Một hôm khác, tôi lại cùng anh đi chơi trên ngọn đồi nhìn ra ngoài khơi. Hôm đó trời âm u nên không thể trông thấy dải đất liền ở phương xa. Tôi hỏi anh có muốn trở về quê hương, sống với đồng bào của anh không? Anh trả lời:
-Có chứ! Tôi rất sung sướng được gặp đồng bào tôi. Tôi hỏi thêm:
-Này! Về thì anh sẽ làm gì? Anh lại đánh nhau, giết nhau như trước phải không? Nghe câu hỏi đó, anh có vẻ buồn và lắc đầu trả lời:
-Không đâu! Không đâu! Thứ sáu sẽ nói với họ ăn ở với nhau cho tốt, ăn bánh bột mì và thịt thú vật nấu chín, uống sữa dê, sữa bò, không chém giết nhau nữa. Tôi hỏi lại:
-Nhưng nếu họ không nghe mà giết anh đi thì sao! Anh trả lời rất tin tưởng:
-Không đâu! Họ không giết tôi đâu! Đồng bào tôi cũng rất thích biết nghe những điều đó.
Từ đó, tôi không còn e ngại gì nữa, quyết liều vượt biển một phen, tìm cách gặp những người da trắng kia. Theo tôi đoán thì họ có thể là người Tây-ban-nha hoặc Bồ-đào-nha. Có được một số đông bạn đường như thế, chắc chắn thể nào tôi cũng trở về được quê hương. Dĩ nhiên tôi không thể há vọng gặp được sự may mắn như thế trên hòn đảo trơ trọi này cách xa đất liền đến ngoài bốn chục dặm đường. Còn trông chờ ở sự giúp đỡ của những bộ lạc thổ dân thì cũng chẳng có há vọng gì! Thứ sáu chả đã nói với tôi là họ đối xử rất tốt với những người da trắng kia đó ư? Nhưng họ có giúp được những người đó trở về quê hương đâu! Quyết chí như vậy, tôi chuẩn bị kế hoạch vượt biển và giao việc cho Thứ sáu. Tôi dẫn anh sang phía bên kia hòn đảo và chỉ cho anh xem cái xuồng của tôi. Chúng tôi chèo xuồng xuống nước, đẩy nó ra biển rồi cùng trèo lên. Thứ sáu điều khiển xuồng rất nhanh nhẹn và khoẻ khoắn; xuồng đi vùn vụt, có thể nhanh gấp đôi khi tôi điều khiển. Tôi bảo anh:
-Này Thứ sáu! Bây giờ chúng ta có thể đi về quê hương anh được không? Anh ta tỏ vẻ lo ngại vì xuồng nhỏ quá không thể vượt biển được.
Tôi bèn giới thiệu cho anh chiếc xuồng lớn làm dạo trước, phơi nắng gió trong hai mươi ba năm trường, bây giờ đã nứt ngang nẻ dọc, gỗ mục gần hết. Theo ý anh thì cái xuồng này đủ sức lớn để vượt biển với tất cả lương thực cần phải đem theo. Tôi bèn bảo anh là bây giờ cũng phải cố công làm cho được một cái xuồng lớn như thế để giúp cho anh trở về quê hương. Nghe tôi nói, anh cúi đầu có vẻ vô cùng buồn bã, không trả lời một tiếng. Tôi ngạc nhiên hỏi anh vì sao lại nín thinh như vậy, anh buồn rầu trả lời:
-Tại sao ông chủ lại giận Thứ sáu? Tôi đã làm gì để mất lòng ông chủ? Tôi trả lời cho anh hiểu rằng anh đã nhầm chứ tôi có giận anh tí nào đâu?
-Không giận!
-anh trả lời ngay và nhắc đi nhắc lại hai tiếng đó.
-Không giận! Thế thì sao ông chủ lại bảo Thứ sáu trở về quê hương?
-Sao?
-tôi hỏi lại
-Thế không phải là anh đã nói với tôi rằng anh ước mong được trở về quê hương hay sao?
-Đúng thế!
-anh đáp lại
-Nhưng mà tôi muốn cả hai chúng ta cùng đi cơ mà! Thứ sáu không muốn chỉ một mình Thứ sáu trở về mà không có ông chủ cùng đến. Tôi mới vỡ lẽ ra và thấy rõ ràng là Thứ sáu không hề nghĩ đến vượt biển trở về quê hương một mình nếu không có tôi cùng đi. Tôi bèn hỏi anh xem cùng đi như thế thì có lợi gì? Anh hăng hái đáp lại ngay, rất chân thực:
-ông chủ tốt lắm. Đến quê hương tôi, ông chủ sẽ làm được nhiều điều tốt cho đồng bào tôi. ông chủ sẽ bày cho đồng bào tôi biết thương yêu nhau.
-Than ôi! Thứ sáu ơi!
-tôi buồn rầu trả lời anh
-Anh chẳng hiểu gì về lời anh nói cả! Tôi chỉ là một người dốt nát không hơn không kém!
-Không đâu! Không đâu!
-anh vội vã đáp lại.
-ông chủ tốt lắm, giỏi lắm. ông chủ đã bày bảo cho tôi biết nhiều điều tốt. ông chủ cũng sẽ bày bảo cho đồng bào tôi như thế. Cũng là anh em cả đấy mà! Tin chắc ở lòng chân thành của anh, tôi càng làm ra vẻ cương quyết để cho anh một mình trở về quê hương và quả nhiên như thế lại càng làm cho anh buồn bực vô chừng. Anh cầm ngay cái búa thường ngày vẫn mang theo bên mình mà đưa cho tôi:
-Đây, búa đây! ông chủ giết Thứ sáu đi chứ đừng bắt Thứ sáu về quê hương một mình như thế.
Mắt anh đẫm nước mắt, vẻ mặt anh xem ra rất xúc động. Tôi lại càng thấm thía và tin tưởng vào tình cảm keo sơn của anh đối với tôi. Tôi vội an ủi anh và hứa ngay với anh rằng sẽ không bao giờ bảo anh về quê hương một mình nếu tự anh chưa muốn về. Tôi nhận thấy sở dĩ anh bạn tôi nhất thiết muốn tôi cùng về quê hương là vì anh có một mối tình nồng thắm với đồng bào. Anh tin rằng nếu được tôi hướng dẫn bày bảo, đồng bào anh sẽ được sống một cuộc đời sung sướng. Còn tôi, tôi lại nghiêng về một khía khác. Lúc này, tôi chỉ muốn tìm gặp những người da trắng bị phiêu giạt lên đó để cùng nhau mưu tính đường về quê hương là chính. Không cân nhắc suy nghĩ gì nhiều nữa, tôi lo tìm ngay một thân cây khá lớn để đục một chiếc xuồng thích hợp với cuộc vượt biển mà chúng tôi hằng mơ ước.
