng tôi làm gì ai mà giờ phải chịu nông nỗi này kia chứ?
Không thể chịu đựng dược nỗi thất vọng trào dâng trong lòng, anh thả người ngã phịch xuống tràng kỷ. Nhưng như mọi khi, giọng trầm ấm và dịu dàng, tự tin của vị giáo sư già đã phần nào làm dịu nỗi cay đắng trong lòng anh và chúng tôi.
- Nhưng anh bạn ạ, nếu tôi có mong đến tận hang hùm ổ rắn thì chẳng qua cũng là để cứu chính Mina thân thương của chúng ta mà thôi. Cả đám đàn ông chúng ta đều nhận ra những gì cần phải làm trước khi cái nơi ghê tởm ấy bị loại bỏ. Nên nhớ rằng chúng ta đang bị dồn vào bước đường cùng. Nếu lần này vẫn thoát khỏi bàn tay chúng ta, có thể lão bá tước - một kẻ thông minh, có sức mạnh vô biên và cũng cực kỳ xảo quyệt - sẽ quyết định nằm im hàng trăm năm. Và sẽ tới lúc cô gái đáng thương dây - Vừa nói, ông vừa cầm tay tôi - trở thành quỷ cái giống như những ả đàn bà anh đã từng nhìn thấy trong lâu đài Dracula, Jonathan ạ. Anh nghe có đáng sợ không? Tôi hiểu điều đó! Xin lỗi vì lại làm anh khó chịu, nhưng điều tôi nói là cần thiết, anh bạn ạ. Theo anh thì có nên để xảy ra một sự thật phũ phàng như vậy không? Tuy nhiên, nếu điều phũ phàng ấy xảy ra, tôi sẵn sàng lấy cả mạng sống của mình để ngăn cản nó. Nếu có ai phải đến để rồi nằm lại nơi địa ngục của Dracula, thì người đó hẳn phải là tôi.
- Vậy thì ngài cứ làm theo ý mình đi. - Jonathan nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. - Chúng ta đều nằm trong vòng tay của Chúa mà!
* * * * *
Một lúc sau
Quả là tôi đã được an ủi rất nhiều khi được làm việc với những người đàn ông can đảm như những người bạn của vợ chồng tôi! Một người phụ nữ dịu dàng không thể không ngưỡng mộ những người đàn ông nghiêm túc, trung thực và dũng cảm như vậy! Nhưng thú thực là tôi cũng thầm cảm ơn khả năng về tiền bạc của họ. Nếu không có tiền, chúng tôi có thể làm nên trò trống gì vào lúc này chứ? Tôi rất biết ơn sự giàu có của huân tước Godalming và cả anh chàng Quincey Moriss nữa. Nếu họ nghèo, chúng tôi chẳng thể khởi hành đến đây, đến rất nhanh nứa là khác. Phần công việc của mỗi chúng tôi đều được sắp xếp ổn thỏa và ai cũng cố gắng hoàn thành tất cô nhiệm vụ của mình. Chỉ trong có ba tiếng đồng hồ, huân tước Godalming và Jonathan đã có trong tay một chiếc xuồng chạy hơi nước xinh xắn, có thể lên đường ngay từ tín hiệu đầu tiên. Bác sĩ Seward và Moriss đã tìm mua được nửa tá ngựa nòi đóng sẵn yên cương. Chúng tôi cũng mua đủ các loại bản đồ và trang thiết bị cần thiết. 11 giờ 40 tối nay, tôi cùng bác sĩ Van Helsing đi Veresti, nơi chúng tôi cớ thể mua một chiếc xe ngựa để đến đèo Borgo. Dĩ nhiên, chúng tôi phải mang theo nhiều tiền mặt để mua xe và vài con ngựa. Chúng tôi phải tự xoay xở một mình, bởi chẳng quen biết ai khác đáng tin để mà nhờ vả trong công việc mua bán. Giáo sư là người thông thạo nhiều thứ tiếng nên không cần lo gì về chuyện này. Chúng tôi ai cũng được trang bị vũ khí. Ngay cả tôi cũng có một khẩu súng ngắn cỡ lớn. Jonathan chỉ bình tĩnh khi thấy tôi cũng có vũ khí như những người khác. Bác sĩ Van Helsing bảo khẩu súng có thể giúp ích cho tôi nếu gặp chó sói. Thời tiết mỗi lúc một lạnh hơn với những trận mưa tuyết quần đi đảo lại như muốn thách thức chúng tôi.
