Xem bài viết đơn
  #2  
Old 15-07-2008, 09:55 AM
hungcoidom's Avatar
hungcoidom hungcoidom is offline
Nhập Môn Tu Luyện
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: hà đông hà tây
Bài gởi: 9
Thời gian online: 9446
Xu: 0
Thanks: 52
Thanked 0 Times in 0 Posts
Tiếp nè .....

Chương 4

Phần I



Lá thư của mẹ đã làm cho chàng vô cùng xúc động.
Nhưng về điểm chủ yếu, điểm chính của bức thư thì ngay trong khl đọc, chàng cũng không còn máy may nghi ngờ gì nữa. Về căn bản, vấn đề đã xem như được giái quyết, và giải quyết dứt khoát trong đầu chàng:
"Mình mà còn sống thì nhất định cuộc hôn nhân nầy sẽ không thành, và ngài Lugin kia phải xéo!".
"Bởi vì sự việc đã quá hiển nhiên rồi - chàng lầu bầu trong miệng, mỉm một nụ cười cay độc như thể đắc thắng trước với dự kiến của mình - không đâu, mẹ ạ, không đâu, Dunia ạ, các bà không lừa được, tôi đâu!
Lại còn kiếm cách bào chữa về việc đã không hỏi ý kiến mình, đã quyêt định công việc mà không có mình? Rõ khéo! Các bà tưởng thế là từ nay không có cách gì để cắt đứt được nữa đấy hắn; được, để rồi mà xem có cách hay không có cách. Lý do bào chữa mới hay làm sao:
"Piotr Petrovich là một người bận rộn, bận rộn đến nỗi chỉ dùng được xe chở hàng để cưới vợ, chứ không có cách gì khác hơn, thiếu chút nữa đã cưới ngay trên xe lửa cũng nên". Không đâu. Dunia, anh thấy suốt, và cũng biết thừa cô định nói với anh những gì mà nhiều thế, anh biết cô đã nghĩ gì trong suốt cái đêm cô đi đi lại lại trong buồng, cô đã cầu nguyện những gì trước tượng Đức Mẹ Kazan trong buồng ngủ của mẹ. Trèo lên núi Golgotha(1) thì gay thật đấy em ạ! Hừm… Ra cô đã quyết định đứt khoát như thế đấy, cô Avdotia Romanovna ạ: cô thuận lấy một con người có óc thực tế giàu lý trí, một người có vốn riêng nói là "đã" có vốn riêng rồi, cho nó chững chạc và oai vệ hơn, có hai nơi làm việc, chia sẽ quan niệm của các thế hệ mới ở ta như mẹ mình viết và "hình như" cũng đôn hậu, như bản thân Dunia nhận xét. Cái "hình như" nghe mới tuyệt chứ! Mà chính Dunia lại kết hôn với cái "hình như" đó? Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!
"Mà kể cũng kỳ, trong thư không biết tại sao bà cụ cứ ám chỉ đến những "thế hệ mới" làm gì nhỉ? Phải chăng chỉ là để xác định tính cách của anh chàng, hay có mục đích gì xa xôi hơn, gây thiện cảm của mình đối với Lugin chẳng hạn! Ô! Các bà thật ranh mãnh! Cũng cần phải làm sáng tỏ một điều nầy nữa: không biết hai bà đã cởi mở với nhau đến mức độ nào trong suốt ngày đôm hôm ấy và suốt cả thời gian sau. Các bà ấy đã nói với nhau tất cả "những lời lẽ" cần nói rồi hay sao: hay họ đã hiểu rằng họ cùng có một tâm tư như nhau, đến nỗi không còn gì cần phải nói nữa và mọi lời lẽ đều thừa. Có thể như vậy một phần: cứ đọc thư cũng biết, là cụ thấy anh chàng hình như hơi cục cằn, "hơi" một chút thôi, thế là ba cụ thật thà hạ lời nhận xét với Dunia. Lẽ dĩ nhiên cô nàng phật ý, và trả lời có vẻ "bực mình". Cũng phải? Ai mà không tức giận khi câu chuyện chẳng cần đến những câu hỏi ngây thơ như vậy, cũng đã dễ hiểu qua rồi, khi đã quyết định rằng không có gì phải nói nữa! Mà sao bà cụ lại còn viết cho mình là: "Hãy yêu lấy Dunia, Rodia ạ, vì em đã yêu con hơn cả bản thân mình? Phải chăng đó là lương tâm cắn rứt khiến bà cụ ân hận vì đã đành tâm hy sinh con gái mình cho con trai? "Con là niềm hy vọng của mẹ và em, con là tất cả!" Ô! Bà cụ thật…"
Nỗi tức giận mỗi một sôi sục trong lòng chàng, và giá lúc ấy gặp Lugin có lẽ chàng sẽ giết hắn.
"Hừ đúng thế, chàng lẩm bẩm nói tỉếp, miên man với những ý nghĩ quay cuồng trong óc, đúng là "phải từ tốn và thận trọng mới biết rõ được" nhưng ông Lugin thì rõ quá rồi! Trước hết ông ta là "một người chí thức" và "hình như" cũng đôn hậu đấy", có phải chuyện đùa đâu! Ông ta tự đảm nhiệm mọi khoản phí tổn chuyên chở một cái rương lớn. Thế mà còn chưa tốt ư? Còn hai bà, "cô vị hôn thê" và bà mẹ, thì thuê một lão mu-gich với một chiếc xe chở hàng lợp chiếu (hồi ở quê ta cũng đã từng đi như thế rồi) Có hề gì đâu? Chỉ có chín mươi verxta thôi mà, và từ đó "hai mẹ con có thể yên chí lên tàu đi hạng ba" khoảng một nghìn verxta nữa.
Cũng biết điều đấy chứ: có sao xào vậy! Nhưng còn ông, thưa ông Lugin, ông nghĩ sao? Dù sao đó cũng là vợ chưa cưới của ông kia mà? Và ông cũng biết thừa là bà mẹ phải vay trước lương quả phụ của mình để lấy tiền chi phí vào cuộc hành trình đó kia mà! Rõ ràng ông coi việc nầy như một cuộc kinh doanh, một chuyến buôn chung trong đó hai bên đều có lợi và mỗỉ bên phải đóng một cổ phần ngang nhau, thế thì chi phí cũng phải chia đều; bánh và muối thì chung, nhưng thuốc lá thì riêng, như trong câu tục ngữ. Vả chăng trong chuyến nầy, nhà kinh doanh cũng đã ăn bớt của các bà được ít nhiều rồi: tiền chuyên chở hành lý rẻ hơn lộ phí tàu xe, mà có thể ông cũng không mất xu nào về khoản nầy nữa! Cả bà không thấy ra, hay họ cố tình làm ngơ. Vì xem ra cả hai bà đều tỏ ý hài lòng, hài lòng lắm. Mà đó chỉ mới là hoa đầu mùa thôi đấy, còn những quả chín sau nầy nữa kia! Ở đây điều quan trọng hơn hết không phải là sự bủn xỉn, tính hám lợi mà chính là cái giọng điệu. Đó cũng sẽ là cái giọng điệu sau nầy khi đã hoàn thành việc cưới xin: đó là một lời sấm truyền! Mà sao bà cụ lại nảy ra những ý định chơi ngông như vậy được nhỉ? Có được bao nhiêu tiền mà dám đi Petersburg. "Trong túi chỉ có ba rúp hay chỉ có "hai tờ" như… mụ già kia nói… Hừm… Rồi bà cụ trông mong vào cái gì mà sinh sống ở Petersburg". Vì qua một vài triệu chứng nào đó, bà cụ cũng đã đoán là cưới xin xong cụ sẽ không thể sống chung với Dunia được dù chỉ trong thời gian đầu kia mà? Chắc là con người khả ái ấy đã lỡ lời để lộ tâm địa của hắn ra, tuy thế bà cụ vẫn cứ muốn dối mình, nói "nhưng mà mẹ sẽ từ chối".
Bà cụ còn chờ đợi cái gì, còn biết trông mong vào ai nữa kia chứ? Vào số một trăm hai mươi rúp tiền lương quà phụ hẳn? Nhưng lại còn phải khấu trừ vào khoản tạm vay của Aphanaxi Ivanovich! Rồi từ hồi suốt mùa đông bà cụ sẽ cặm cụi ngồi đan khăn trùm, găng tay, chỉ tổ làm hỏng đôi mắt già thôi. Nhưng chàng biết thừa là những thứ khăn khiếc ấy cũng chỉ thêm được hai mươi rúp một năm là cùng. Thế nghĩa là cuối cùng hai bà vẫn trông mong vào tấm lòng hào hiệp của ông Lugin: "Chính anh ấy sẽ yêu cầu mẹ nhận". Cụ cứ mà tin vào! Những tâm hồn cao thượng tuyệt vời theo kiểu Sinle thường vẫn hay thế đấy; đến phút cuối cùng, họ vẫn cứ thích cắm lông công vào mình quạ, họ chỉ trông mong vào cái tốt mà không nhìn thấy cái xấu, và tuy đã thấy trước mặt trái chiếc huân chương, họ không đời nào dám gọi đích danh ra. Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi họ cũng đã quá khổ tâm rồi; họ dang cả hai tay ra bưng bít sự thật cho đến khi con người họ tô vẽ dở mặt hẳn hoi, họ mới chịu. À, không hiểu cái lão Lugin kia có được tấm huân chương huân chiếc nào không? Chắc hắn ta có huân chương Anna, và ta có thể cam đoan là khi nào đánh chén với những tay thầu khoán hay lái buôn, hắn ta vẫn trương tấm huân chương lên khuy áo. Chắc đến lễ cưới hắn cùng sẽ đeo. Mà thôi, kệ mẹ hắn?… Ừ thì thôi, về phần bà cụ thì xin Chúa phù hộ! Bà cụ vốn thế rồi không bàn đến nữa, nhưng còn Dunia? Dunia thân yêu của anh, anh biết rõ em lắm. Hồi ấy, khi gặp nhau lần cuối cùng, em đã hai mươi tuổi rồi còn gì? Anh đã hiểu được tính tình của em. Trong thư, bà cụ nói là Dunia "có thể chịu đựng nhiều". Điều đó thì anh đã rõ.
