Phần 2- Hải chiến Midway (tiếp theo và hết)
Kết quả
Trận chiến Midway đã kết thúc, thiệt hại cho phía Nhật hết sức nặng nề. 4 tàu sân bay hạng nặng, 1 tuần dương hạm, 272 máy bay, 100 phi công, 3400 thủy thủ, 3 thuyền trưởng hàng không mẫu hạm đầy kinh nghiệm cùng một đô đốc, bí mật của loại máy bay Zero. Số phi công Nhật thiệt mạng tương đương với số mà nước Nhật có thể đào tạo trong 1 năm.
Thiệt hại về người của Nhật
Akagi:
Warrant officers and above 8
Petty officers and men 213
Total 221
Kaga:
Captain, officers, and men 800
Hiryu:
ComDiv, captain, warrant officers, and above 29
Petty officers and men 387
Total 416
Soryu:
Captain, warrant officers, and above 35
Petty officers and men 683
Total 718
Thiệt hại của quân Mỹ
Hàng không mẫu hạm Yorktown và khu trục hạm Hammann bị đắm
150 máy bay bị rơi hoặc hư hại đến mức không sửa chữa được
92 sĩ quan v à 215 binh sĩ
Việc khám phá ra bí mật của chiếc Zero cho phép người Mỹ chế tạo thành công chiếc F6F Hellcat, mà chỉ 1 năm sau đã bắt đầu chấm dứt sự thống trị trên không của người Nhật.. Chỉ còn hai hàng không mẫu hạm là Zuikaku và Shokaku có thể huy động cho các hoạt động tấn công. Các mẫu hạm còn lại là Ryūjō, Junyo và Hiyo đều là mẫu hạm nhẹ với đường băng nhỏ, chúng khó có khả năng sống sót như các hàng không mẫu hạm. Thất bại nặng nề của người Nhật xảy ra sau nửa năm khai chiến với Hoa Kỳ. Khoảng thời gian này là gần như chính xác với dự đoán của Đô đốc Isoroku Yamamoto về quãng thời gian nước Nhật có ưu thế trước khi người Mỹ giành quyền chủ động.

Yorktown
Với Hải quân Hoa Kỳ bây giờ đủ lực lượng áp đảo đối phương trong phương diện về hàng không mẩu hạm và đang vươn móng vuốt của nó về phía trước, Hoa Kỳ bắt đầu có thể vào thế công kích lần đầu tiên trong cuộc chiến. Sau đó không lâu Hoa Kỳ xâm chiếm Guadalcanal, mở đầu cuộc chiến quần thảo hao mòn tại Quần đảo Solomon và cuối cùng đánh tan hải quân và các đơn vị không quân thiện chiến của Nhật
Ảnh hưởng của cuộc chiến
Đánh giá ảnh hưởng của cuộc chiến đòi hỏi phân tích thật cẩn trọng. Mặc dù trận Midway thường được gọi là "bước ngoặt của chiến trường Thái Bình Dương", rõ ràng là Hoa Kỳ chưa thể thắng cuộc chiến Thái Bình Dương trong một đêm. Hải quân Nhật Bản tiếp tục chiến đấu gan lì, và phải mất nhiều tháng trước khi Hoa Kỳ xoay trở từ trạng thái cân bằng hải lực sang trạng thái chiếm ưu thế. Cho dù không có sự khác biệt to lớn về lực lượng giữa hai bên tham chiến, đặt giả thiết là Hoa Kỳ đã thua trận chiến này, Nhật Bản cuối cùng vẫn sẽ thua Hoa Kỳ trên mặt trận Thái Bình Dương. Như thế, Midway không phải là trận chiến "quyết định" trong cùng ý nghĩa như Trận Salamis hay Trận Trafalgar. Tuy nhiên, chiến thắng ở Midway đưa Hoa Kỳ vào thế chủ động, gây thiệt hại nặng cho lực lượng Nhật khiến nó không thể hồi phục lại được và rút ngắn chiến tranh Thái Bình Dương.
Chỉ hai tháng sau trận Midway, nhận ra sự bất ổn của phía Nhật, người Mỹ tấn công Guadalcanal. (Nếu không có thắng lợi ở Midway, người Mỹ không thể sớm tấn công như thế hoặc có thì cũng không thành công như đã đạt được ở Guadalcanal). Bảo đảm đươc tuyến hậu cần đi tới Australia và Ấn Độ Dương trong thời gian đó, cùng với việc tiêu hao lực lượng Nhật trong chiến dịch Guadalcanal, đã có những ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình chiến tranh. Tác động của việc này đến rút ngắn thời gian cuộc chiến thì vẫn còn bàn cãi, mặc dù lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Thái Bình Dương đã khiến nền kinh tế Nhật Bản đi đến chỗ đình trệ vào tháng Giêng năm 1945.