* * * * *
Một lát sau
Tôi phải hết sức can đảm để lời vĩnh biệt với người chồng yêu dấu của mình. Chưa chắc chúng tôi có cơ hội gặp lại nhau. Mina ơi, can đảm lên nhé? Vị giáo sư già đang nhìn mi như muốn nhắc đừng mềm lòng trong lúc này. Đừng nhỏ lệ nếu chưa phải là lúc khóc vì niềm vui và hạnh phúc.
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 30 tháng 10
Tôi viết những dòng này dưới ánh sáng hắt qua cửa nồi hơi trên xuồng, trong lúc huân tước Gođalming nhận trách nhiệm vận hành lò hơi, bởi anh hoàn toàn có kinh nghiệm sau nhiều năm gắn bó với con xuồng nhỏ của mình trên sông Thêm và trên các vùng hồ ở Norfolk. Sau khi nghiên cứu các loại bản đồ, chúng tôi quyết định làm theo giả thiết của Mina: nếu có một tuyến đường thủy đưa Dracula về lâu đài của lão, thì đó chỉ có thể là sông Sereth, rồi từ ngã ba tiếp tục đi theo dòng Bistritza. Chúng tôi cho nơi lý tưởng nhất để đi xuyên xứ sở, giữa con sông và rặng Carpates, nằm ở 47 độ vĩ bắc. Chiếc xuồng của chúng tôi cớ thể phóng hết tốc lực mà không lo gì hết: dòng nước sông chỗ nào cùng sâu và khoảng cách giữa hai bờ bãi luôn đủ rộng để chúng tôi có thể lướt thoải mái trên mặt nước, kể cả vào ban đêm. Huân tước Godalming khuyên tôi ngủ một giấc, anh bảo lúc này chỉ cần một người cũng đủ để quán xuyến mọi việc Nhưng làm sao tôi có thể ngủ được khi trong đầu lúc nào cũng trĩu nặng nỗi lo sợ về một mối nguy hiểm mơ hồ đang lơ lửng trên đầu vợ mình trên đường tới cái nơi khủng khiếp ấy? Niềm an ủi duy nhất đối với là phải biết tự nhủ mình và những người bạn đang nằm trong vòng tay che chở của Chúa. Không có niềm tin này, cách đơn giản nhất để tôi giải thoát mình khỏi bao nỗi đắng cay là tìm đến cái chết. Moriss và bác sĩ Seward đã cưỡi ngựa lên đường trước chúng tôi vì đoạn đường họ phải đi sẽ rất dài và không ít gian truân. Họ đi bám ngược theo dòng Sereth cất để giữ được một tầm nhìn nhất định với con sông và đỡ đụng phải những quãng đường gập ghềnh khúc khuỷu. Có hai kỵ sĩ mang ngựa dự phòng đi cùng họ trong những chặng đường đầu tiên để tránh gây sự chú ý. Hai kỵ sĩ này sẽ sớm quay về, và khi đó hai người bạn tôi phải tự lo liệu lấy mọi việc. Có thể sẽ tới một lúc chúng tôi phải gặp họ để cùng nhau đi nốt đoạn đường trên lưng ngựa.
Hành trình của chúng tôi quả là một chuyến đi phiêu lưu mạo hiểm! Chúng tôi lặng lẽ đi xuyên màn đêm, dưới cái lạnh mỗi lúc một thấu xương buốt thịt, giữa vô vàn những âm thanh bi ai dọc hai bờ bãi, trên những đoạn đường xa lạ đầy hiểm họa, bất trắc lơ lửng trên đầu, về một thế giới của địa ngục với bao điều khủng khiếp đang chờ đợi từng người.
Huân tước Godalming vừa đóng cửa nồi hơi lại.
* * * * *
Ngày 31 tháng 10
Vẫn trên hành trình truy nã. Một ngày mới đang đến.
Huân tước Godalming vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Tiết trời buổi sáng lạnh quá. Chúng tôi vượt qua mấy chiếc xà lan chở hàng nhưng không thấy có chiếc nào mang một chiếc hòm gỗ như chúng tôi cần tìm. Ánh đèn pin của chúng tôi đã làm các thủy thủ hoảng sợ, họ quỳ xụp xuống sàn tàu cầu nguyện và vái lạy lia lịa.