Anh đã biết rõ từ hai năm rưỡi nay, và từ hai năm rưỡi nay anh chỉ nghi đến điều đó. Chính thế, chỉ nghĩ đến việc "Dunia có thể chịu đựng nhiều. Dunia đã từng chịu được một tay như Xvidrigailov thì tất cả những hậu quả ê chề như vậy tất nhiên phải giỏi chịu đựng lắm. Và bây giờ Dunia bà cụ lại tưởng tượng là cũng có thể chịu đựng được một ông Lugin, con người đã thuyết lý rằng nên lấy những người dàn bà bị lâm vào cảnh khốn cùng và phải chịu ơn chồng, mà lại thuyết lý ngay trong buòi gặp gỡ đầu tiên. Được, thôi cứ cho là hắn "lỡ lời" tuy hắn ta vốn là hay chủ lý (nghĩa là có thể hắn ta chẳng lờ lời tí nào cả, mà chẳng qua chỉ vì muốn giãi bày cái tâm địa của hắn ra cho thật nhanh mà thôi). Nhưng còn Dunia thì sao? Nó biết thừa tâm địa thằng cha ấy, để mà lại cam tâm sống với hắn? Nó thà ăn bánh mì đen, thà uống nước lã, chứ không đời nào chịu bán linh hồn. Nó không đời nào từ bỏ tự do tinh thần của nó để đổi lấy một sự tiện nghi nào, ngay để đổi lấy cả công quốc Slezwig - Holstein nó cũng không thèm, huống chi là lấy Lugin. Không, ta biết Dunia không phải thế và ngay cho đến nay nhất định em ta vẫn không thay đôi gì… Làm sao được?
Ở nhà Xvidrigailov khổ lắm! Suốt đời, vì hai trăm rúp mà cứ phải lang thang hết huyện nầy huyện nọ làm nghề gia sư cùng khổ! Nhưng ta biết em ta thà chịu làm kiếp tôi mọi cho một tên chủ đồn diễn, thà cam chịu số phận của một người Estonia dưới ách của người Đức Ostsee (2) còn hơn là để cho tâm hồn và tình cảm mình bị nhơ bẩn, hèn hạ đi - bằng cách suốt đời trao thân cho một con người mà nó không hề kính trọng, không hề có chút thiện cảm, chỉ vì lợi ích riêng của bản thân. Và dù cho bản thân ông Lugin có là vàng thoi ngọc tảng đi chăng nữa thì cũng không bao giờ em ta chịu làm nàng hầu hợp pháp của hắn. Thế thì tại sao bây giờ lại chịu? Vì cái lẽ bí ẩn gì thế? Điều bí quyết ở đâu? Vấn đề đã quá rõ: nếu vì bản thân mình, vì muốn yên ấm cho cá nhân mình hay để cứu sống cả tính mạng mình nữa, nhất định em ta sẽ không bán mình, nhưng nếu vì một người khác, đúng thế, em ta sẽ bán mình. Vì hạnh phúc của một người thân yêu quý, em ta sẽ bán mình. Đấy, tất cả mọi điều bí ẩn chính là ở đấy: nó bán mình vì hạnh phúc của anh, của mẹ. Bán tất! Ồ! Khi cần, chúng ta phải biết nén ngay cả tính tự trọng lại. Rồi nào là tự do, yên hàn, cả đến lương tâm nữa, tất, tất cả đều đem ra chợ tầm tầm hết. Cuộc đời ta cứ việc mà đi tong! Miễn sao những người thân thích của ta được sung sướng! Mà đã hết đâu. Rồi ta tự sáng lập ra một khoa quỷ biện riêng, ta sẽ học hỏi các giáo sĩ dòng Tên (3) và có lẽ ta sẽ được yên lòng trong một thờỉ gian, ta sẽ tự thuyết phục là sự thể phải thế, ắt phải thế mới thực hiện được mục đích tốt đẹp kia.
Chúng ta đang ở trong tình thế như vậy đó, vấn đề đã sáng rõ như ban ngày. Chính Rodion Romanovich Raxkonikov chứ chẳng còn ai khác vào đây nữa, chính hắn là nhân vật chủ yếu trong câu chuyện nầy. Còn gì nữa? Phải đảm bảo nào là hạnh phúc nào là tiền đồ cho hắn, chu cấp cho hắn học đến đại học, xoay cho hắn một chân cộng tác viên trong một phòng giấy trạng sư, rồi hắn sẽ trở nên giàu có, hiển hách, sẽ được mọi người kính trọng, và có lẽ rốt đời lại còn nổi tiếng nữa là khác? Còn bà mẹ? Thì đã có Rodia, thằng Rodia yêu quý đứa con đầu lòng: đứa con nuông chiều của bà đấy thôi. Và lẽ nào lại không hy sinh ngay cả đứa con gái như thế kia cho thằng con trai đầu lòng yêu quý nầy được. Ôi! Những tấm lòng thân yêu và bất công của tôi ơi! Còn sao nữa: dù có phải chịu nhận lấy số phận của Sonya ta chắc họ cũng chẳng, từ kia mà: Sonya, Sonya Marmelazovna, Sonya vĩnh hằng, hễ còn trời đất là Sonya vẫn còn mãi mãi. Sonya, Dunia, hai người đã lường hết được tâm lớn lao của sự hy sinh nầy chưa. Hy sinh như vậy có đúng không? Hai người đã lượng sức mình chưa, đã cân nhắc hơn thiệt chưa? Có hợp lý không? Dunia, em có thấy không, số phận của Sonya không hèn kém hơn tí nào so với số phận em phải chung sống với ông Lugin? Mẹ nói "đây chẳng phải chuyện yêu đương gì". Thế thì sao, nếu không những không có tình yêu, mà cả lòng mến phục cũng không có nốt, trái lại chưa chi đã có sự khinh bỉ, ghê tởm, chán ghét thì thế nào? Lúc bấy giờ rồi cũng lại phải quan tâm "giữ gìn sự sạch sẽ" như Sonya chứ gì? Không phải thế sao? Em có hiểu không, em có hiểu rõ cái thứ sạch sẽ có nghĩa là thế nào không? Em có hiểu chăng cái sạch sẽ của một ông Lugin cũng hệt như cái sạch sẽ của Sonya thôi; có thể nó còn tệ hơn, hèn hạ hơn, bỉ ổi hơn nữa là đằng khác, vì với em dù sao đó cũng là một sự tính toán để sống cho thoải mái hơn, còn với Sonya thì tất cả chung quy chỉ cốt làm sao cho khỏi chết đói! "Thứ sạch sẽ" đó, Dunia ạ, thứ sạch sẽ đó đắt tiền lắm đấy! Rồi sau nầy, nếu không chịu đựng nổi nữa, em có ân hận không. Rồi nào là đau buồn tủi cực, nào là những lời nguyền rủa, những giọt nước mắt mà em phải âm thầm giấu giếm đi vì em có phải là bà Marfa Pavlovna đâu. Còn mẹ, rồi mẹ sẽ ra sao? Bây giờ mà mẹ đã lo lắng khổ sở rồi thì sau nầy khi thấy rõ tất cả, mẹ sẽ như thế nào? Còn tôi?… Nhưng các người coi tôi là thư người gì? Dunia… anh không thể nhận hy sinh của em, mẹ ơi, con không muốn thế! Không được, tôi mà còn sống thì cuộc hôn nhân ấy nhất định không thành? Tôi không đời nào chịu thế!"
Raxkonikov bỗng sực tỉnh và ngừng lầm bẩm.
"Cuộc hôn nhân ấy nhất định sẽ không thành? Nhưng mày, mày làm được những gì để cho nó không thành? Mày cấm hẳn? Mày có quyền gì mà cấm? Về phía mày, mày có thể hứa hẹn gì với họ để có quyền cấm họ? Tất cả cuộc sống của mày ư, tất cả tương lai của mày ư, mày sẽ đem hiến dâng cho họ khi nào mày tốt nghiệp và tìm được tiệc làm chăng? Chuyện ấy nghe nhàm lắm rồi! Vả chăng đó là chuyện tương lai, chứ còn hiện tại thì thế nào? Vì trong trường hợp nầy phải làm một cái gì ngay từ bây giờ kia, hiểu chưa? Thế bây giờ mày làm gì nào? Mày sống bám vào mẹ và em, chứ còn gì nữa! Thì những món tiền ấy, mẹ và em mày đã phải xoay xở bằng cách vay vào số lương quả phụ hàng năm và lấy ở số tiền công của nhà Xvidrigailov đấy thôi? Mày có cách gì dể cho họ đỡ khổ với bọn Xvidrigailov Aphanaxi Ivanovich Vakhrusin, hỡi nhà triệu phú tương lai kia? Mày tưởng mày là một vị thần Zeus có thể xếp đặt số phận của họ đấy hẳn? Trong mười năm nữa ấy à? Nhưng mười năm nữa thì mẹ mày sẽ có đủ thì giờ, để loà cả đôi mắt vì đan khăn, và có thể cũng vì khóc quá nhiều, mẹ mày sẽ héo hon đi vì nhịn đói, còn em mày? Thử nghĩ mà xem, sau mười năm nó sẽ ra sao, mà ngay trong mười năm ấy nữa, nó sẽ phải sống thế nào? Thế nào, mày đã đoán ra chưa".
Chàng tự dằn vặt mình với những câu hỏi như vậy trong lòng không khỏi có một cảm giác khoái lạc.
Vả chăng, đối với chàng, những câu hỏi ấy không có gì là mới mẻ đột ngột cả, đã cũ lắm rồi, đã được nghiền đi ngẫm lại chán đi rồi. Trước đây chàng đã bị nó quấy rầy, cắn rứt từ lâu lắm rồi. Nỗi u uất ấy đã nảy sinh, bành trướng, tích tụ lại trong lòng chàng, nhưng gần đây nó đã chín muồi và ùn ùn cô đặc lại thành một câu hỏi khủng khiếp, man rợ, quái đản, cứ dày vò trái tim và khối óc của chàng, tàn nhẫn thúc bách chàng giải đáp. Và giờ đây, bức thư của mẹ chàng bỗng giáng xuống chàng như một tiếng sét. Bây giờ quả không còn là lúc u sầu đau khổ một cách bị động, tự nhủ rằng mọi bài toán đều nan giải, bây giờ phải quyết định làm một việc gì đây, ngay tức khắc, càng sớm càng tốt. Bất nhược ra sao cũng phải quyết định một cái gì, hay là…
"Hay từ bỏ hẳn cuộc sống! - chàng bỗng nổi xung gào to lên, - số phận ra sao cũng ngoan ngoãn nhận lấy vĩnh viễn bóp nghẹt tất cả trong ta, từ bỏ mọi quyền hành động. quyền sống, quyền yêu!"
