Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng. Tổ tiên Trương Lương năm đời làm khanh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hán, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vọng quốc quyết chí báo thù, bỏ ra nghìn nén vàng, đi khắp thiên hạ, liên kết với dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa. Trong lúc Trương Lương đang ngẩn người,buồn thế sự, thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến, chào Trương Lương,và nói:
- Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngàu muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.
Trương Lương thấy người ấy mình cao một trướng, tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói:
- Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.
Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà. Trà nước xong, Trương Lương hỏi:
- Xin tráng sĩ cho biết quý danh.
Tráng sĩ đáp:
- Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái, đem lòng mến, chẵng hay quý hiệu là chi? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng?
Trương Lương nói:
- Tôi người nước Hán, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi. Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi, trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.
Hải Công hớn hở xua tay nói:
- Tôi ngụyên tuân theo lời ngài.
Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi tham thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.
Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.
Tiếng trống rập rềnhtừ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng. Hải Công tay cầm thanh chùy đứng chờ.
Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao. Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.
Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết!
Vì, Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn mộ chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đu trước.
Thế là Trương Lương đã thất bại!
Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.
Thủy Hoàng nghiến răng hét:
- Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó?
Thượng Hải Công trừng mắt đáp:
- Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều óan hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại, sao mày lại hỏi ngu thế?
Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.
Hải Công cười lớn, rồi đập đầu xuống đá tự vân.
Trương Lương lòng đau như cắt, dậm đất, kêu trời than:
- Trời ơi! Cái thù của nước Hfn ta biết bao giờ mới trả được! Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chuad để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao!
Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá.
Hạng Bá là cháu Hạng Yên, trước kia từng làm tướng nước Sở, với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà, không để lộ tông tích.
Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngòai dạo cảnh.
Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rớt chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói:
- Này tiểu tử, hãy lại đây lượm chiếc giày cho ta.
Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đao cốt, biết không phải người thường, liền bước đến, cúi lượm chiếc giàu trao cho ông lão rất kính cẩn.
Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rới xuống, bảo Trương Lương nhặt. Cứ như thế đến ba lần, Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn.
Ông lão mỉm cười, nhìn Trương Lương nói:
- Thằng bé này có thể dạy được đây!.
Liền chỉ vào gốc cổ thụ gân đó, nói:
- Năm ngày nữa, người đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý! Chớ sai hẹn!
Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.
Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chỗ gốc cây, thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.
Ông gìa nhìn Trương Lương mắng:
- Đã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ? Thôi ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm sau đó phải đến cho thật sớm.
Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương đã thức dậy ra gốc cây, dè dâu ông cũng đã ngồi ở đó rồi.
Ông lão mắng:
- Sao người biếng nhác như thế? Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.
Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ta ra nơi gốc cây ngồi chờ.
Trống canh năm vừa điểm, ông lão lếch mếch đến. Trương Lương sụp lạy, nói:
- Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.
Ông lão nói:
- Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tập, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho người ba quyển bí thư, trong có đủ mưu,thần toán, dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hán báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem laị thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:
- Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.
Ông lão nói:
- Ba năm nữa, nơi phía Đông thành Đại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng (hoàng thạch) tức là ta đó.
Trương Lương nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ "Thái Công Binh Pháp" ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.
Giữa lúc đó, Thủy Hoàng đi Đông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường. Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông. Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Đông Nam, đi về huyện Bái.
Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.
Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói:
- Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.
Lý Tư tâu:
- Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hệ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng?
Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thăm bắt bớ nữa. Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.
Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ xuống đâm Thủy Hoàng.
Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ:
- Không nên! Đại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường!
Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.
Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không rành.
Người chú là Hạng Lương, thường mắng:
- Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đò dốt nát.
Hạng Vũ nói:
- Thưa chú, học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ định nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.
Hạng Lương giận hỏi:
- Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi?
Hạng Vũ thưa:
- Cháu muốn học nghề gì mà nhất nhân địch vạn nhân, như thế ngày sau, mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiện hạ được.
Hạng Lương thấy cháu có ý lạ, liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn nay Hạng Vũ thích học hơn, song cũng chỉ học những cái đại cương mà thôi.
Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thủy Hoàng tuần tuần du đến. Hạng Vũ vốn ghét Thủy Hoàng dâm bạo, muốn giết đi, nhưng Hạng Lương kịp cảnlại. Từ ấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.
Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành, dân chúng khiếp sợ lẫn tránh, liều tâu:
- Tâu Bệ hạ, Bệ hạ tuần du đã lâu, trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ, xin Bệ hạ khá hồi loan, sửa sang chính trị, giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc.
Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan.
Đi đến địa phận Duyên Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ màng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến. Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu, nhắm sức không cự nổi bỏ chạy. Chạy đến một bờ biển, nước xanh cuồn cuộn, sóng gió hãi hùng, hả mồm, ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi. Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào, tay chân rũ rượi.
Biết điềm mộng chẳng lành, Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh.
Đi đến đất Sa Khâu, bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói:
- Trẫm biết không chẳng còn sống để thọ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất trẫm có băng hà, khanh nên đến Thương Quân đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiện hạ mới mong lạc nghiệp được.
Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư.