Trong đảo không hiếm cây to, nhưng tôi muốn tìm được một cây ở gần bờ biển hơn hết để sau khi làm xong, có thể đưa xuồng xuống nước không đến nỗi chật vật quá. Thứ sáu tìm ngay được một cây to, không rő là thứ gỗ gì nhưng theo anh thì dùng làm xuồng rất tốt. Anh định đốt lửa để khoét bên trong, nhưng tôi bày cho anh cách dùng con nêm bằng sắt mà đục cho nhanh và anh đã tỏ ra rất khéo tay đục đẽo. Sau một tháng trời làm việc không kể ngày đêm, anh đã rất thông thạo "nghề" và chúng tôi đã làm xong cốt xuồng. Chiếc xuồng có vẻ đẹp và rất tốt, nhất là sau khi chúng tôi dùng búa đẽo bên ngoài vỏ cho ra dáng một chiếc tàu nhỏ. Nhưng nào đã xong được đâu! Chúng tôi còn phải bỏ ra nửa tháng trời nữa để đưa nó xuống nước bằng cách lót mấy khúc gỗ tròn bên dưới mà đẩy dần cho nó tuột đi từng tí một. Tôi rất đỗi ngạc nhiên thấy Thứ sáu điều khiển chiếc xuồng, lái đi, quay lại rất lành nghề, mặc dù xuồng rất lớn. Trong khi anh sửa nốt chiếc xuồng và tập dượt điều khiển thì tôi nhận trách nhiệm làm một cánh buồm. Tôi nhớ còn có khá nhiều những miếng vải cũ, nhưng bỏ lăn bỏ lóc trong suốt hai mươi sáu năm trời có lẽ cũng đã mục nát cả rồi. May sao tôi vẫn chọn được hai miếng còn khá bền. Sau bao phen tê tay mỏi mắt vì phải may vá nhiều mà lại không có kim, tôi cũng khâu xong một lá buồm tam giác tạm coi được. Đó là loại buồm tôi quen điều khiển hơn hết. Tôi lại mất luôn hai tháng trời nữa mới dựng xong cột buồm và treo buồm lên, đồng thời cũng xem xét, sửa chữa và làm nốt những thứ vặt vãnh khác trên xuồng. Tôi thêm vào cho cánh buồm lớn một lưới dây nhỏ và một lá buồm phụ phía trước để giữ cho xuồng đi vững, phòng khi bị nước triều cuốn đi mạnh quá. Cuối cùng, tôi lắp một bánh lái vào sau xuồng. Tôi vẫn chỉ là một anh thợ mộc khá tồi, nhưng vì được biết quá rõ ích lợi và sự cần thiết của bánh lái cho nên tôi hết sức để tâm vào việc đó và cuối cùng đã hoàn thành. Chỉ riêng cái bánh lái này cũng bắt tôi hao công tốn sức bằng làm tất cả chiếc xuồng và mọi thứ phụ tùng khác. Thế là tôi bắt đầu bước vào năm thứ hai mươi bảy của cuộc đời đày ải trên hòn đảo hoang vu này, mặc dầu đúng ra thì không thể gọi ba năm gần đây là đày ải được. Suốt ba năm ấy, tôi rất vui sướng vì có người giúp việc trung thành bên cạnh. Hàng năm tôi vẫn kỷ niệm ngày tôi đặt chân lên đảo với tất cả những nghi thức như trước kia đã kể lại với các bạn đọc. Năm nay lại còn quan trọng hơn những năm trước vì nó đem lại cho tôi thêm niềm há vọng mới là sẽ thoát khỏi hòn đảo này. Tôi tin chắc rằng chỉ nội trong năm nay há vọng ấy sẽ trở thành sự thật. Tuy nhiên tôi vẫn không một phút sao lãng công việc thường ngày. Tôi vẫn cày đất như mọi năm, trồng trọt, phơi nho, làm thêm hàng rào. Nói tóm lại, chúng tôi cứ cặm cụi và vui vẻ làm việc như là suốt đời sẽ ở trên đảo.
Mùa mưa đã tới. Chúng tôi lại phải ở lỳ trong nhà nhiều hơn những mùa khác. Chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ để giữ gìn cho chiếc xuồng mới được yên ổn. Chúng tôi ròng nó vào trong cái vịnh nhỏ và, nhân lúc thủy triều lên cao , kéo nó ra bãi cát. Thứ sáu đã đào cho nó một cái bể chứa nhỏ vừa đủ sâu để khi cần thì có thể dẫn nước vào cho xuồng nổi lên. Và khi thủy triều lên, chúng tôi tìm cách ngăn hẳn không cho nước biển lọt được vào trong cái bể ấy nữa. Chúng tôi ghép rất nhiều cành cây lại với nhau thành nhiều lớp, kín đáo và chắc chắn hơn cả mái rạ để che cho xuồng khỏi bị dãi nắng dầm mưa. Như vậy, chúng tôi có thể yên tâm chờ đến tháng mười một hay tháng chạp, tiết trời thuận lợi để vượt biển. Mùa khô ráo bắt đầu trở lại, há vọng vượt biển của chúng tôi lại càng gần ngày thực hiện. Ngày đêm chúng tôi bận tíu tít, nhất là phải lo lắng thu thập lương thực cần thiết cho cuộc đi phiêu lưu, dự định trong vòng nửa tháng nữa. Một buổi sáng, trong khi đang lo thu dọn, tôi bảo Thứ sáu chạy ra ngoài bờ biển tìm vài con rùa về làm thịt ăn. Cũng như tôi, Thứ sáu rất thích ăn món này, ăn trứng hoặc ăn thịt. Dạo này, con chó của tôi đã chết vì già quá rồi, nên Thứ sáu thiếu một tay giúp việc săn rùa đắc lực. Tuy thế, thường anh vẫn tỏ ra "may mắn" hơn tôi. Nhưng vừa ra khỏi nhà được độ dăm phút, anh đã ba chân bốn cẳng chạy trở về, nhảy vút qua bức lũy đá như bay mà vào, chân không kịp bén đất. Không chờ tôi hỏi, anh kêu lên ngay:
-ông chủ, ông chủ ơi! Khổ quá! Nguy quá!
-Thứ sáu! Cái gì thế?
-tôi hỏi lại.
-Cái gì thế?
-ồ, kia kìa, ngoài kia kìa,
-anh ta trả lời vội vã
-có ba chiếc xuồng, ba chiếc xuồng của kẻ thù! Tôi tìm hết cách làm cho anh ta yên lòng, nhưng anh vẫn không bớt vẻ hốt hoảng. Anh sợ những người thổ dân kia đến đây bắt anh để giết. Tôi an ủi và khuyến khích anh:
-Thứ sáu, hãy can đảm lên chứ! Tai nạn lớn đó cũng đe dọa tôi như anh chứ có khác gì! Nếu họ bắt được chúng ta thì chắc là họ chẳng tha gì tôi cũng như chẳng tha gì anh. Có phải không, anh bạn thân mến? Vậy thì nhất định chúng ta phải liều một phen sống mái với họ. Anh bạn của tôi ơi! Anh còn biết đánh nhau chứ?