"Ông có hiểu không, thưa ông, ông có hiểu không biết đi đâu nữa nghĩa là thế nào không - chàng bất giác lặp lại câu hỏi của Marmelazov hôm qua, "vì phàm đã là người tất phải có một nơi nào để mà đi đến chứ!"
Chàng bỗng rùng mình, một ý nghĩ hiện lên trong óc chàng: vẫn ý nghĩ ấy. Ý nghĩ hôm qua. Nhưng chàng rùng mình không phải vì ý nghĩ đó, lại hiện ra. Chàng biết rõ, chàng "linh cảm" thấy thế nào nó cũng "sẽ hiện ra" và chàng đã đợi sẵn, vả chăng đây cũng chẳng phải là ý nghĩ hôm qua nữa. Có chỗ khác là một tháng trước đây và cả tối hôm qua cũng thế, nó chỉ mới là mộng tưởng, nhưng nay… nay nó không còn là mộng tưởng nữa, nó xuất hiện với một hình dạng mới, đầy vẻ hăm doạ, hoàn toàn xa lạ đối với chàng, và chàng bỗng nhận thức được, điều đó… Trong đầu chàng, máu dồn lên rần rật, mắt chàng hoa lên. Chàng vội vã nhìn quanh, tìm một vật gì. Chàng muốn ngồi xuống, chàng tìm một cái ghế, lúc bấy giờ chàng đang đi trên đại lộ K… Cách đây chừng một trãm bước có một chiếc ghế dài. Chàng đi thật nhanh đến phía ấy, nhưng giữa đường một biến cố nhỏ đã xảy ra, thu hút hết sự chú ý của chàng trong vòng mấy phút.
Trong khi đưa mắt tìm ghế ngồi, chàng chợt trông thấy một người con gái đi trước mặt chàng, cách độ vài chục bước. Lúc đầu chàng không mảy may chú ý đến người kia, cũng như đối với mọi vật khác bây giờ vẫn loáng thoáng trước mặt chàng. Có nhiều lần, trên đường về nhà chẳng hạn, chàng quên bẵng cả những con đường vừa mới đi qua, và chàng cũng đã quen đi như thế.
Nhưng ở người con gái đang đi trước mặt kia có một cả gì kỳ lạ đập ngay vào mặt khiến chàng dần dần cứ phải chú ý đến cô ta hơn, lúc đầu còn miễn cưỡng và dường như bực mình nữa, nhưng rồi mỗi lúc một tập trung hơn. Chàng bỗng thấy lòng háo hức muốn biết cụ thể cái gì làm cho người con gái kia có vẻ kỳ lạ như vậy Trước hết, trông cô ta chắc còn ít tuổi lắm.
Trời nắng chang chang thế nầy mà cô ta đi đầu trần, không che ô, không đeo găng, tay đung đưa trông rất lố lăng. Cô ta mặc chiếc áo dài bằng hàng mỏng, mà ngay chiếc áo cũng vận xộc xệch lạ thường, cúc chỉ gài hờ, thân sau thì bị rách ở ngay dưới thắt lưng: cả một mảng áo bị xé toạc còn dính lủng lẳng. Một chiếc khăn trùm nhỏ tụt xuống cái cổ để trần, nhưng cũng xô lệch hẳn ra một bên. Hơn nữa, cô ta lại đi bước thấp bước cao, chân nam đá chân chiêu, thậm chí cả người còn ngả nghiêng đủ bốn phía nữa là khác. Cuộc gặp gỡ đó cuối cùng đã thức tỉnh hết sức chú ý của Raxkonikov.
Chàng bắt kịp người thiếu nữ vừa khi cô ta bước gần tới ghế; nhưng vừa đến nơi, cô ta cứ thế: buông người rơi phịch xuống một đầu ghế, đầu ngả vào lưng tựa, và nhắm mắt lại, có lẽ vì đã mệt lả. Mới thoạt trông, chàng cũng biết ngay là cô ta đang say mềm. Cảnh tượng thật là kỳ lạ và quái gở. Thậm chí chàng đâm ngờ, không biết mình có trông nhầm không. Trước mặt chàng là một khuôn mặt thanh thanh, trẻ măng, có lẽ chỉ đến mười lăm, mười sáu tuổi là cùng, xung quanh loà xoà mấy món tóc vàng, một khuôn mặt xinh xắn, nhưng lại đỏ bừng và trông như sưng phị. Cô thiếu nữ hình như chẳng còn, biết gì nữa; cô ta ngồi vắt chéo chân một cách hớ hênh, cứ nhìn cũng biết cô ta hầu như không có ý thức là mình đang ở ngoài phố.
Raxkonikov không ngồi xuống, cũng không muốn bỏ đi, mà cứ phân vân đứng yên trước mặt cô ta. Phố nầy xưa nay vẫn vắng; lúc ấy vào quãng hơn một giờ trưa, lại nắng như thế kia, nên hầu như không có ai qua đường: Thế nhưng, cách đây chừng mười lăm bước, cũng đã có một người đàn ông đang đứng trên v** hè, cứ nhìn qua, cũng đủ biết là hắn ta đang muốn lại gần cô thiếu nữ với một ý định nào đó. Có thể hắn ta cũng đã thấy cô thiếu nữ từ xa và đi theo cô ta, nhưng vì có Raxkonikov nên hắn còn ngần ngại. Hắn ném về phía chàng những cái nhìn hằn học, song cũng cố giấu khong cho chàng thấy hắn nhìn như vậy và sốt ruột đợi cho người thanh niên rách rưới đáng ghét kia rút đi, nhường chỗ cho hắn. Tình thế thật đã rõ? Người đàn ông kia trạc ba mươi, dáng người phốp pháp đẫy đã, mặt mày hồng hào trắng trẻo, môi đỏ, mép lún phún tí ria, ăn mặc rất bảnh bao. Raxkonikov tức giận đến cực độ: chàng chợt nảy ra ý: tìm cách làm cho gã ăn diện kia bẽ mặt một mẻ. Chàng rời cô thiếu nữ một lát và tiến về phía hắn, tay nắm chặt, quát lớn:
- Nầy, ông kia, Xvidrigailov! Ông lảng vảng làm gì ở đấy? - chàng cười gằn;, bọt sùi cả ra mép vì tức giận.
Thế là nghĩa lý gì? - Gã kia cau mày, cất tiếng hỏi nghiêmn ghị, tỏ ý ngạc nhiên, một cách trịch thượng.
- Xéo ngay đi, chỉ có thế thôi! - Mày dám láo à? Đồ chó má…
Hắn vung roi lên, Raxkonikov vung hai quả đấm lao đến, thậm chí cũng không kịp nghĩ là gã kia người to béo như vậy tất có thể hạ một lúc hai người sức vóc như chàng. Nhưng ngay lúc ấy, có ai ở phía sau giữ lấy chàng lại: một viên cảnh sát…
- Nầy! Các ông kia, không được đánh nhau ở nơi công cộng. Các ông muốn gì? Ông là ai? - Viên cảnh sát nghiêm khắc hỏi Raxkonikov sau khi ngắm nghía bộ y phục rách rưới của chàng.
Raxkonikov chăm chú nhìn viên cảnh sát. Hắn có gương mặt thật thà mà rắn rỏi của một người lính, râu mép và râu má màu tiêu muối, đôi mắt khá thông minh.
- Chính tôi đang cần gặp ông đấy! - Chàng nắm tay viên cảnh sát reo lên - Tôi là một cựu sinh viên. Tôi là Raxkonikov… - chàng quay về phía gã kia nói tiếp - còn ông, mời ông lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông xem cái nầy…
Và chàng nắm tay người cảnh sát lôi về phía chiếc ghế.
- Đây ông xem, cô ta say mềm; lúc nãy cô ta đi giữa đại lộ, cũng không rõ con cái nhà ai, thuộc hạng người nào; nhưng trông không phải là gái chuyên nghiệp. Điều rõ nhất là cô ta đã bị phục rượu và bị lợi dụng… lần đầu tiên… Ông hiểu chứ? Rồi người ta cứ thế đẩy cô ra đường? Ông cứ nhìn chiếc áo bị xé rách và xem cách mặc áo thì rõ; không phải tự cô ta mặc lấy mà do người khác mặc vào, do những bàn tay vụng về của một người đàn ông. Đấy, cứ nhìn thì thấy. Bây giờ ông nhìn kia xem, cái gã bảnh bao suýt nữa đánh nhau với tôi kia, tôi không quen biết hắn, cũng chỉ mới gặp lần đầu; nhưng trên đường đi hắn ta cũng đã để ý đến cô nầy; hắn thấy cô ta say mềm không biết gì nữa, liền nảy ý muốn đến kéo cô ta đi đâu đấy trong lúc cô ta đang mê man như vậy… Chắc chắn như thế đấy, tôi không lầm đâu ông cứ tin lời tôi. Chính mắt tôi trông thấy hắn hau háu theo dõi cô ta; song vì có tôi nên hắn chưa dám làm gì, và đến bây giờ hắn vẫn đang chờ cho tôi đi khỏi. Đấy ông xem, bây giờ hắn lại đứng xa ra một tí giả vờ cuốn thuốc lá! Làm sao đừng để cho hắn lôi cô gái nầy đi? Làm thế nào đưa cô ta về nhà? Ông thứ nghĩ xem?
Người cảnh sát hiểu ngay sự tình và suy nghĩ một lát. Gã to léo kia thì dễ hiểu quá rồi; nhưng còn cô con gái? Người lính già cúi xuống nhìn cho kỹ hơn, và gương mặt để lộ một niềm thương xót chân thành. Bác lắc đầu nói:
- Khổ thân quá! Hãy còn như con nít ấy. Người ta đã lừa dối, lợi dụng cô ấy. Đúng, đúng thế. Cô ơi, cô có nghe không - bác cất tiếng gọi - nhà cô ở đâu?
Cô bé mở đôi mắt mệt mỏi, ngây dại, sững sờ nhìn những người đang hỏi cô rồi khoát tay như muốn xua đuổi.
- Nầy đây, - Raxkonikov thọc tay vào túi, vốc ra được độ hai mươi cô-pếch còn lại và nói - nầy, ông gọi một chiếc xe và bảo người đánh xe đưa cô ta về nhà. Làm sao biết được địa chỉ của cô ta bây giờ!