Lý Tư sụp lạy nhận mệnh, Thủy Hoàng nói:
- Ngươi phò trẫm đã lâu, các việc lớn nhỏ trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì người chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái, có thể dùng đức cải oán thiên hạ được. Ta tiếc rằng đời ta đã dùng vạo lực, phương thức không hay đói với chánh sách trị nước.
Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.
Lý Tư liền tẩm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, rồi ngay sau đó sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.
Triệu Cao cản lại nói:
- Không nên! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu thừa tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.
Lý Tư nói:
- Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.
Triệu Cao cười nhạt, nói:
- Đành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy, thà phụ lời di chúc mà giữ địa vị còn hơn. Thừa tướng đối với Thái Tử đâu bằng Mông Điềm.
Lý Tư thở dài hỏi:
- Theo ý ngài nên làm thế nào?
Triệu Cao nói:
- Hãy đổi tờ di chúc, lập Công Tử Hồ Hợi lên nối ngôi.
Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẫn nhìn Triệu Cao nói:
- Vâng, tôi xin theo lời ngài.
Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công Tử Hồ Hợi nói:
- Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử, thừa tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô,chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.
Hồ Hợi cau mày nói:
- Ôi chao! Sao các ngài có ý nghĩ như thế? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, còn không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được!
Triệu Cao nói:
- Đáng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì.
Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai,gật đầu đáp:
- Ừ, thế thì các ngài hành đọng cách nào tùy ý.
Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quân, bắt Phù Tô phải tự tử. Đoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.
Diêm Nhạc đến Thượng Quân truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu, Phù Tô vội vàng ra sụp lạy Diêm Nhạc mở chiếu ra đọc rằng:
"Nhà Đại Tần ngày... tháng ... năm thứ ba mươi bảy.
Thủy Hoàng đế hạ chiếu:
Đời Tam Đại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không đáng làm chủ thiên hạ.
Nay Trưởng Tử Phù Tô cãi mệnh cha, không tròn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được, song theo phép tổ tiên thì không khoản miễn.
Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái tử, truất Phù Tô xuống thứ dân, trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự tử lấy thân.
Còn như tướng Mông Điềm cầm quân cõi ngoại không ích lợi gì cho nước,chỉ làm hao tốn muôn dân, lẽ ra phải theo phép gia hình, nhưng vì trường thành chưa xong, tạm để cho Mông Điềm ở đó, đôn đốc công việc.
Chiếu chỉ đến nơi, phải lập tức tuân theo".
Khâm Tử.
Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói:
- Ôi! Vua bảo chết, tôi không thể không tuân, cha bảo chết con không thể trái mệnh. Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu.
Mông Điềm lại nói:
- Xin Điện hạ xét lại đã. Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi hai vạn quân đóng nơi biên cương, lại sai Điện Hạ đến làm Giám Đốc. Đã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Điện hạ về triều thỉnh tôi để rõ ngay gian.
Phù Tô lắc đầu nói:
- Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi, nay bắt chết đó là thánh ý. Tôi không muốn cãi lời.
Nói xonh, sai quân đem thuốc độc đến, uống một hơi cạn chén.
Ót chết, Mông Điềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.
Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi.
Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế Hoàng đế.
Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.
Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trâùn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.
Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước. Vua Nhị Thế thấy Mông Điềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.
Quan Đại Thần Tử Anh can:
- Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin Bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.
Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Điềm giết hết.
Mông Điềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than:
- Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Tần cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.
Đêm ấy, Mông Điềm uống thuốc độc tự tử.
Vua Nhị Thế nghe tin Mông Điềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Điềm đày qua Thcụ quân. Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Điềm, nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nể ai nữa.
Lời Bàn:
- Biết nhẫn nại, mỗi việc dù lớn nhỏ, đều lượng sức mình hiểu sức người,đó là hàn động của kẻ trí.
- Ỷ sức mạnh, không nghĩ đến hậu quả, đó là hành động của vũ phu.
Bản lĩnh con người hiện ra ở tánh tình và hành động.
- Trương Lương ba lần được tiên lão thử thách, ngưng tỏ ra nhẫn nại, không tự ải, không bất mãn. Do đó được tiên lão truyền binh pháp. Cho hay, những kẻ làm nên việc lớn thường là những kẻ biết đem lý trí trấn áp cá tánh của mình.
- Hải Công, vì lòng tri ngộ, giúp Trương Lương, sách kiếm đón đường thích khách Tần Thủy Hoàng. Hành động ấy cũng tỏ ra hào kiệt, song chỉ là cái vũ dũng cá nhân, điển hình cho việc nghĩa mà thôi.
- Đến như Hạng Vũ, điển hình một tiềm tàng về vũ lực, có thể nói vũ lực ngự trị cả tâm hồn. Lúc nhỏ không chịu học, cho rằng học chữ chỉ biên chép mòn ngày, học kiếm chỉ địch một người, muốn hoạc môn nào nhật nhân địch vạn nhân. Xem đó thì cái chí hiên ngang của Hạng Vũ đã un đúc từ thuở bé vậy.
- Ngoài cái sức mạnh vũ dũng chúng Tần còn thấy cái sức mạnh của tinh thần. Trường hợp Phù Tô, đem cái chết đổi lấy hiếu đạo: "Thà chết chớ không bất hiếu". Nếu tinh thần con người không có một sức mạnh, sao có thể làm được việc đó. Thế thì tinh thần cũng có một sức mạnh đáng kể.