-Tôi bắn được!
-anh đáp lại đã có vẻ vững tâm hơn.
-Nhưng mà họ đông quá, nhiều quá.
-Cái đó không đáng ngại!
-tôi bảo anh ta.
-Súng của chúng ta sẽ làm cho những người không bị bắn cũng phải khiếp sợ bỏ trốn. Chúng ta sẽ sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm để cứu giúp nhau. Bây giờ thì tôi chỉ huy trận đánh, anh hết sức nghe theo lời tôi và làm đúng như tôi chỉ dẫn. Đó là kỷ luật ra trận đấy nhá!
-Vâng!
-Anh đáp lại rắn rỏi.
-Tôi sẵn sàng chết nếu cần phải chết.
-Chúng ta sẽ không chết đâu, Thứ sáu ạ! Tôi khuyến khích anh ta và, để tăng thêm dũng khí, chúng tôi uống mỗi người một hớp rượu mạnh. Sau đó, tôi chia khí giới với anh. Mỗi người chúng tôi giắt một khẩu súng ngắn vào thắt lưng và đeo lên vai ba khẩu súng dài, rồi cùng nhau lên đường chiến đấu. Ngoài khí giới, tôi còn mang theo một bầu rượu mạnh và đưa cho Thứ sáu một túi đầy thuốc súng và đạn. Mệnh lệnh duy nhất mà anh phải tuân theo sự chỉ huy của tôi là phải bám riết lấy tôi, không có một lời nói, một hành động nào tự động trước khi làm chủ chiến trường.
Tôi dùng kính viễn vọng tìm được một con đường nhỏ để vòng qua bên kia cái vịnh. Tới đó, chúng tôi đi xuyên vào rừng đến một chỗ có thể ngắm bắn vào kẻ địch vừa tầm đạn trước khi họ tìm ra chúng tôi. Tôi đi trong rừng rất thận trọng và rất lặng lẽ; Thứ sáu theo sát gót. Chúng tôi cứ tiến dần lên cho tới lúc chỉ còn cách họ một lùm cây nhỏ. Nhìn thấy một cây rất cao, tôi khẽ gọi Thứ sáu và bảo anh ta tìm cách đi sâu về phía đó rồi trèo lên cây mà dò xét tình hình địch. Anh đi ngay và phút chốc đã quay trở lại báo cho tôi biết rằng đứng ở đó có thể thấy quân địch rất rõ ràng. Họ đương ngồi quanh đống lửa, hành hình một tù binh. Cách đó chừng mươi bước còn có một người tù nữa bị trói nằm trên cát và có lẽ cũng sắp sửa chịu một số phận như người kia. Người này không phải là đồng bào của anh mà lại giống như những người rậm râu đã thoát nạn đắm tàu và đã ghé xuồng vào quê hương anh. Những tin tức đó và nhất là những đặc điểm về người tù rậm râu làm cho tôi lại nóng cả gan ruột. Tôi tự mình tiến lại phía cái cây cao và thấy rõ ràng một người nằm dài trên bãi cát, tay chân đều bị trói chặt. Nhìn áo quần người ấy, tôi biết đó là một người châu âu. Tôi nhìn quanh và thấy một cây to khác mọc giữa một bụi rậm nhỏ gần chỗ những người thổ dân tụ họp hơn. Nếu tôi lại được đó mà không bị lộ thì chỉ còn cách họ chừng nửa tầm đạn. Nắm vững tình hình, tôi lại bình tĩnh hơn; tôi luồn rất nhẹ nhàng sau những bụi rậm để đi tới chỗ cây lớn. Tới nơi, vừa gặp một mô đất nhỏ, tôi bèn nấp sau đó xem xét tình hình địch cho kỹ hơn. Tình thế quả đã khẩn cấp lắm rồi: mười chín kẻ chiến thắng đang ngồi sát nhau dưới đất và cử hai tên trong bọn lại cởi trói người tù rậm râu để đem lại nơi hành hình. Trong lúc hai tên này lúi húi cởi dây buộc chân người tù, tôi vội quay lại bảo Thứ sáu:
-Nào, Thứ sáu! Anh hãy chú ý nghe theo tôi. Chúng ta chuẩn bị chiến đấu.
Thấy tôi làm gì thì anh làm theo nấy, nhất thiết đừng có sai một lá nào đấy nhé! Anh hứa sẽ làm theo đúng như lời tôi dặn. Tôi bèn đặt xuống đất một khẩu súng hỏa mai và một khẩu súng săn; Thứ sáu làm theo đúng răm rắp. Tôi lấy khẩu súng hỏa mai thứ hai và nhằm thẳng vào đám người thổ dân. Thứ sáu cũng làm như thế. Tôi hỏi anh:
-Sẵn sàng chưa?
-Xong!
-anh trả lời và ngay lúc đó chúng tôi cùng kéo cò một lượt.
Lần đầu tiên bắn súng vào kẻ thù, Thứ sáu đã tỏ ra ngắm giỏi hơn hẳn tôi. Phát súng của anh đã bắn ngã hai tên địch và làm ba tên khác bị thương; còn tôi thì chỉ bắn ngã một và làm bị thương hai tên. Tả làm sao nổi nỗi kinh hoảng của đám thổ dân bị đánh bất ngờ! Những người chưa bị ngă đều vội vă nhổm dậy, lúng túng không biết phải chạy đường nào cho thoát một tai nạn từ đâu giáng xuống không rő. Trong lúc đó, Thứ sáu luôn luôn chăm chú nhìn tôi để theo dői và rập theo hành động của tôi. Sau khi thấy rõ kết quả của đợt súng đầu tiên, tôi hạ khẩu súng hỏa mai xuống, cầm khẩu súng săn lên, và người giúp việc của tôi cũng làm theo đúng như thế. Anh cũng nhắm theo kẻ địch như tôi. Tôi lại hỏi:
-Sẵn sàng chưa? Anh trả lời là đã sẵn sàng thì tôi lại bảo anh:
-Thế thì nổ súng ngay đi thôi!