- Cô ơi, cô! - người cảnh sát cầm tiền xông lại gọi. - Tôi sẽ gọi ngay một chiếc xe và tự tôi sẽ đưa cô về. Cô muốn đi đâu bây giờ? Hở? Nhà cô ở đâu?
- Yên!… cứ quấy người ta? - cô bé lầm bẩm rồi lại khoát tay.
- Ồ, ồ? Thế không tốt đâu? Cô không thấy thẹn à không biết xấu hồ à? - Bác ta lại lắc đầu, vừa thương hại vừa bực mình, rồi quay về phía Raxkonikov nói - Rắc rối đấy! - đoạn lại đưa mắt nhìn kỹ chàng từ đầu đến chân, chắc bác ta lấy làm lạ sao chàng rách rưới như thế mà lại có tiền đem cho không.
- Anh gặp cô ta có xa đây không? - Bác hỏi.
- Thì tôi đã nói cô ta đi trước mặt tôi, láo đảo trên đường phố kia, vừa đến ghế là cô ta cứ thế gieo phịch người xuống.
- Trời ơi! Nghĩ đến phong hoá thời bấy giờ mà xấu hổ! Nhóc như thế kia mà đã say rượu! Bị người ta lừa phinh rồi, không sai vào đâu nữa! Xem, cái áo rách thế kia… Thời buổi đồi bại quá chừng! Có lẽ cũng con nhà tử tế nhưng nghèo túng… Cảnh ấy bây giờ cũng nhiều lắm. Xem ra cùng là con nhà được nuông chiều, trông như một tiểu thư ấy.
Bác lại cúi xuống nhìn cô gái. Có thể là bác cũng có những đứa con gái như thế, những đứa con gái "trông như những tiểu thư được nuông chiều được giáo dục tử tế nhưng lệch lạc, bị tiêm nhiễm đủ các thói kiểu cách thời thượng.
Raxkonikov băn khoăn nói:
- Cái chính là đừng để cô ta rơi vào tay cái thằng đểu cáng kia. Hắn sẽ làm nhục cô ta lần nữa! Hắn muốn gì thì đã rõ quá đi rồi; hắn vẫn chưa chịu di, quân chó đểu!
Raxkonikov vừa nói to lên vừa đưa ngón tay chỉ thẳng vào gã ăn diện kia. Gã nầy nghe thấy thế, sắp sửa lại nổi đoá lên, nhưng rồi nghĩ sao lại thôi và chỉ khinh khỉnh đưa mắt nhìn chàng. Đoạn hắn thong thả đi xa ra mươi bước nữa rồi dừng lại.
- Không để rơi vào tay nó thì dễ thôi - người hạ sĩ quan cảnh sát trầm ngâm đáp - Miễn là cô ta chịu nói rõ địa chí của cô, không thì… Cô ơi, cô! - bác ta lại cúi xuống gọi.
Người con gái bỗng mở choàng mắt, nhìn chăm chú, dường như đã hiểu ra, cô vụt đứng dậy đi ngược lại hướng lúc nãy cô vừa mới đến, tay vẫn như muốn xua đuổi ai, mồm làu bàu:
- Hừ, cái đồ trơ trẽn, cứ bám lấy người ta!
Cô ta đi nhanh, nhưng bước chân vẫn lảo đảo. Gã công tử bảnh bao kia lại lẽo đẽo theo sau, không rời mắt, nhưng lại đi ở lề đường bên kia.
- Anh cứ yên chí, tôi không để cho nó làm bậy đâu! - Người linh già râu ria quả quyết nói và theo hút hai người kia.
- Thời buổi đâu đồi bại quá chừng! - Bác ta lại thở dài nói to lên. Ngay lúc đó, Raxkonikov bỗng cảm thấy như bị tiêm một mũi thuốc gì quái lạ; thoáng một cái ý nghĩ của chàng như đảo ngược hẳn lại, chàng gọi với theo người lính già.
- Nầy, khoan hẵng!
Bác ta quay lại.
- Thôi, ông cứ để mặc họ! Dính đến họ làm gì? Cứ để cho hắn giải trí một tí đã sao? - Chàng trỏ gã công tử - Việc gì đến ông?
Người cảnh sát trố mắt nhìn chàng, không hiểu ra làm sao nữa. Raxkonikov cười phá lên.
- Xì! - người cảnh sát khoát tay một cái rồi lại bám sát gã công tử và cô con gái. Chắc ông ta cho Raxkonikov là một thằng điên hay là một thứ gì còn tệ hơn nữa.
Còn lại một mình, Raxkonikov bực bội lẩm bẩm.
- Thế là lão cầm đi của mình mất hai mươi cô-pếch.
"Thôi lão cũng cứ lấy tiền của tên kia nữa đi, rồi tha cô gái ra cho nó, thế là xong… Mà sao ta lại dây vào chuyện nầy làm gì? Muốn cứu giúp à? Ta thì cứu giúp gì? Ta có quyền gì mà cứu giúp? Thiên hạ cứ ăn tươi nuốt sống nhau đi, chẳng can gì đến ta cả! Mà sao ta lại dám vung hai mươi cô-pếch ấy đi? Có phải tiền của ta đâu?". Tuy nói năng lạ kỳ như vậy, chàng cũng vẫn thấy rất khổ tâm. Chàng ngồi xuống chiếc ghế bỏ không và suy nghĩ lan man… Vả chăng lúc nầy chàng thật khó lòng nghĩ đến một điều gì cụ thể. Chàng ao ước được mê man đi, được quên hết tất cả đề rồi thức dậy và làm lại một cuộc đời mới mẻ hoàn toàn.
Nhìn sang đầu ghế bó trống, chàng lẩm bẩm:
- Tội nghiệp cô bé. Cô ta sẽ tính lại, khóc lóc, rồi mẹ cô sẽ rõ chuyện - Thế là, đánh đập xỉ vả cô ta cho kỳ đau đớn nhục nhã, có thể còn đuổi cô ra khỏi nhà nữa… Cho là không bị đuổi chăng thì cũng có một mụ Darya Frantxovna nào đó đánh hơi được câu chuyện, thế là cô bé sẽ lăn lóc hết tay nầy sang tay khác… Rồi ngay sau đó là vào nhà thương bước đường tất nhiên xưa nay của các cô gái sống quá nết na bên cạnh mẹ nhưng lại giấu mẹ đi ăn mảnh rồi sau đó… sau đó lại vào nhà thương… rượu chè… tiệm xá… rồi lại nhà thương… hai ba năm sau thì chỉ còn là một người tàn phế. Ấy mới mười tám, mười chín tuổi mà đã đi đến cái nước ấy… thế là xong! Ta lại chưa thấy khối những trường hợp như thế sao? Nhưng làm sao họ lại đến nỗi như vậy. Ồ! Thôi, phớt di! Sự đời là phải thế! Họ bảo mỗi năm tất phải có một tỷ lệ phần trăm nào đấy đến khi đi đâu không rõ, chắc là cho về nhà ma… để kẻ khác dễ thở và để khỏi vướng chân họ. Một tỷ lệ phần trăm! Họ dùng chữ tài thật. Nghe mà yên tâm hẳn lại, ra vẻ khoa học lắm đã nói "phần trăm" thì không còn phải lo lắng gì nữa. Ồ giá là một chữ khác thì… có lẽ sẽ đáng lo ngại hơn. Mà ví như Duneska vì một lý do nào đó, bị rơi vào cái số tỷ lệ phần trăm nầy thì sẽ ra sao?… Không rơi vào số nầy thì lại rơi vào số khác?
"Nhưng mình đang đi đâu thế nầy? - chàng chợt nghĩ - Lạ thật. Mình ra đi có mục đích kia mà. Đọc thư xong là mình ra đi… Ờ, nhớ ra rồi, phải đến nhà Razumikhin ở đảo Vaxili. Nhưng để làm gì mới được chứ. Mà sao tự dưng mình lại nẩy ra cái ý đến nhà Razumikhin. Kể cũng lạ!".
Chàng cũng tự lấy làm lạ với mình. Razumikhin là một người bạn học cũ của hàng ở Đại học. Điều đáng chú ý là hồi còn đi học, Raxkonikov hầu như không có bạn bè; chàng tránh mọi người, không đến nhà ai mà cũng không thích tiếp ai. Vả lại chẳng bao lâu mọi người cũng xa lánh chàng. Chàng không bao giờ tham gia vào những cuộc hội họp, những buổi chuyện trò, những cuộc vui chung của bạn bè. Chàng ra sức miệt mài học tập không hề nương nhẹ mình, bạn bè kính nể chàng cũng vì thế, nhưng không ai mến chàng.
Chàng rất nghèo, kiêu ngạo đến khinh người và ít cởi mở lúc nào trông chàng cũng như đang nghiền ngẫm một chuyện gì thầm kín. Một số bạn cùng lớp nhận thấy chàng có một lối nhìn khinh khỉnh, kể cả đối với họn họ, coi họ như trẻ con, dường như tự cho mình hơn hẳn họ về trí thông minh, về trình độ hiểu biết, và về các quan niệm tư tưởng, và xem những niềm tin tưởng, những hứng thú của họ như một cái gì thấp kém.