* * * * *
Ngày 1 tháng 11, buổi chiều
Ngày hôm nay không có gì mới. Chúng tôi chẳng phát hiện dược điều gì cần tìm, dù đã để mắt tới hết thảy các thuyền lớn, thuyền nhỏ gặp trên sông. Bây giờ chúng tôi đang ở Bistritza. Nếu giả thiết cả nhóm đã đưa ra là sai thì coi như chúng tôi đã mất hết cơ hội. Sáng nay, chúng tôi đã được các thủy thủ trên một con tàu của chính phủ đón tiếp rất tử tế và đã xin được một chiếc cờ hiệu Rumani để cắm lên xuồng. Chính chiếc cờ đã tạo điều kiện để chúng tôi tiếp cận và hỏi thăm thuyền bè đi lại trên sông mà không gặp bất cứ một trở ngại nào. Một số người Slovaki cho chúng tôi biết có một tàu lớn, với mấy thủy thủ trông như những bóng ma trên boong, đã vượt qua họ bằng một tốc độ không bình thường chút nào. Họ nhìn thấy con tàu này ở gần ngã ba Fundu, nơi dòng Bistritza chảy vào sông Sereth, nên không biết nó định rẽ theo ngả nào. Chúng tôi tới Fundu nhưng không biết thêm tin gì, chắc là con tàu đã vượt sông vào ban đêm. Tôi buồn ngủ díp cả mắt, có lẽ cái lạnh cắt da cắt thịt đã kích thích cái bản năng đang mỗi lúc một trỗi dậy trong tôi. Godalming cứ nằng nặc đòi thức ca đầu tiên. Chúa sẽ ban phước lành cho anh, một người bạn đang hết lòng vì vợ chồng tôi.
* * * * *
Ngày 2 tháng 11, buổi sáng
Mặt trời đã lên cao, nhưng anh bạn tôi vẫn không muốn đánh thức tôi dậy. Anh bảo nếu làm vậy là có lỗi, vì giấc ngủ bình yên sẽ làm tôi tạm quên nỗi ưu phiền trong lòng. Tôi có cảm giác mình hơi ích kỷ khi đã ngủ quá lâu như vậy. Nhưng dẫu sao thì Gođalming cũng có lý bởi rõ ràng là sáng nay tôi đã cảm thấy mình trở thành một người khác hẳn, hoàn toàn có thể điều khiển được chiếc xuồng và theo dõi mọi sự việc xảy ra xung quanh. Dường như tôi đã lấy lại được sức mạnh và nghị lực của mình. Không hiểu giờ này Mina và bác sĩ Van Helsing đã đến đâu rồi. Hẳn là họ đã tới Varesti vào tra thứ tư theo dự kiến. Họ sẽ phải mất ít nhiều thời gian để mua xe và vài con ngựa. Vậy thì nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, chắc chắn bây giờ họ đã phải tới đèo Borgo. Cầu Chúa hãy che chở cho họ! Người tôi bỗng run lên khi hình dung ra những gì có thể xảy ra với họ. Ước gì chúng tôi đi nhanh hơn nữa? Nhưng động cơ trên xuồng đều đã chảy ở tốc độ tối đa. Làm sao đuổi kịp bác sĩ Seward và Moriss đây?... Có rất nhiều dòng suối nhỏ đổ từ trên các vách núi xuống dòng sông chúng tôi đang đi, nhưng sẽ chẳng có trở ngại gì đáng kể với các kỵ sĩ - ít nhất là ngay hôm nay, khi không có tuyết rơi. Tôi hy vọng sẽ gặp lại họ trước khi đến Strasba. Bởi nếu chưa phát hiện ra lão bá tước trong lúc này, chúng tôi sẽ phải gặp nhau để cân nhắc lại vấn đề.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 2 tháng 11
Ròng rã suốt ba ngày trên đường, không có bất cứ một tin tức gì, và nếu có tôi cũng không tìm được lúc nào để mà ghi lại, bởi mỗi phút đối với chúng tôi lúc này cũng đều rất quý. Chúng tôi chỉ dám dừng lại khi buộc phải để cho mấy chú ngựa được nghỉ ngơi chốc lát, nếu không chúng tôi vẫn thừa sức để đi tiếp. Những cuộc phiêu lãng ngày xưa của chúng tôi không ngờ lại hữu ích đến thế, nếu không từng trải, chắc gì chúng tôi đã bền bỉ được nhừ bây giờ? Chúng tôi chỉ có thể vui khi gặp lại chiếc xuồng chở huân tước Godalming và anh bạn Jonathan.