Chúng tôi lại bắn theo vào cái đám người đang sợ hãi chạy tán loạn. Súng của chúng tôi chỉ nạp đạn ghém cỡ nhỏ dùng cho súng ngắn, nên chỉ hạ được có hai tên, nhưng lại làm bị thương khá nhiều tên khác. Bọn này chạy tan tác khắp nơi, máu me đầy mình. Sau đó có ba tên ngã xuống vì bị thương nặng. Chúng tôi đặt khẩu súng hết đạn xuống đất, lấy khẩu hỏa mai thứ nhì lên. Tôi nhảy vụt ra khỏi chỗ nấp, Thứ sáu bám sát theo sau. Vừa lộ mặt ra, tôi thét lên một tiếng long trời, Thứ sáu cũng thét lên một tiếng còn ghê rợn hơn nữa. Dù trên vai mang khí giới đã nặng, tôi cố chạy thật nhanh lại gần người tù binh khốn khổ đương nằm đờ trên cát. Hai tên đao phủ đã bỏ mặc người đó ngay sau những tiếng súng thứ nhất. Chúng khiếp đảm chạy ra bờ biển, nhảy lên một cái xuồng, có ba tên khác theo sát gót. Bọn kia cũng ùa nhau chạy ra phía bờ biển; chúng tôi hoàn toàn làm chủ trận địa. Thứ sáu hăng máu, không chờ tôi ra lệnh nữa, cứ xông vào đuổi theo quân thù đang nhớn nhác chạy dài. Anh bắn nốt một phát súng trúng thêm mấy tên địch nữa; nhưng vì bị thương nhẹ nên chúng lại đứng dậy chạy ngay. Liếc nhìn anh, tôi nghĩ bọn kia tất phải tưởng anh là tướng nhà trời xuống trừng phạt họ. Trong khi người giúp việc của tôi say sưa tiêu diệt địch như thế, tôi rút dao ra cắt đứt dây trói cho người tù binh. Tôi đỡ người đó ngồi dậy và hỏi bằng tiếng Bồ-đào-nha xem ông ta là ai. Nhưng ông ta đã yếu quá, hầu như không còn đủ sức đứng dậy và nói được. Tôi bèn đưa bầu rượu mạnh và ra hiệu bảo ông ta uống. ông ta nghe theo. Tôi lại đưa cho ông ta một miếng bánh và ông ta cũng ăn ngay lúc đó. Sau khi lại sức được một chút, ông ta nói cho tôi biết mình là người Tây-ban-nha và vô cùng cảm ơn tôi đã cứu sống ông. Tôi tập hợp tất cả vốn liếng ngôn ngữ Tây-ban-nha của tôi lại để có thể bập bẹ nói chuyện với người bạn mới:
-Xi-nho! chúng ta sẽ nói chuyện nhiều vào lúc khác. Bây giờ thì phải chiến đấu đă. Nếu ông còn chút sức khỏe nào thì hãy cầm lấy khẩu súng ngắn và thanh gươm này rồi hết sức dùng cho thật được việc. ông ta cầm lấy khí giới, vẻ hàm ơn lộ trên nét mặt. Hình như khí giới đã đem lại cho ông tất cả sức khỏe. ông ta nhảy xổ ngay vào đám kẻ thù và chỉ trở tay một cái, ông đã xỉa đến hai nhát gươm. Thật ra thì bọn họ cũng chẳng chống đỡ gì cả. Những người thổ dân không may đó đã quá khiếp đảm vì những tiếng súng của chúng tôi đến nỗi không dám chống cự lại nữa. Tôi vẫn giữ bên mình khẩu súng săn cuối cùng, không bắn vội, để khỏi bị lúng túng lúc bất ngờ. Tất cả khí giới của tôi chỉ còn lại có thế vì tôi đã đưa khẩu súng ngắn và thanh gươm cho người bạn Tây-ban-nha rồi. Tôi gọi Thứ sáu bảo trở về chỗ chúng tôi đã bắn loạt súng đầu tiên đem lại đây những súng đã hết đạn. Anh ta chạy thật nhanh đi lấy ngay. Trong khi tôi nạp lại súng, một cuộc chiến đấu thật ác liệt đã xảy ra giữa người Tây-ban-nha và một người thổ dân vừa mới nhảy xổ vào ông ta với một thanh kiếm gỗ trong tay. Có lẽ anh này biết đó là người tù binh cũ chứ không phải "thiên tướng" nên vững lòng đánh lại. Mặc dầu còn yếu, người Tây-ban-nha vẫn tỏ ra can đảm và hăng hái phi thường. ông ta đương đầu với người thổ dân một lúc lâu và đã hai lần chém kẻ địch bị thương ở đầu. Nhưng người thổ dân đã ôm chặt được ông ta mà quật ngã xuống và tìm hết cách để cướp lấy thanh gươm. Trong cơn nguy biến đó, người Tây-ban-nha không chút hoảng hốt. ông thận trọng buông thanh gươm xuống, rút ngay khẩu súng ngắn ra bắn chết kẻ thù.
Nhưng hạ được kẻ thù thì ông ta cũng kiệt sức, phải ngồi phịch xuống đất nghỉ. Ngay lúc đó, Thứ sáu nảy ra một ý kiến mà từ đầu tôi không nghĩ tới. Nếu để những người thổ dân trốn thoát thì rất có thể họ sẽ kéo đông người đến trả thù và tất nhiên tính mạng chúng tôi chỉ còn treo trên sợi tóc. Tôi thấy cũng có lý. Thứ sáu bàn nên lấy một chiếc xuồng của họ mà chèo đuổi theo, bắn thủng xuồng cho họ chết chìm. Tôi nghe theo anh ta và nhảy ngay vào cái xuồng gần nhất rồi gọi Thứ sáu cùng đi. Nhưng tôi rất kinh ngạc thấy còn một người thứ ba nằm trong xuồng cũng bị trói gô như người Tây-ban-nha kia, và gần như chết ngất đi vì sợ. ông ta bị trói chặt quá không thể nhấc đầu lên được và coi chừng không thở ra hơi nữa, có vẻ sắp chết. Tôi vội cắt đứt những dây trói chằng chịt đã làm cho ông ta nhức nhối quá mức. Tôi cố sức đỡ ông ta dậy nhưng ông ta không còn đủ sức đứng lên và nói ra tiếng nữa. ông ta chỉ kêu lên những tiếng chói tai và thật não ruột, có lẽ vì sợ người ta cởi trói cho mình để đem đi hành hình chăng! Thứ sáu bước chân vào xuồng; tôi bảo anh ta an ủi người bị nạn yên tâm vì đã được thoát nạn. Tôi lại đưa cho người ấy uống một hớp rượu mạnh. Nhờ sức rượu, kết hợp với tin mừng được cứu sống bất ngờ, người bị nạn tỉnh ngay lại và có thể gắng gượng đứng dậy được. Sau vài phút đồng hồ nhìn kỹ và nghe người ấy nói, bỗng nhiên Thứ sáu ôm chầm lấy ông ta mà hôn hít. Thật là một cảnh cảm động, có thể làm ứa nước mắt những người sắt đá nhất. Anh ta khóc, cười, nhảy múa chung quanh người kia rồi lại nắm hai tay lại với nhau mà vặn, đập tay vào mặt, rồi lại nhảy, lại múa nữa, và cuối cùng là những hành động có vẻ thiếu tự chủ, như dại như điên.