Tuy vậy, không rõ vì sao, chàng cùng đã kết thân với Razumikhin, nói đúng ra thì không phải là kết thân, nhưng đối với anh nầy chàng cởi mở thẳng thắn hơn với mọi người khác. Vả chăng, với Razumikhin thì cũng không thể nào đối xử khác thế được. Anh là một chàng thanh niên cực kỳ vui tính và cởi mở xuề xoà, tất bụng đến gần như ngây ngô. Nhưng cái bề ngoài ngây ngô ấy lại che giấu một trí tuệ sâu sắc và một tâm hồn biết tự trọng. Các bạn thân nhất đều biết rõ điều đó, và mọi người đều yêu mến anh. Anh không khờ khạo tí nào, tuy đôi khi quả thật có ngây thơ. Hình thức bên ngoài của anh chàng khá tiêu biểu: cao, gầy, râu bao giờ cũng cạo dối nham nhở, tóc đen láy. Thỉnh thoảng anh cũng nổi cơn phá quấy và xưa nay vẫn có tiếng là khỏe như vâm. Có một bận, đang đêm, trong khi rong chơi với bạn bè, anh đã đánh ngã một viên cảnh sát cao gần hai thước. Anh có tài uống rượu liền tù tì bao nhiêu cũng hết, song cũng có thể nhịn hẳn không uống qua lấy một giọt, thỉnh thoảng anh ta cũng vui chơi phóng đãng quá mức, nhưng cũng có thể hoàn toàn kiềm chế mình. Ở Razumikhin còn một điều đáng chú ý nữa là dù có thất bại ê chề anh cũng không hề nao núng, dù hoàn cảnh bị đát đến đâu anh cũng không sờn lòng. Chỗ nào anh cũng ở được, dù là trên nóc nhà cũng xong; những cơn rét xé da xé thịt, những trận đói cồn ruột cồn gan anh đều chịu được hết. Anh ta rất nghêo, và nhất thiết tự mình làm lấy đủ mọi công việc để kiếm tiền sinh sống. Anh ta biết số đầu mối có thể xoay được tiền, tất nhiên là bằng cách làm lụng. Có lần anh ta đã sống suốt một mùa đông mà không đốt lò sưởi quả quyết rằng như vậy lại đâm ra dễ chịu hơn, vì lạnh ngủ ngon hơn. Lúc nầy anh đang phải bỏ học, nhưng anh tin là chỉ bỏ học trong một thời gian ngắn thôi, và anh hối hả cố gắng hết sức xoay chuyển tình thế để có thể tiếp tục theo học. Đã hơn bốn tháng nay, Raxkonikov không đến nhà anh và Razumỉkhin cũng không biết chàng ở đâu nữa. Cách đây hai tháng, có lần hai người tình cờ gặp nhau ngoài phố, song Raxkonikov đã quay mặt đi và bước sang v** hè bên kia để anh ta khỏi trông thấy. Tuy đã nhận ra chàng mười mươi, Razumikhin cũng cứ làm lơ bước thẳng vì không muốn làm phiền bạn!

Chú thích:
(1) Tên ngọn núi dùng làm pháp trường đóng đinh Chúa Jesus trên giá chữ thập.
(2) Miền duyên hải Baltic thuộc Đức.
(3) Một dòng giáo sĩ công giáo, nổi tiếng vì những thủ đoạn vô liêm sỉ che giấu dưới những lối biện luận xảo trá (Jesuistes)

Chương 5

Phần I



"Quả nhiên cách đây ít lâu mình có lần định nhờ Razumikhin tìm hộ việc làm, kiếm chỗ dạy học hay một công việc gì khác… - Raxkonikov suy nghĩ, - nhưng bây giờ thì liệư hắn ta có thể giúp được gì cho mình? Cứ thử cho là Razumikhin sẽ kiếm được chỗ dạy học, hay chia xẻ với mình đồng cô-pếch cuối cùng, nếu hắn ta còn được một đồng cô-pếch, thành thử có thể mua được đôi giầy và vả lại bộ quần áo cho tươm tươm mà đi dạy… hừm… ừ thế rồi sao nữa? Ta sẽ làm gì với mấy đồng cô-pếch ấy? Chả nhẽ bây giờ mà ta lại cần đến thứ đó? Thật đấy, đến nhà Razumikhin thì buồn cười thật…
Vấn đề tại sao bây giờ lại đến nhà Razumikhin khiến chàng bứt rứt hơn là chính chàng có thể tưởng; Chàng lo lắng tìm tòi một ý nghĩa gì chẳng lành trong cái hành động có vẻ như hết sức bình thường ấy.
"Sao thế nhỉ, lẽ nào ta lại mong cậy vào mỗi một mình Razumikhin để thu xếp mọi việc và tìm lối thoát cho tất cả?" - Raxkonikov ngạc nhiên tự hỏi.
Chàng bóp trán suy nghĩ, và lạ thay, sau một hồi lâu băn khoăn như vậy, bỗng nhiên một ý nghĩ hết sức kỳ lạ từ đâu vụt hiện lên trong óc chàng.
"Hừm, đến Razumikhin, - chàng bỗng thết lên, hoàn toàn điềm tính, như nói đến một điều đã quyết định dứt khoát. - Thì ta sẽ đến Razumikhin, lẽ tất nhiên là như thế, nhưng bây giờ thì khoan hẵng… Ta sẽ đến Razumikhin một ngày sau việc ấy, khi nào việc ấy đã làm xong và sự tình đã khác hẳn…
Rồi Raxkonikov bỗng sực tỉnh lại.
"Sau việc ấy, - chàng nhổm dậy thét lên, - Thế ra việc ấy sẽ xảy ra? Sẽ xảy ra thật hay sao?".
Chàng rời chiếc ghế dài, bỏ đi như chạy trốn; chàng cũng định quay trở về, nhưng nghĩ đến chuyện về phòng, chàng bỗng thấy ghê tởm quá. Chính ở đấy, trong căn phòng của chàng, ở cái xó tối, trong cái tủ khủng khiếp ấy tất cả cái đó chín muồi đã hơn một tháng nay. Chàng bỏ ý định về nhà, nhắm mắt bước thẳng.
Người chàng đã run run vì bứt rứt, bây giờ lại chuyền sang rung mạnh như trong cơn sốt; thậm chí chàng còn thấy ớn lạnh nữa; trời nóng bức như thế nầy mà chàng cảm thấy rét. Hầu như bất giác tuân theo một sự thôi thúc khẩn thiết nào ở bên trong, chàng bắt đầu gượng gạo nhìn kỹ tất cả những gì chàng trông thấy trên đường đi, dường như để tìm cách khuây khoả, nhưng làm như vậy cũng chẳng ăn thua gì mấy; cứ mỗi chốc chàng lại chìm vào tâm trạng đăm chiêu như cũ. Rồi đến khi chàng giật mình, ngẩng đầu lên nhìn quanh, chàng lại quên ngay, không nhớ mình vừa nghĩ gì, và thậm chí mình đang đi qua những chỗ nào cũng không nhớ nốt. Chàng cứ thế đi hết đảo Vaxili ra nhánh Neva con, qua cầu và rẽ vào các đảo nhỏ(1). Những khóm cây xanh rờn và quang cảnh tươi mát ở khu nầy thoạt tiên thoa dịu đôi mắt mệt mỏi của Raxkonikov đã quen với bụi bặm của phố phường, với vôi vữa và từng những toà nhà đồ sộ như muốn xô lấn, đè bẹp người ta.
Ở đây không khí không ngột ngạt, hôi hám lại không có tiệm rượu. Nhưng chẳng mấy chốc những cảm giác mới mẻ, dễ chịu nầy đã lại khiến chàng thấy nhức nhối, bực tức thỉnh thoảng chàng dừng chân trước một ngôi biệt thự đỏm dáng ẩn sau khu vườn xanh tốt, nhìn vào cổng sắt và thấy xa xa những người đàn bà ăn mặc sang trọng đứng trên các bao lơn và các sân thượng, những đứa trẻ chạy tung tăng trong vườn. Chàng chú ý đến hoa nhiều nhất; chàng nhìn chúng lâu hơn cả.
Chốc chốc chàng lại gặp những cỗ xe ngựa sang trọng, những người cưỡi ngựa rong chơi, nam có nữ có; chàng tò mò nhìn theo họ và họ chưa đi khuất chàng đã quên bẵng họ đi. Có lần chàng đứng lại đếm tiền; còn được khoảng ba mươi cô-pếch. "Hai mươi cô-pếch đưa cho viên cảnh sát, ba cô-pếch cho Naxtaxia về bức thư… - thế tức là hôm qua mình cho Marmelazov bốn mươi bảy hay năm mươi cô-pếch gì đấy" - chàng nghĩ thầm, tính toán một lúc để làm gì không rõ, nhưng chỉ một lát sau chàng đã quên bẵng đi không hiểu mình rút tiền trong túi ra để làm gì nữa. Chàng nhớ lại điều đó khi đi ngang một cửa hàng bán thức ăn, một thứ quán ăn bình dân thì đúng hơn. Lúc đó chàng mới nhớ ra rằng mình đang thèm ăn. Bước vào quán, chàng uống một cốc vodka, và mua chiếc bánh rán thịt ăn mấy miếng, phần còn lại chàng cầm theo ăn nốt dọc đường.
Đã lâu lắm chàng không. uống vodka, nên vừa uống vào đã thấy công hiệu ngay, tuy trước sau chỉ có một cốc nhỏ. Chân chàng bỗng nặng trĩu, và chàng bắt đầu thấy buồn ngủ không sao cưỡng được. Chàng quay trở về nhưng đi đến đảo Petrovxki, chàng phải đừng lại vì đã hoàn toàn kiệt sức. Chàng rẽ sang bên đường, đi vào giữa các bụi cây, gieo mình xuống thảm cỏ và lập tức ngủ thiếp đi. Những giấc mơ của một người bệnh thường rõ nét khác thường và giống hiện thực một cách lạ lùng. Đôi khi thấy hiện lên một quang cảnh kỳ quái, nhưng khung cảnh và toàn bộ quá trình diễn biến trong giấc chiêm bao có vẻ thật và đầy những chi tiết tinh vi, bất ngờ nhưng lại phù hợp với toàn bộ quang cảnh một cách tinh xảo đến nỗi giá người chiêm bao kia đang thức thì không tài nào nghĩ ra được, dù người đó có là một nghệ sĩ như Puskin hay Turgenev chăng nữa. Những giấc chiêm bao bệnh tật như vậy bao giờ cũng khắc sâu vào trí nhớ và gây một ấn tượng rất mạnh trong cơ thể, đã rối loạn và sẵn bị kích thích mạnh.
Raxkonikov thấy một giấc chiêm bao khủng khiếp.