* * * * *
Ngày 3 tháng 11
Tới Fundu, có người nói với chúng tôi rằng chiếc xuồng đã vào sông Bistritza. Cầu mong họ đừng chết cóng vì rét! Dường như sắp có tuyết rơi thì phải. Nếu tuyết rơi dày, chúng tôi sẽ bị cản bước đáng kể. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ phải mua một chiếc xe trượt tuyết để chạy như người Nga vẫn làm.
* * * * *
Ngày 4 tháng 11
Hôm nay, sau khi hỏi thăm, chúng tôi được biết chiếc xuồng đã bị hỏng và biến dạng vì ra sức băng ghềnh vượt thác. Các tàu thuyền của người Slovaki đều vượt lên dễ dàng nhờ sự trợ giúp của một sợi dây kéo và tài chèo lái không ai bằng của từng người trên thuyền. Cũng may Godalming là một thợ cơ khí tài tử, nên anh đã sửa lại nguyên trạng chiếc xuồng của mình.
Cuối cùng anh và Jonathan đã vượt qua các ghềnh thác và tiếp tục lên đường nhờ sự giúp đỡ của người địa phương. Tôi nghĩ thế nào vụ tai nạn cũng làm cho chiếc xuồng bị hỏng khá nặng, bởi mấy người nông đân bảo chúng tôi rằng sau khi được sửa chữa, nó đã dừng lại không ít lần trong tầm nhìn của họ. Vậy thì chúng tôi phải phóng thật nhanh lên mới được. Sự giúp đỡ của chúng tôi là điều rất cần thiết trước khi sự việc trở nên quá muộn.
Nhật ký của Mina Harker
Chúng tôi đến Veresti vào buổi trưa. Giáo sư bảo tôi rạng Đông hôm nay, vất vả lắm ông mới thôi miên được tôi, đã thế tôi lại không thể nói được một điều gì khác: “Tối om, yên tĩnh”. Ông đã đi mua một chiếc xe và vài con ngựa tăng viện - nếu có thể - để thay phiên kéo trên đường. Chặng đường chúng tôi đi dài dằng dặc. Xứ sở này quả là tươi đẹp và nhiều điều thú vị. Giá như chúng tôi được đi dưới bầu trời này trong một hoàn cảnh khác thì hay biết bao? Giá như tôi và Jonathan cùng được sánh bước trên đường thì lãng mạn biết nhường nào?
Ôi những con người xa lạ, những cảnh vật thần tiên và hoang dại kia?...
* * * * *
Một lúc sau
Bác sĩ Van Helsing quay về với một chiếc xe và vài chú ngựa. Ngoài ra ông còn mua thêm một lô chăn dạ và vài chiếc áo lông thú để chuẩn bị cho cái rét thấu xương. Chúng tôi phải ăn uống cho thật no rồi lên đường trong một tiếng đồng hồ nữa. Nhưng ông chủ quán trọ lại bưng ra một rổ thức ăn hỗn tạp như người ta vẫn dành cho những người lính. Giáo sư phải nói nhỏ vào tai tôi rằng trong một tuần nữa, chưa chắc chúng tôi đã tìm được một thứ đồ ăn dễ chịu nào khác, vì vậy phải cố mà ăn.
Một lúc nữa thôi, chúng tôi sẽ lên đường. Người tôi bỗng run lên khi nghĩ đến những gì đang chờ đợi dọc đường đi. Nhưng thực tình mà nói, tôi vẫn tin ở sự che chở của Chúa. Chỉ có Ngài mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng dù thế nào thì tôi cũng cầu mong cho người chồng yêu dấu của mình được quay trở về bình yên. Ước gì Jonathan hiểu được tình cảm chân thành tôi luôn dành trọn cho chàng tự đáy lòng mình!
Xem tiếp chương 27