Trong một lúc lâu, mặc dầu tôi rất ngạc nhiên, anh vẫn không thể bình tĩnh để bày tỏ cho tôi biết rõ nguyên do những cử chỉ kỳ quặc đó. Nhưng về sau, trấn tĩnh được một chút, anh vui mừng nói cho tôi biết đó là bố đẻ của anh. Tôi rất xúc động trước cảnh đó. Nhìn thấy chính bố mình được cứu thoát khỏi bàn tay độc ác của kẻ thù, Thứ sáu mừng mừng tủi tủi. Anh đã làm những cử chỉ lạ lùng nhưng đầy tình thân ái. Anh bước vào trong xuồng rồi ra ngoài xuồng, rồi lại trở vào trong xuồng. Anh lại ngồi ngay bên cạnh bố anh, anh ôm lấy đầu bố mà áp vào ngực mình đến nửa giờ đồng hồ liền để truyền hơi ấm cho bố; anh nắm lấy chân, lấy tay ông lão đương cứng đờ ra vì bị trói chặt quá và loay hoay tìm hết cách để xoa nắn cho dịu lại. Đoán được ý muốn ấy, tôi đưa cho anh bầu rượu mạnh để xoa bóp cho ông lăo. Quả nhiên ông già thổ dân thấy dễ chịu hơn rõ ràng.
Những người thổ dân đã đi rất xa; chúng tôi không nhìn thấy chiếc xuồng chở họ đâu nữa cả. Chúng tôi cũng không phải lo ngại lâu bởi vì chỉ hai giờ đồng hồ sau, lúc đó có lẽ họ chưa đi được một phần tư quăng đường, ngoài khơi bỗng có một cơn gió mùa tây bắc nổi lên dữ dội và kéo dài tới suốt đêm. Bị trái gió trong phong ba, xuồng lại chở nặng, chắc chắn họ không thể nào về tới bờ bên kia được. Chúng ta hãy trở lại chuyện của Thứ sáu. Anh ta cứ rối rít bên cạnh bố đến nỗi tôi không nỡ lòng gọi anh lại nữa. Một lúc sau khá lâu, xét thấy cũng tạm đủ cho anh tỏ nỗi hân hoan của mình rồi, tôi mới lên tiếng gọi. Anh chàng vừa chạy lại phía tôi vừa nhảy chân sáo, vừa cười vừa tỏ ra vui mừng vô độ. Tôi hỏi anh đã đưa bánh cho ông cụ ăn chưa? Anh trả lời có vẻ hối hận:
-Chưa! Tôi thật là đồ tồi!
Tôi ăn hết mất cả bánh rồi có còn gì đâu nữa mà đưa! Tôi lấy ở trong túi ra cho anh một cái bánh bột mì nướng và bảo anh uống lấy một hớp rượu mạnh. Anh không nhấp một tí nào mà đem tất cả lại cho bố anh. Tôi lại đưa thêm cho anh một vốc nho khô để đem lại cho ông lăo một thể. Một lát sau, anh nhảy ra khỏi xuồng và chạy vụt về phía nhà tôi ở, thoáng một cái đã mất hút bóng. Mặc cho tôi gọi ầm lên, anh vẫn làm ngơ như không nghe thấy gì và cứ cắm cổ chạy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc anh đã trở lại, chạy thong thả hơn vì đang vướng vật gì cầm trong tay không rõ. Thì ra anh về lấy ra một bình nước và mấy miếng bánh. Anh đưa bình nước cho tôi uống mấy hớp rồi xách lại cho bố. Uống nước xong, ông lão tỉnh hẳn dậy. Sở dĩ nước lã làm cho ông khoan khoái và khỏe khoắn lên như thế, hơn hẳn cả rượu mạnh lúc nãy, chỉ vì ông lão đã khát nước ráo cả họng. ông già uống xong, tôi bèn bảo Thứ sáu mang bình nước và một cái bánh lại cho người Tây-ban-nha đương nằm dài trên cỏ dưới bóng cây và tỏ ra suy nhược quá đỗi. ông ta cũng gắng gượng ngồi dậy ăn uống. Tôi lại gần và đưa cho ông một vốc nho khô. ông ta nhìn chúng tôi tỏ vẻ trìu mến và cảm kích muôn phần. Vừa rồi ông đã chiến đấu rất hùng dũng, nhưng vì mất sức nhiều quá nên bây giờ không thể đứng vững được. ông gắng gượng đứng dậy hai ba phen không nổi, vì chân bị trói chặt lâu quá nên sưng vù lên, nhức nhối lạ thường. Tôi bảo Thứ sáu lấy rượu mạnh xoa bóp cho ông ta, cũng như vừa rồi anh đã xoa bóp cho bố. Trong lúc đó tôi đi xem lại chiến trường và chôn cất mấy cái xác chết. Thứ sáu săn sóc người Tây-ban-nha rất tận tình, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngoảnh mặt nhìn về phía bố anh để xem ông già có còn ở đó và có còn ngồi y nguyên như trước nữa không. Một lần không nhìn thấy ông già đâu cả, anh vội đứng phắt dậy, chạy như bay lại phía đó. Nhưng vừa nhảy vào trong xuồng, anh vui vẻ thấy không xảy ra việc gì đáng lo cả; bố anh chỉ nằm xuống để nghỉ một chút thôi. Khi Thứ sáu quay trở lại, tôi nhờ anh đỡ người Tây-ban-nha đứng dậy và dìu ông ta ra xuồng để chở về nhà, có đủ điều kiện chăm nom săn sóc hơn. Anh ta không chờ người Tây-ban-nha nhỏm dậy nữa.
Vốn rất khỏe và cũng rất nhanh nhẹn, anh cõng ngay ông ta lên vai, đi một mạch tới xuồng và đặt ông ngồi xuống sát cạnh bố anh. Xong xuôi, anh trèo ra ngoài đẩy chiếc xuồng xuống nước rồi mặc dầu ngược chiều gió anh đẩy chiếc xuồng chạy men theo bờ nhanh hơn tôi đi trên bộ. Đưa xuồng vào trong vịnh xong, anh chạy như bay trở lại lấy nốt chiếc xuồng thứ nhì, đem về tới nơi cũng vừa kịp lúc tôi đi bộ về và chở tôi qua vịnh. Anh định giúp hai người kia ra khỏi xuồng nhưng cả hai đều suy nhược quá không bước nổi một bước, khiến anh lúng túng không biết xoay xở ra sao. Tôi thấy vậy bèn suy nghĩ tìm cách giải quyết khó khăn đó. Tôi bảo Thứ sáu hăy ngồi nghỉ một chút, còn tôi thì bắt tay làm một cái cáng. Chúng tôi đặt cả hai người lên trên cáng và khiêng về tận bức lũy đá bên ngoài. Nhưng tới đây, chúng tôi lại càng lúng túng hơn. Tôi không muốn phá lũy đá bất cứ chỗ nào nhưng chúng tôi cũng không nghĩ ra được cách gì để đưa hai người ấy vượt qua lũy đá được. Chỉ còn một cách là để cho họ nghỉ tạm ngoài này. Tức thì chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ chúng tôi dựng lên một nếp lều nhỏ che bằng cành lá và vải cũ, giữa bức lũy đá và lùm cây tôi đã trồng gần đó. Tôi lấy mấy bó rạ đánh thành hai cái nệm thật êm đem lót trong lều; trên nệm lại trải một cái chăn để nằm và có thêm một cái chăn khác để đắp.