Chàng mơ thấy lại thời thơ ấu, khi gia đình chàng còn ngụ ở cái tỉnh lỵ nhỏ hồi nào. Dạo ấy chàng lên bảy. Một ngày hè vào lúc xế chiều, bố chàng đưa chàng đi chơi ở ngoại thành. Tiết trời u ám, không khí ngột ngạt; khung cảnh nơi ấy in hệt như trong ký ức của chàng; thậm chí còn đậm nét hơn nữa là khác. Cái thị trấn nhỏ hiện rõ ra quanh chàng như nằm trên lòng bàn tay. Xung quanh không có lấy một bóng cây, chỉ xa xa mãi tít ở tận chân trời, mới thấy một khóm rừng vẽ thành một vệt sâm sẫm. Cạnh khu vườn cuối cùng của thị trấn có một quán rượu lớn xưa nay vẫn gây cho chàng một ấn tượng hết sức khó chịu, thậm chí còn làm chàng kinh hãi, mỗi khi chàng đi dạo với bố ngang qua đấy. Ở đấy lúc nào cùng có một đám đông người hò hét, cười ha hả, chửi bới nhau; họ cất giọng khàn khàn hát những bài nghe mà ghê cả người, và rất hay đánh nhau; xung quanh quán lúc nào cũng có những gã say rượu mặt mày khủng khiếp vật vờ qua lại… Gặp họ, chàng nép sát vào bố và cả thân hình chàng run bắn lên. Cạnh quán rượu có một con đường tắt lúc nào cũng bụi bặm, và bụi trên đường lúc nào cũng đen xỉn. Con đường quanh co đi ngang qua quán rượu, được chừng ba trăm bước thì ngoặt sang phải và chạy vòng quanh khu nghĩa địa của tỉnh lỵ. Giữa nghĩa địa có một ngôi nhà thờ bằng đá, mái vòm xanh; cứ mỗi năm hai lần cậu bé Raxkonikov lại theo bố mẹ đến đây xem lễ cầu hồn cho bà nội cậu đã mất từ lâu mà cậu chưa bao giờ được thấy mặt. Mỗi lần như vậy, bao giờ họ cũng mang theo chiếc bánh cúng giỗ đựng trong chiếc đĩa trắng bọc khăn bông; bánh làm bằng bột gạo trộn đường, có nhân bằng nho khô giắt vào bột thành hình chữ thập.
Raxkonikov rất thích ngôi nhà thờ nầy và những bức tượng cổ kính trong nhà thờ, phần lớn không có khung, thích cả vị linh mục già có cái đầu lắc lư. Cạnh ngôi mộ của bà chàng với phiến đá phẳng phiu, còn có một nấm mộ nho nhỏ của em trai chàng, chết từ hồi mới được sáu tháng; Raxkonikov cũng không hề biết và không thể nhớ gì về đứa em nầy; chàng chỉ nghe nói là mình có đứa em trai nhỏ, và cứ mỗi lần đến nghĩa địa, chàng lại thành kính làm dấu chữ thập trước nấm mồ nhỏ và cúi xuống hôn nó.
Và giờ đây, Raxkonikov mư thấy mình đang đi với bố trên con đường dẫn đến nghĩa địa; đi ngang quán rượu, Raxkonikov cầm tay bố và sợ hãi đưa mắt nhìn ngôi quán. Một việc khác thường khiến cậu bé chú ý, lần nầy hình như đang có một trò vui gì ở đây thì phải; cả một đám đông gồm những người đàn bà thị dân ăn mặc như ngày hội, những cặp vợ chồng nông dân và cả một lũ người du thủ du thực. Ai nấy đều say khướt, lè nhè cất tiếng hát nghêu ngao. Bên thềm quán rượu có một chiếc xe giàn đỗ lại. Chiếc xe trông rất kỳ dị.
Đó là loại xe giàn to thường vẫn thắng những con ngựa tái to béo, dùng để chở những thùng rượu và những kiện hàng. Raxkonikov vẫn thích nhìn những con ngựa tải to lớn, bờm dài, chân to, ung dung bước đều đặn, kéo theo cả một đống tướng hàng hoá, không chút mệt nhọc, tưởng chừng chở nặng như vậy chúng lại thấy thoải mái hơn là đi không. Nhưng bấy giờ thì lạ thay, con ngựa thắng vào chiếc xe giàn to tướng lại là một con ngựa lang bé choắt, gầy đét, giống như những con ngựa nhà quê mà Raxkonikov đã nhiều lần thấy kéo xe chở củi hay chở rơm rạ gì đấy. Mỗi khi bánh xe lún xuống bùn hay s** vào rãnh, những người mu-gich bao giờ cũng lấy roi đánh chúng rõ đau, đôi khi lại còn quật vào mõm, vào mắt chúng, và Raxkonikov thấy thương xót cho chúng quá chừng, đến nỗi suýt oà lên khóc, và mỗi lần như vậy mẹ chàng lại phải đưa chàng vào nhà, không cho ngồi ở cửa sổ nữa.
Lúc ấy ngoài phố bỗng ồn ào hẳn lên: những người mu-gich to béo mặc áo sơ-mi xanh hay đỏ, áo khoác vắt vai, tay cầm đàn balalaika, luôn mồm reo hò, hát xướng, từ trong quán rượu bước ra. Một người còn trẻ, cổ béo phị, cái mặt thịt đỏ mọng như củ cà rốt, hô to: "Ngồi lên, ngồi cả lên!" nhưng lập tức aỉ nấy đều cười rộ và la ó ầm ỹ.
- Ngựa khổ nầy thì chở gì?
- Chà, Mikonka, cậu điên rồi hay sao: xe nầy mà thắng ngựa nầy à! Con nầy chắc phải đến hai chục tuổi rồi anh em ạ!
- Ngồi lên tớ chở cả lũ cho mà xem? - Mikonka lại quát - Hắn lên xe trước, cầm lấy cương và vươn thẳng người đứng ở phía trước thùng xe. - Thằng Matvey vừa đánh con ngựa tía đi đấy - hắn đứng trên xe nói - còn con nầy thì chỉ làm khổ tớ thôi; tớ muốn giết quách nó đi cho rảnh, nuôi nó chỉ tổ tốn thóc. Nào, ngồi lên! Tớ cho nó phi nước đại cho mà xem? - Nói đoạn hắn cầm lấy roi, khoái trá sửa soạn quất con ngựa lang.
- Thì ngồi nào! - đám đông cười rộ - Nó phi nước đại cơ đấy ghê chưa?
- Dễ đến mười năm nay nó chưa phi lần nào đâu.
- Rồi nó phi cho mà xem! - Đừng có nương nhẹ nó làm gì, anh em ạ, mỗi người cầm sẵn lấy một con roi.
- Phải đấy? Đánh khỏe vào!
Mọi người vừa leo lên xe Mikonka vừa bông đùa và cười ha hả. Đã có sáu người lên, nhưng vẫn còn thừa chỗ, họ lôi lên xe một mụ đàn bà to béo mặt đò gay, mình mặc chic áo vải hoa, đầu đội mũ chụp dính cườm, chân đi ủng, mồm vừa cắn hạt dẻ vừa cười hềnh hệch.
Đám đông đứng quanh cũng cười, mà họ cười cũng phải: một con ngựa còm như thế lại kéo chiếc xe chở nặng trịch thế kia mà bảo là phi nước đại thì ai mà nhịn cười được? Hai gã trai trẻ đứng trên xe lập tức cầm lấy roi để giúp Mikonka. Có tiếng quát "Nào!", thế là con ngựa còm rướn cổ ra kéo, nhưng không những nó không phi nước đại, mà ngay như lê bước một nó cũng khó nhọc lắm mới lê nổi: chân nó cào đất, nó rúm người lại vì ba cây roi quất xuống tới tấp như mưa rào. Tiếng cười trên xe và trong đám đông lại càng thêm giòn dã, nhưng Mikonka thì nổi cáu lên và giận dữ quất roi vào con ngựa mỗi lúc một dồn dập, như thể yên trí rằng nó sẽ phi nước đại thật.
Trong đám đông có một gã thanh niên cũng cao hứng lên, nói:
- Cho tôi lên xe mấy anh em?
- Ngồi lên, ngồi hết lên! - Mikonka quát, - chở hết cho mà xem. Tớ sẽ đánh khỏe vào! - Hắn vừa nói vừa ra sức quất roi vào ngựa. Trong cơn giận điên cuồng hắn không còn biết lấy gì đánh cho con ngựa đau hơn nữa.
Raxkonikov kêu lên:
- Ba ơi, ba ơi, họ làm gì thế kia hở ba! Họ đánh con ngựa thương quá!
- Ta đi thôi, ta đi thôi! - cha chàng nói, - chúng say rượu đấy, cái lũ ngốc, chúng đang bày trò nghịch nhảm đấy, thôi ta đi, con đừng nhìn làm gì.
Nói đoạn, ông toan dắt con đi. Nhưng cậu bé giật tay ra, hoảng hốt chạy về phía con ngựa. Nhưng con ngựa đáng thương bây giờ đã kiệt sức rồi. Nó thớ hổn hền, đứng lại, rồi lại cố kéo, loạng choạng suýt ngã.
- Đánh cho kỳ chết! - Mikonka quát, - có thế thôi. Tớ đánh chết cho mà xem.
- Sao thế hả, mày không phải là người có đạo hẳn, đồ quỷ! - Một ông già đứng trong đám đông nói to.
- Có đời thuở nhà ai một con ngựa khổ như thế lại bắt kéo ngần ấy người, - một người khác chêm vào.
- Nó chết mất! - một người nữa nói.
- Kệ tao! Ngựa của tao kia mà! Tao muốn làm gì nó thì tao cứ làm. Ngồi nữa lên! Ngồi nữa lên! Tớ nhất định phải bắt nó phi nước đại mới nghe…
Bỗng có tiếng cười rộ lên át hết mọi tiếng khác: con ngựa gầy còm, tuy đã kiệt sức, nhưng không chịu nổi những nhát roi quất mỗi lúc một dồn dập, đã ***g lên hất chân đá hậu. Ngay cả ông già hồi nãy cũng phải mỉm cười. Quả tình cũng khó lòng mà nhịn cười được: con ngựa đứng đã không vững mà lại còn đòi ***g lên nữa!
Hai gã thanh niên trong đám đông kiếm thêm được hai cây roi nữa và từ hai phía chạy lại đánh vào hai bên sườn con ngựa.
- Đánh vào mõm ấy, quật vào mắt ấy! - Mikonka quát - Hát lên một bài anh em ơi! - Một người đứng trên xe hô lên, và ai nấy đều cất giọng hướng ứng. Một bài hát thô tục vang lên, tiếng trống ếch đệm theo, và hễ đến điệp khúc lạt có tiếng huýt. Mụ đàn bà to béo cắn hạt dẻ tanh tách và cười hềnh hệch.