Trong khi trận Midway chưa chứng tỏ là không quân của Hải quân Nhật hoàn toàn bị tiêu diệt, nó lại là một đòn chí tử. Chương trình huấn luyện phi công của Nhật trước chiến tranh đào tạo ra các phi công với phẩm chất rất cao nhưng với số lượng ít. Nhóm nhỏ các phi công tài giỏi này là những chiến binh dày dạn trong chiến đấu. Tại Midway, Nhật Bản mất rất nhiều các phi công thiện chiến chỉ trong một ngày mà chương trình huấn luyện đào tạo trong một năm. Trong các trận chiến sau này quanh Guadalcanal vào cuối năm 1942 như Trận Đông Solomons và Trận Santa Cruz không quân của Hải quân Nhật không gượng dậy được bởi bị tiêu hao cho dù tổn thất của hai bên là khá tương đương. Các nhà hoạch định chiến lược của Nhật đã sai lầm trong dự đoán một cuộc chiến tranh lâu dài và không ngừng nghỉ. Kết quả là nước Nhật đã không bổ sung, bù đắp đủ cho những thiệt hại về tàu bè, phi công và thủy thủ. Mặt dù chương trình huấn luyện của Nhật trong chiến tranh có đào tạo phi công nhưng họ không được huấn luyện thích đáng khi chiến tranh tiếp diễn, và sự mất cân đối này trở nên tồi tệ hơn khi các máy bay chiến đấu thế hệ sau của Hoa Kỳ tỏ rõ ưu việt trước máy bay của Nhật Bản. Khoảng giữa năm 1943, những thiệt hại ở Midway và quần đảo Solomons đã làm kiệt quệ lực lượng không quân của hạm đội Nhật. Tệ hơn nữa, thói quen của quân đội Nhật là vẫn giữ các phi công điêu luyện ở lại chiến đấu đã làm suy yếu năng lực huấn luyện đội ngũ phi công mới. Trái lại, Hải quân Mỹ điều các phi công xuất sắc của họ trở về các căn cứ huấn luyện để truyền thụ, nhân rộng các kỹ năng đánh bại người Nhật
Sự hủy hoại bốn hàng không mẫu hạm của hạm đội Nhật Bản là một tổn thất không thể thay thế được. Nước Nhật đã không thể bổ sung đủ 4 chiếc khác mãi cho đến đầu năm 1945. Trong khoảng thời gian đó, Hải quân Hoa Kỳ đã cho vào phục vụ hàng chục mẫu hạm lớn và nhỏ và vô số mẫu hạm hộ tống. Như vậy, Midway đã gây thiệt hại lâu dài cho lực lượng tấn công của Hải quân Nhật Bản, và rút ngắn khoảng thời gian mà lực lượng hải quân Nhật có thể chiến đấu trong những điều kiện có lợi. Việc mất năng lực chiến đấu ở giai đoạn sống còn này là một tai họa cho Đế quốc Nhật Bản. Họ đã có thể tiến hành những chiến dịch quy mô hơn và có lẽ là thành công hơn, để chống lại những chiến dịch phản công của Hoa Kỳ.
Tầm quan trọng của Trận Midway cũng có thể được đánh giá bằng cách nghiên cứu ngược lại thực tế rằng các mẫu hạm của Hoa Kỳ bị tiêu diệt, dù đây chỉ là chuyện giả thiết. Bằng phân tích thì thấy rõ là sự bại trận của Hoa Kỳ tại Midway đã có thể kéo dài cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Nó làm chậm sự khởi đầu của chiến cuộc hao mòn toàn diện mà cần thiết như cách duy nhất để đem cường quốc công nghiệp hóa hiện đại như Nhật Bản chịu quỳ dưới chân mình. Với chỉ hai hàng không mẫu hạm còn khả năng chiến đấu (chiếc Saratoga và Wasp), nước Mỹ buộc phải ở thế phòng ngự chiến lược cho đến cuối năm 1942. Người Nhật có thể tiếp tục tiến đến New Hebrides (sát Australia) và cắt đứt liên hệ của Hoa Kỳ với Australia, đồng thời hoàn tất việc xâm chiếm New Guinea. Hơn thế nữa, một thất bại nặng nề ở Midway có thể dẫn đến việc cách chức những tướng lĩnh quan trọng như Nimitz và Spruance. Các chiến dịch tấn công trên Thái Bình Dương sẽ bị trì hoãn đến cuối năm 1943, khi các mẫu hạm thế hệ Essex và Independence có mặt với số lượng thích đáng.
Cũng giả thiết như thế, nếu Hoa Kỳ thua trận, việc phân phối lại những nguồn nhân lực và vật chất cho hải và không quân Hoa Kỳ có thể bị trì hoãn trong các cuộc hành quân đổ bộ tại Bắc Phi, Địa Trung Hải, và có thể là Normandy. Một cuộc chiến lâu hơn ở Thái Bình Dương cũng nêu lên câu hỏi về vai trò của Liên Xô trong việc buộc Nhật đầu hàng, và không biết là sau đó Liên Xô có hiện diện
|