Thế là hòn đảo vắng vẻ của tôi đã tăng thêm dân số; tôi đã có đông thêm tay chân thân tín. Cũng có lúc cao hứng, tôi lấy làm thích thú nghĩ rằng ở đây mình có thể tự coi là một vị chúa tể nhỏ, tất cả hòn đảo này là giang sơn của mình không ai có thể chối cãi được! Những người bạn của tôi thật là tốt nhất đời, họ mến phục và tin cậy tôi vô cùng. Dù sao thì tôi cũng đã cứu sống họ và chắc chắn họ sẽ không ngần ngại há sinh tính mạng để cứu tôi khi cần thiết. Thu xếp xong nơi ăn chốn ở cho những người mới, tôi nghĩ ngay đến việc lấy lại sức khỏe cho họ bằng một bữa ăn thịnh soạn. Tôi bảo Thứ sáu ra trại chăn nuôi bắt về một con dê non chừng một năm. Chúng tôi mổ thịt dê, chặt nhỏ đem nấu xáo và hầm. Tôi có thể cam đoan với các bạn rằng hai người khách quí đã được thết đăi một món thịt hầm đặc biệt và một món cháo rất ngon nấu bằng thịt dê với lúa mạch và gạo tẻ. Tôi bưng tất cả vào lều và dọn ra, bốn người ngồi chén tạc chén thù. Bữa cơm vui vẻ quá đi mất! Chúng tôi cố gắng tiếp đăi khách thật ân cần và tìm cách khuyến khích họ ăn uống cho thỏa thuê. Tôi nhờ Thứ sáu phiên dịch hộ, không những với bố và cả với ông bạn Tây-ban- nha nữa, ông này nói tiếng thổ dân thành thạo vô cùng.
Tôi thấy đã đến lúc có thể tâm sự với những người bạn mới này. Trước tiên, tôi nói chuyện với bố Thứ sáu. Tôi hỏi ông già có ý kiến gì về những người thổ dân đã trốn thoát cuộc chiến đấu vừa rồi không? Liệu họ có thể trở lại đây với một lực lượng khá đông để áp đảo chúng ta không? Theo ý ông ta thì họ không có há vọng thoát khỏi cơn dông tố và chắc là đã chết đuối hết. Hoặc giả họ có bị bão cuốn về phía nam, ghé được vào một bờ biển nào đó thì cũng bị kẻ địch bắt giết đi thôi. Ví thử họ có may mắn về tới xứ sở được thì ông lão cho rằng họ cũng đã mất mật vì cách tấn công bất ngờ của chúng tôi và choáng voáng vì ánh lửa và tiếng súng nổ. Chắc chắn họ sẽ kể lại cho đồng bào nghe là những người đi đã bị sấm sét đánh chết và hai kẻ địch đã xuất hiện bất ngờ chắc là thần thánh trên trời hiện xuống để tiêu diệt họ. ông lão rất tin vào sự phỏng đoán đó. ông đã nghe bọn chạy chốn nói với nhau không hiểu tại sao người ta lại thổi ra sét, nói ra sấm và giết chết được kẻ khác ở thật xa, chẳng cần giơ tay lên chút nào. Có lẽ đúng như thế vì từ đó chúng tôi không thấy một chiếc xuồng nào ghé vào đảo. Tôi tin lời ông lão và cũng khuây dần nỗi lo âu. Tôi tiếp tục nói chuyện với ông lão về dự kiến cuộc vượt biển sang đất liền. ông bố Thứ sáu cam đoan rằng đồng bào của ông sẽ đón tiếp tôi rất tử tế vì họ rất quí mến ông lão. Nhưng sau một buổi nói chuyện rất cặn kẽ với người Tây-ban-nha, tôi lại tạm hoãn cuộc hành trình đó. ông ta kể cho tôi biết rằng ông còn mười sáu bạn đồng hành, người Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha, bị đắm tàu. Họ phải trải qua nhiều gian truân trước khi giạt vào bờ biển, thoát nạn, lên bờ và hiện còn ở trên đất liền. Thực ra ở đó thì họ sống cũng rất yên ổn với những bộ lạc thổ dân chung quanh, nhưng đời sống rất khổ cực, thiếu thốn quá chừng, phải cố gắng làm mới không đến nỗi bị chết đói. Tôi hỏi ông ta rất cặn kẽ mọi chi tiết về chuyến đi của họ. Nhờ thế tôi biết được rằng họ là hành khách trên một chiếc tàu Tây-ban-nha. Tàu đi từ sông Ri-ô đờ la Pơ-la-ta đến La-ha-van, chở da, lông thú và bạc nén, rồi ở lại để nhận tất cả những hàng hóa châu âu có thể mua được. Sau khi vượt muôn ngàn nguy hiểm, họ giạt lên một bờ biển, có nhiều thổ dân, luôn luôn nơm nớp sợ bị giết chết nếu bất ngờ bị bắt gặp. Họ có mang theo mấy khẩu súng nhưng thiếu thuốc đạn. Chỉ trong mấy ngày đầu còn một ít thuốc đạn thì đã dùng để săn bắn kiếm ăn hết sạch tất cả. Tôi hỏi ông ta:
-Thế rồi họ sẽ ra sao? Không bao giờ các ông nghĩ tới việc thoát ra khỏi cái chốn khổ ải ấy ư?
ông ta trả lời là đã nhiều lần mấy anh em cũng có nghĩ tới việc ấy, nhưng hiện giờ họ đang gặp hoàn cảnh không có tàu bè, thiếu dụng cụ vật liệu để đóng một chiếc tàu khác, không có lương ăn. Bao nhiêu ý định của họ đều tan ra mây khói và họ càng ngày càng tuyệt vọng. Tôi bèn hỏi ông xem nếu bây giờ chúng tôi tìm cách đưa họ về đây cùng sống với mấy anh em thì thái độ của họ sẽ thế nào? Họ có vui lòng đem hết công hết sức ra làm lụng như mọi người ở đây không?
-Tuy nhiên,- tôi nói thêm,- cũng xin thú thật với ông rằng tôi vẫn cứ dè chừng một sự tráo trở nào đó về phía họ. Lòng biết ơn đâu có phải là một đức tốt quen thuộc của con người! Có mấy khi người ta lại đối xử tương xứng với chính những việc người khác làm cho mình! Thường chỉ là xứng với những lợi lộc mà người ta há vọng rút ra được từ những công việc đó thôi!