Raxkonikov chạy đến cạnh con ngựa, cậu cứ chạy về phía trước; cậu thấy họ đánh vào mắt nó, nhằm đúng vào mắt mà đánh. Cậu khóc. Lòng cậu bé se lại, nước mắt trào ra. Một nhát roi xoang cả vào mặt cậu, cậu không thấy đau, cậu vò đầu bứt tai, cậu kêu gào, đâm bổ về phía ông già đầu râu tóc bạc đang lắc đầu ra dáng bất bình. Một người đàn bà nhà quê nắm lấy tay Raxkonikov toan dắt đi: nhưng cậu giật phắt tay ra vả lại chạy đến cạnh con ngựa. Bây giờ con vật khốn khổ đã kiệt sức lắm rồi, nhưng nó còn ***g lên lần nữa.
- Chà, con quỷ! - Mikonka điên tiết quát lên. Hắn vứt cây roi đi cúi xuống rút từ gầm xe ra một cái vồ dài và to, hai tay cầm lấy đầu vồ và giơ cao lên trên đầu con ngựa.
- Hắn đánh vỡ đầu con ngựa mất! - xung quanh có tiếng xôn xao.
- Hắn giết nó chết mất!
- Ngựa của tao! - Mikonka quát và lấy hết sức lực dáng vồ xuống, nghe đánh ình một tiếng nặng trịch.
- Đánh, đánh cho chết đi? Sao lại đứng đực ra thế! - trong đám đông có tiếng giục.
Mikonka lại giơ cao vồ lên lần nữa và giáng một vồ thứ hai lên lưng con ngựa khốn khổ. Nó khuỵ hẳn hai chân sau xuống, nhưng lại nhỏm dậy và thu hết tàn lực kéo bên nầy bên nọ cho cỗ xe nhích tới; nhưng sáu cây roi từ khắp bốn phía thi nhau quất vào nó, và cái vồ lại giơ cao lên nện đều đặn vào người nó lần thứ ba, rồi lần thứ tư. Mikonka điên tiết lên vì không đánh chết tươi được con ngựa bằng một nhát vồ.
- Sống dai thật! - xung quanh có tiếng ai kêu lên.
- Bây giờ thì thể nào nó cũng gục thôi, anh em ạ, thế là hết kiếp! - một người trong đám đông nói, giọng sành sỏi - Lấy rìu mà bồ chứ! Phải giết cho chết ngay đi chứ, - một người khác nói.
- Chà cái lũ muỗi nhép? Xê ra? - Mikonka nổi khùng lên quát. Hắn vứt cái vồ đi, khom người xuống rút từ gầm xe ra một thanh sắt. - Coi chừng đây! - Hắn quát, đoạn lấy hết sức giáng mạnh xuống mình con ngựa khốn nạn. Con vật lảo đảo khuỵu chân xuống; nó định rướn mình lên, kéo xe, nhưng thanh sắt đã lại giáng mạnh lên lưng, và nó ngã khuỵu xuống đất, tưởng chừng như có ai bỗng cắt đứt cả bốn chân nó một lượt.
- Phải giết cho chết hẳn đi! - Mikonka thét lên và như điên như dại nhảy xuống đất.
Mấy gã thanh niên nữa, cũng say rượu, mặt đỏ gay bạ gì vơ nấy - roi, gậy vồ - xông vào con ngựa đang hấp hối. Mikonka đứng một bên nện mãi thanh sắt vào lưng con ngựa.
Con vật khốn nạn rướn cổ, thở hắt ra một tiếng nặng nhọc và tắt nghỉ.
- Thế là hết kiếp! - trong đám đông có tiếng kêu.
- Ai bảo không chịu phi!
- Ngựa của tao! - Mikonka quát, tay lăm lăm cầm thanh sắt, mắt đỏ ngầu. Hắn đứng tần ngần như thể lấy làm tiếc rằng bây giờ không biết đánh vào ai nữa.
- Quả thật mày không phải là người có đạo! - bấy giờ trong đám đông đã có mấy người cùng lên tiếng trách móc.
Cậu bé đáng thương không còn tự chủ được nữa. Cậu kêu rú lên, len qua đám dông chạy lại ôm; lấy cái mõm rớm máu của con ngựa chết và hôn lên mắt, lên môi con vật… Rồi cậu bỗng nhảy chồm lên xông vào Mikonka, vung hai quả đấm bé nhỏ nện vào người hắn. Vừa lúc ấy cha cậu, nãy giờ vẫn ra sức đuổi theo, đã giữ cậu lại được và bế ra ngoài.
- Tà đi thôi? Tá đi thôi! - ông nói - ta về thôi!
- Ba ơi! Tại saa con ngựa tội nghiệp ấy có tội tình gì… mà chúng giết chết! - Raxkonikov vừa khóc vừa nói, nhưng cổ cậu nghẽn lại và lời nói cứ bật từ ***g ngực tức anh ách của cậu ra thành từng tiếng thét đứt quãng…
- Đồ say rượu ấy mà, chúng nó bày trò nghịch nhảm,: không việc gì đến ta, thôi ta về đi? - cha cậu nói. Raxkonikov dang tay ôm chầm lấy cha. Ngực cậu cứ nghẹt lại, tức tối. Raxkonikov muốn thở lại cho đều muốn kêu lên một tiếng, và bừng tỉnh…
Chàng tỉnh giấc, mồ hôi đầm đìa: tóc cũng ướt đẫm, thở hổn hển. Chàng hoảng hốt choàng dậy:
- May quá, đây chỉ là một giấc mơ! - chàng vừa nói vừa ngồi dậy tựa lưng vào gốc cây và thở hắt ra. - Nhưng làm sao thế nầy? Mình bắt đầu lên cơn sốt chắc: chiêm bao gì mà gớm guốc thế?
Người chàng mỏi như dần, trong tâm trí thì thấy tối tăm, mờ mịt. Chàng chống khuỷu tay tên hai đầu gối, và đưa hai bàn tay lên vuốt đầu.
- Trời ơi! - chàng thốt lên. - lẽ nào, lẽ nào ta sẽ lấy một cái rìu thật, sẽ bỏ lên đầu mụ ta, sẽ bửa đôi sọ mụ ta ra… sẽ dẫm lên vũng máu nhớp nháp, nóng hầm hập của mụ, sẽ bẻ gãy ổ khoá và giơ hai bàn tay run lẩy bẩy ra lấy trộm; rồi mình mấy bê bết những máu, nấp vào một nơi, tay cầm cái rìu… Trời ơi, có thể thế được chăng?
Chàng run bắn lên như tàu lá khi tự nhủ như vậy.
- Nhưng mình nghĩ gì thế nầy! - chàng nói tiếp, đầu lại gục xuống và dường như vô cùng kinh ngạc, - mình đã biết là mình không thể nào làm được như thế, thì sao mãi đến nay cứ tự giầy vò mãi làm gì? Ngay như hôm qua, khi mình đi… duyệt thử lại việc ấy, hôm qua mình đã hiểu rõ như ban ngày rằng mình sẽ không thể nào chịu nổi… Thế mà bây giờ, sao mình lại thế? Sao mãi cho đến nay mình vẫn còn hồ nghi? Hôm qua khi xuống thang gác, chính mình đã nói rằng như thế là khốn nạn, ghê tởm, hèn hạ vô cùng…, và trong khi đang thức chỉ nghĩ đến việc ấy thôi mình cũng đã lợm mửa và hoảng hốt lên rồi kia mà… - Không, không thể được, không thể được! Hẵng cứ cho rằng trong những điều suy tính của mình không còn chút gì đáng phân vân đi nữa; cứ cho rằng tất cả những điều mình đã quyết định, trong tháng nay đều rõ như ban ngày, chính xác như số học. Trời ơi? Dù có thế chăng nữa mình cũng không thể làm được! Mình không chịu nổi, không sao chịu nổi! Thế thì tại sao cho đến bây giờ…
Chàng đứng dậy, bàng hoàng nhìn quanh như ngạc nhiên không hiểu tại sao mình lại đến đây, rồi đi lên cầu T. Mặt chàng tái nhợt, mắt chàng sáng quắc lên, chân tay chàng rã rời ra, nhưng chàng chợt cảm thấy dễ thở hơn. Chàng có cảm giác như vừa vứt bỏ được cái gánh nặng khủng khiếp đã trĩu lên chàng bấy lâu, và lòng chàng bỗng thấy thanh thoát và yên tĩnh. "Lạy Chúa! - chàng lầm rầm cầu nguyện, - hãy chỉ đường cho tôi, tôi sẽ từ bỏ cái… mơ ước đáng nguyền rủa ấy!".
Đi qua cầu, chàng bình tĩnh nhìn con sông Neva, nhìn vầng thái dương đỏ rực đang khuất bóng. Tuy có suy nhược, chàng hầu như không cảm thấy người mệt mỏi. Tưởng chừng như cái ung nhọt đã tấy lên trong tim chàng trong suốt tháng nay bỗng vỡ tung ra. Tự do! Tự do! Bây giờ chàng đã thoát ra khỏi ma lực của những bùa mê, những pháp thuật quái đản ấy.
Về sau, khi nhớ lại quãng thời gian nầy và tất cả những việc đã xảy đến với chàng trong mấy ngày hôm ấy cặn kẽ từng phút một, từng chi tiết một, từng nét một, có một điều khiến cho chàng kinh ngạc đến mức mê tín, một điều thật ra không lấy gì làm phi thường cho lắm, nhưng về sau chàng cứ cảm thấy như đã tiền định số phận chàng: chàng không sao hiểu nổi và tự cắt nghĩa được cho mình, là tại sao trong khi đang mệt mỏi rã rời ra như vậy, lẽ ra phải về nhà bằng con đường gần nhất, thẳng nhất, thì chàng lại đi qua quảng trường Chợ hàng Rơm, mặc dầu không hề có lấy một lý do nào để đi qua đấy cả. Lối nầy cũng không xa lắm, nhưng đi như vậy rõ ràng là mua thêm đường mà đi, và hoàn toàn vô ích. Dĩ nhiên, đã hàng chục lần chàng đi về nhà mà không nhớ mình đã đi qua những phố nào. Nhưng chàng vẫn băn khoăn tự hỏi không biết tại sao một cuộc gặp gờ quan trọng, có tính chất quyết định đối với chàng như vậy mà đồng thời lại hoàn toàn ngẫu nhiên như vậy ở khu Chợ hàng Rơm nầy lại diễn ra đúng vào giờ phút ấy của cuộc đời chàng, đúng vào lúc tâm trạng chàng đang như vậy và đúng vào những hoàn cảnh cho phép cuộc gập gỡ ấy có thể có tác dụng quyết định dứt khoát nhất đối với cả vận mệnh của chàng? Cứ như thế nó cố ý rình đợi chàng ở đây?