-Và quả là một cái gì quá ư tàn nhẫn cho tôi,
-tôi nói tiếp,- nếu, đáng ra được đối xử xứng đáng là người đã tổ chức giải thoát cho họ, tôi lại bị họ tóm lấy cổ, dẫn về tận Tây-ban-nha. Bất cứ một người Anh nào, do bất kỳ một tai họa nào mà có mặt ở đó, đều phải sẵn sàng nhận một số phận đau khổ nhất.
-Nếu gạt bỏ được điều e ngại đó,- tôi lại nói thêm nữa,- tôi nghĩ rằng ý định của tôi sẽ được thực hiện không có gì khó khăn.
-Nếu các bạn của ông đến đây tất cả thì chúng ta sẽ thừa sức đóng một chiếc thuyền khá lớn để cùng nhau vượt biển. Nếu đi về phía nam thì ghé vào nước Bra-din, nếu đi lên phía bắc thì ghé vào những hòn đảo thuộc Tây-ban-nha. Ghé vào đâu, chúng ta cũng sẽ thoát khỏi cảnh khổ cực hiện tại, miễn là mỗi người đều tin tưởng vào sự xếp đặt của tôi. Sau khi lắng nghe kỹ lời tôi, ông bạn Tây-ban-nha lại nói thêm rất chân thành rằng những người đó đã cảm thấy quá sâu sắc tất cả nỗi đau khổ của họ trong hoàn cảnh hiện nay. Chắc chắn họ sẽ hoàn toàn tin tưởng và nghe theo người đã đem hết tâm sức để cứu họ thoát khỏi cảnh đói và tất nhiên họ không hề mảy may có ý định phản bội ân nhân. ông nói tiếp với một giọng vui vẻ:
-Hoặc giả họ không muốn về nước mà thích ở lại đây lập nghiệp thì còn gì tốt hơn! ông sẽ chia cho họ đất đai để làm ăn sinh sống. Họ đều là những người lương thiện và đương lâm vào một tình cảnh cơ cực không thể tưởng tượng được, thiếu khí giới và áo quần, không có gì nuôi thân ngoài những sự giúp đỡ-cũng rất nghèo nàn-của những thổ dân tốt bụng. Họ không còn một tia há vọng nào trở về Tổ quốc nữa. Bây giờ nếu được thoát khỏi cảnh đó thì bảo gì mà họ không theo!
-Nếu ông đồng ý,
-ông lại tiếp,
-tôi xin cùng đi với ông già thổ dân đến gặp họ. Tôi sẽ nói ý định nhân đạo của ông và tôi lại trở về nói cho ông biết ý định của họ. Tôi sẽ không giao ước gì với họ nếu họ chưa hứa với tôi một lòng thực hiện giao ước hết sức trang nghiêm.
Tôi muốn thuyết phục họ vui lòng thừa nhận ông là chỉ huy của họ. Họ phải kính cẩn tuyên thệ và thành tâm theo ông đến bất cứ một xứ sở văn minh nào mà ông đưa họ đến. Họ sẽ tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của ông cho đến lúc tất cả chúng ta đều đến nơi đó. Tôi lại còn đưa về cho ông một bản cam đoan về tất cả những điều ấy, viết trên giấy và có chữ ký của tất cả những người ấy. Để cho tôi có thể tin ở ông ta hơn, ông ta xin được chính tự mình tuyên thệ với tôi trước khi lên đường. ông ta nguyền không bao giờ xa rời tôi nếu không được lệnh của tôi, sẽ bảo vệ tôi đến giọt máu cuối cùng nếu đồng bào của ông lại hèn nhát đến mức phản bội những điều đã giao ước. Biết được tình hình như thế, tôi lại càng nóng lòng chuẩn bị mọi thứ để cứu giúp những con người đáng thương ấy. Chúng tôi cử ông bạn Tây-ban-nha cùng đi với ông lăo thổ dân sang liên lạc trước với họ. Nhưng khi mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi chỉ còn chờ ngày lên đường thì chính ông bạn Tây-ban-nha lại vạch cho tôi thấy một khó khăn mới. Qua ý kiến đó, tôi càng thấy rõ ông là người từng trải và rất chân thành. Tôi lại thêm tin cậy, quí mến ông và theo ngay lời khuyên của ông mà hoãn cuộc hành trình lại độ năm sáu tháng nữa. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này: ông ta đã ở trên đảo này với chúng tôi một thời gian, tôi đã chỉ cho ông thấy tất cả số lương thực thu góp được nhờ sự cần cù lao động và sáng kiến của chúng tôi từ trước tới nay. ông ta thấy ngay tất cả số thóc lúa đó dẫu có thể đầy đủ hoặc có phần dư đật cho tôi và Thứ sáu thì cũng khó có thể nuôi đủ cái gia đình mới của tôi nếu không tiết kiệm hết sức. Thế thì nói chi đến chuyện cung cấp cho những người bạn ông ta, đến những mười sáu miệng ăn nữa! Mà nào đã hết đâu! Chúng tôi lại còn cần một số lương thực dự trữ lớn, chuẩn bị cho cuộc hành trình sau này tới một xứ sở nào đó để tìm đường về Tổ quốc. ông góp ý là nên khai phá nhiều đất hoang nữa, gieo tất cả số thóc còn thừa và chờ mùa gặt hái xong sẽ đi đón những người bạn ông ta thì hơn.
-ông ạ,
-ông ta nói thêm
-nạn đói rất có thể đẩy họ đến chỗ nổi loạn vì nó sẽ làm cho họ cảm thấy rằng chúng ta đã đưa họ ra khỏi một cảnh khổ này để rơi vào một cảnh cơ cực khác. Từ nay, chúng tôi đã trở thành một lực lượng mạnh rồi, không còn sợ gì những người thổ dân nữa, trừ phi họ kéo đến thật đông. Chúng tôi đường hoàng đi dạo khắp trên đảo, không chút lo sợ. Lúc nào chúng tôi cũng nghĩ đến việc thoát ra khỏi hòn đảo cho nên luôn luôn tìm mọi cách thực hiện việc đó. Ngoài những việc thường ngày không thể thiếu, tôi chú ý đánh dấu nhiều cây to rất tốt để đóng thuyền sửa soạn vượt biển. Hai bố con Thứ sáu nhận nhiệm vụ ngả những cây đó xuống và ông bạn Tây-ban-nha được phân công giám sát. Phương pháp làm ván như xưa nay của tôi ở đây là ngả một cây gỗ xuống chặt cành và ngọn rồi đẽo hai bên cho tới khi thành một tấm ván dày vừa ý muốn. Theo cách ấy thì phải lao động vất vả và phí gỗ lắm, nhưng không có cưa lớn để xẻ gỗ thì cũng chẳng có cách nào khác nữa. Hai bố con Thứ sáu đã làm được mười hai tấm ván gỗ sồi rất tốt, rộng chừng hai bộ, dài ba mươi lăm bộ và dày từ hai đến bốn tấc. Các bạn cũng thấy ngay được họ đã mất bao nhiêu công sức vào đó.
Đồng thời chúng tôi lo lắng thêm đàn gia súc. Khi thì tôi đi săn với Thứ sáu, khi thì Thứ sáu đi cùng với ông bạn Tây-ban-nha. Mỗi lần bắn chết một con dê mẹ, bao giờ chúng tôi cũng cố gắng bắt sống cho được dê con. Kết quả là chúng tôi thêm được hai mươi tám con nữa vào đàn dê nuôi ở trại. Mùa nho chín cũng đã đến; chúng tôi hái và đem phơi rất nhiều những chùm nho chín mọng, đựng đầy sáu chục chiếc thùng. Cùng với bánh bột mì, nho khô giữ một địa vị quan trọng trong số lương thực của chúng tôi; tôi có thể cam đoan với các bạn rằng nho của chúng tôi là một thức ăn ngon và bổ tuyệt trần. Năm nay, chúng tôi được mùa lúa. Chúng tôi đã đem gieo hai mươi hai thùng lúa giống và gặt về được hai trăm hai mươi thùng lúa mạch; lúa tẻ cũng được mùa không kém. Như vậy, cho tới mùa gặt sau, chúng tôi có dồi dào lương ăn cho mình và cho những người bạn sẽ đến. Ví thử chúng tôi vượt biển ngay sau khi những người bạn đồng hành ấy tới như đã dự định thì cũng thừa lương thực ăn đường, bất kỳ sẽ ghé vào bờ biển nào trên đất châu Mỹ. Phơi thóc xong, chúng tôi đi kiếm cành miên liễu đan bốn cái vựa thật lớn để cất đặt cho cẩn thận. ông bạn Tây-ban-nha thật là khéo tay đan lát; ông cứ chê tôi không biết dùng cách này mà làm hàng rào và che lá. Nhưng bây giờ việc đó chẳng cần thiết nữa, ông chỉ nói ra cho vui thôi! Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi, tôi đồng ý để ông bạn Tây-ban-nha vượt biển sang bên kia thu xếp với những người bạn của ông ta. Tôi viết một bức lệnh, cấm ông ta không được đem về bất cứ một người nào nếu chưa bắt buộc người đó phải trịnh trọng tuyên thệ trước ông và ông già thổ dân rằng không bao giờ gây bất cứ một điều phiền muộn nhỏ cho ông chủ đảo là người đã có lòng tốt tìm mọi cách cứu sống họ. Họ lại phải bảo vệ người đó không điều kiện, chống mọi sự mưu hại, họ phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của người đó, đi tới bất cứ nơi nào mà người đó đưa họ đi. Tôi lại cũng ra lệnh cho ông bạn Tây-ban-nha phải đưa về cho tôi một bản giao ước đúng quá cách, viết trên giấy, tất cả những người có mặt đều ký tên vào đó. Tôi cũng không nghĩ rằng cứ suy hoàn cảnh hiện tại của họ thì họ làm gì có bút có giấy mà viết! Hai người dùng một chiếc xuồng của thổ dân để vượt biển. Tôi đưa cho mỗi người một khẩu súng hỏa mai và chừng tám mồi thuốc đạn, không quên căn dặn họ hết sức dè dặt và tiết kiệm, chỉ nên dùng trong những trường hợp rất cấp bách thôi. Đây là bước đầu chuẩn bị cuộc vượt biển trở về Tổ quốc thân yêu sau hơn hai mươi bảy năm tôi bị giam hăm trên hòn đảo hoang này. Bởi thế, tôi không bỏ sót một chân tơ kẽ tóc. Chúng tôi chuyển xuống xuồng một số bánh và nho khô đủ cho hai người dùng trong một thời gian dài và lại còn đủ cho mười sáu người kia ăn trong tám ngày nữa. Chúng tôi qui định với nhau một dấu hiệu riêng để khi họ trở về thì nêu lên xuồng cho anh em trên đảo nhận thấy. Xong xuôi đâu đó, tôi chúc họ thuận buồm xuôi gió. Nhân được gió mát và thuận, họ lên đường vào dịp trăng tròn, khoảng tháng mười theo lịch của tôi. Tôi đã chờ các vị sứ giả của tôi trong tám ngày trời. Bất ngờ xảy ra một biến cố, có lẽ không bao giờ lại có thể xảy ra một câu chuyện tương tự được. Một buổi sáng sớm, tôi đương ngủ say, bỗng Thứ sáu chạy vội lại bên giường gọi ầm lên: " ông chủ. ông chủ! Dậy đi! Họ đã về kia rồi, họ đã về kia rồi!". Để nhận cho rő, tôi xách kính viễn vọng và vùng chạy theo Thứ sáu. Nhưng không ra thẳng bờ biển, tôi xách thang ra trèo lên núi, nấp sau tảng đá để xem xét cho rő ràng mà không bị lộ nếu lỡ gặp phải những kẻ có ý định không tốt. Vừa đặt chân lên trên mỏm núi, qua kính viễn vọng tôi thấy ngay một chiếc tàu buồm thả neo cách chúng tôi chừng hai dặm rưỡi về phía tây nam và một chiếc xuồng từ tàu đang tiến vào bờ. Nhận xét hình dáng tàu và xuồng, tôi đoán là một chiếc tàu của người Anh. Tôi không thể nói hết được những cảm xúc lộn xộn mơ hồ mà hình ảnh chiếc tàu đã gợi lên trong trí tôi. Mặc dầu rất sung sướng được thấy một chiếc tàu với những thủy thủ chắc chắn là đồng bào mình, tôi vẫn như cảm thấy có cái gì khác thường không rõ nguyên do tự đâu nhưng làm cho tôi phải thận trọng suy nghĩ. Tôi dõi theo, thấy chiếc xuồng đã tới gần bờ và hình như đương tìm bến để ghé cho thuận tiện. Không tìm thấy cái vịnh nhỏ ở gần nhà tôi, những người trên xuồng bèn đẩy chiếc xuồng lên trên bãi cát, cách chỗ chúng tôi đứng chừng một phần tư dặm đường.
Thấy thế, tôi rất mừng. Nếu họ tìm thấy cái vịnh nhỏ mà đổ bộ ngay trước cửa nhà tôi thì cũng rất phiền. Họ sẽ có thể đuổi tôi ra khỏi nhà, cướp bóc hết của cải. Khi họ lên bờ, tôi nhận ra những người Anh, trừ một vài người có lẽ là người Hà-lan. Sự thật thì không đúng như thế. Tất cả có mười một người, nhưng trong đó lại có ba người không mang khí giới và hình như bị trói chặt. Dăm người vừa trong xuồng nhảy lên bờ đã lôi ba người kia như những người tù và đối xử với những người này rất tàn nhẫn. Trong ba người này, một người biểu lộ sự chán nản của mình một cách rõ ràng và có vẻ kỳ quặc, còn hai người kia thỉnh thoảng lại giơ tay lên trời tuy cũng có vẻ buồn nhưng không để lộ ra ngoài mấy.