Lúc chàng đi ngang khu Chợ hàng Rơm là vào khoảng chín giờ. Tất cả những người lái buôn lớn nhỏ đều đã đóng cửa hiệu hay thu dọn bàn ghế hàng họ để về nhà, và khách hàng của họ cũng thế. Cạnh mấy cái quán ăn bẩn thỉu dọn ở các căn nhà hầm trong những khoảng sân nhớp nhúa và hôi hám của những dãy nhà bao quanh quảng trường, và nhất là cạnh các tiệm rượu, chen chúc những đám người rách rưới những kẻ cầu bơ cầu bất đi kiếm ăn bằng đủ các nghề nghiệp. Raxkonikov đặc biệt ưa thích những chỗ nầy, cùng như tất cả những ngõ hẻm ở quanh đấy, những khi chàng lang thang đi ra phố không chủ đích. Ở đây những mảnh giẻ rách chàng mặc không hề bị ai chú ý và tỏ vẻ khinh thị dù bộ dạng có ra sao cũng không làm ai khó chịu. Sát góc ngã K… có hai vợ chồng một lão tiểu thương bày hai cái bàn bán chỉ, sợi, dây gai, khăn vải hoa v.v… Họ cũng đã dọn dẹp để về nhà, nhưng còn ngồi nán lại nói chuyện với một người quen vừa đi ngang. Người đó là Lizaveta Ivanovna, hay như ngưởi ta thường gọi - mụ Lizaveta, em gái mụ Aliona Ivanovna, quả phụ của một lão công chức bậc bảy, chính cái mụ chủ hiệu cầm đồ mà hôm qua Raxkonikov vừa đến gặp để cầm cái đồng hồ và "duyệt thử" lại việc ấy… Chàng đã từ lâu biết rõ về mụ Lizaveta nầy, và chính mụ cũng có biết chàng đôi chút.
Đó là một mụ đàn bà ba mươi lăm tuổi, người cao lỏng khỏng, vụng về, nhút nhát và hiền lành, gần như là một người ngớ ngẩn. Mụ ở với chị ruột như một người đày tớ làm quần quật suốt ngày đêm, đứng trước mụ chị thì run cầm cập và thậm chí còn bị mụ ta đánh đập nữa là khác. Lúc bấy giờ Lizaveta Ivanovna đang đứng nghe hai vợ chồng lão tiểu thương nói, vẻ đăm chiêu tư lự. Hai vợ chồng kia thì đang nói gì với mụ không biết mà có vẻ hăng hái lắm. Raxkonikov chợt trông thấy mụ ta, một cảm giác kỳ lạ, tương tự như một nỗi kinh ngạc đến cùng cực, bỗng tràn vào lòng chàng, tuy trong cuộc gặp gỡ nầy chẳng có gì đáng lấy làm lạ cả.
- Bà Lizaveta Ivanovna ạ, bà định liệu lấy thì hơn - lão tiểu thương nói to. - Mai khoảng bảy giờ bà đến nhé; khoảng ấy họ cũng sẽ đến đây đấy.
- Mai à? - mụ Lizaveta nói, giọng kéo dài, vẻ tư lự như còn phân vân điều gì.
- Chà, bà sợ Aliona Ivanovna đến thế kia à! - mụ vợ nói, giọng lanh lảnh mụ ta vốn là người rất lém lỉnh. - Tôi trông bà cứ như đứa con nít ấy. Mà nào có phải chị ruột cho cam, chỉ là cùng cha khác mẹ thôi, ấy thế mà bà ấy bắt nạt bà đến là dữ.
- Mà lần nầy bà chớ nói gì với bà Aliona Ivanovna đấy nhé - ông chồng ngắt lời, - đấy tôi khuyên bà như thế đấy, bà cứ đến đây, đừng xin phép gì cả. Món nầy hời lắm. Sau rồi chính bà chị cũng hài lòng cho mà xem.
- Hay tôi đến vậy nhé?
- Bảy giờ tối mai; họ cũng sẽ đến; bà cứ định liệu lấy.
- Rồi chúng tôi sẽ đốt ấm lò, - mụ vợ nói thêm.
- Được tôi sẽ đến, - mụ Lizaveta nói, vẻ vẫn còn phân vân, đoạn chậm rãi bước đi.
Đến đây Raxkonikov đã đi quá nên không còn nghe gì nữa. Chàng đi qua im lặng, kín đáo, cố sao không để lọt mất một câu nào. Cảm giác ngạc nhiên của chàng lúc ban đầu nhường chỗ cho lòng kinh hãi, chàng ngỡ như có một tảng băng luồn qua xương sống.
Chàng vừa biết được, biết một cách đột ngột và bất ngờ, rằng ngày mai, vào lúc bảy giờ tối, mụ Lizaveta, em gái mụ chủ hiệu và là người độc nhất cùng ở một căn nhà với mụ ta, sẽ đi vắng, và như thế nghĩa là lúc bảy giờ tối mụ chủ sẽ ở nhà một mình.
Chỉ còn mấy bước nữa là Raxkonikov về đến nhà. Chàng bước vào buồng như một người vừa mới bị tuyên án từ hình. Chàng không suy luận gì hết và hoàn toàn không có khả năng suy luận, nhưng cả con người chàng đã chợt cảm thấy mình không còn tự do lý trí nữa mà cũng không còn chút nghị lực nào, rằng mọi việc bỗng nhiên đã được quyết định dứt khoát.
Dĩ nhiên, ví thử chàng có chờ đợi cơ hội thuận tiện suốt mấy năm liền, thì cũng không thể trông mong một dịp nào tốt hơn để thực hiện ý định như cái dịp nầy vừa hiện ra lúc nầy. Dù sao cũng khó lòng mà biết được trước đúng một hôm, và biết chắc chắn, không cần phải làm việc gì mạo hiểm, không cần phải hỏi han và tìm tòi gì, rằng ngày mai đúng vào giờ ấy, mụ già mà mình định ám hại sẽ ở nhà một mình.

Chú thích:
(1) Các đảo nhỏ trên sông Neva là nơi dân Petersburg khá giả sống qua muà hè trong những dinh thự xây rải rác trong các lùm cây. Ở đầu mũi lớn Vaxili sông Neva chia ra làm hai nhánh, một to, một nhỏ.

Chương 6

Phần I



Về sau Raxkonikov tình cờ được biết cụ thể hai vợ chồng lão tiểu thương mời mụ Lizaveta đến để làm gì.
Công việc họ bàn tính với nhau hết sức tầm thường, chẳng có gì đặc biệt cả. Số là có một gia đình mới dọn đến, vì cảnh sa sút phải bán một số áo quần và đồ dùng của phụ nữ. Đem ra chợ bán thì không được giá, cho nên họ muốn tìm người mua lại. Mụ Lizaveta vẫn thường làm những việc chạy hàng, mua đi bán lại như thế và khách hàng mụ cũng khá đông, vì mụ buôn bán rất thật thà và bao giờ cũng trả giá phải chăng, mụ đã nói bao nhiêu là mua bấy nhiêu, không mặc cả gì nữa. Nói chung thì mụ vốn ít lời và, như trên kia đã nói tính mụ vốn hiền lành và nhút nhát.
Nhưng gần đây Raxkonikov đã trở nên mê tín. Tâm trạng mê tín ấy mãi về sau nầy còn để lại những dấu vết hầu như không sao xoá nhoà được. Về sau, chàng cứ có khuynh hướng xem tất cả những việc xảy ra xung quanh vụ nầy như có một cái gì huyền bí, kỳ dị, dường như có những ảnh hưởng và những sự tình cờ đặc biệt can dự vào việc nầy. Từ dạo mùa dông, một sinh viên quen chàng tên là Pokorev, trước khi lên đường đi Kharkov, nhân một buổi chuyện trò có cho chàng biết địa chỉ mụ già Aliona Ivanovna để nhỡ khi chàng có cần cầm cố gì chăng. Trong một thời gian khá lâu chàng không đến đấy vì đang có chỗ dạy học, còn tạm sống được. Cách đây một tháng rưỡi chàng nhớ đến địa chỉ nầy, chàng có hai món có thể đem cầm được: chiếc đồng hồ cũ của cha chàng và chiếc nhẫn vàng nhỏ có giát mấy viên ngọc gì đo đỏ mà em chàng tặng chàng làm kỷ niệm khi chia tay. Chàng quyết định đem cầm chiếc nhẫn, khi đã tìm ra chỗ ở mụ già, mới thoạt trông thấy mụ chàng đã có một cảm giác ghê tởm không sao nén nổi tuy chưa biết gì lắm về mụ ta. Chàng cầm của mụ hai "tờ" và dọc đường về chàng ghé vào một quán rượu tồi tàn. Chàng gọi trà, ngồi xuống cạnh bàn và suy nghĩ mông lung. Một ý nghĩ kỳ dị nảy nở trong óc chàng, như một con gà con sẵn sàng chui ra khỏi vỏ, và khiến chàng hết sức bận tâm.
Hầu như ngay sát cạnh bàn chàng có một người sinh viên lạ mặt cùng ngồi với một viên sĩ quan trẻ tuổi, Họ vừa đánh bi-a xong và đang ngồi uống trà.
Bỗng nhiên Raxkonikov nghe người sinh viên nói chuyện với viên sĩ quan về mụ chủ hiệu cầm đồ.
Aliona Ivanovna, quả phụ của một viên thư lại bậc bảy, và cho hắn biết địa chỉ mụ ta. Chỉ riêng điều đó thôi Raxkonikov cũng đã lấy làm lạ: chàng vừa ở nhà mụ ấy ra, thế mà vừa đúng người ta lại nói chuyện về mụ ấy.
Dĩ nhiên đó là một sự tình cờ, nhưng bây giờ chàng không sao tẩy gột được một ấn tượng rất khác thường, và đến đây dường như người ta lại muốn tô đậm nét thêm ấn tượng đó: người sinh viên bỗng dưng bắt đầu nói cho bạn biết những chuyện ti mỉ về mụ Aliona Ivanovna ấy.
- Mụ ấy khá lắm, - người sinh viên nói, - đến mụ thì bao giờ cũng có tiền. Giàu sụ như một lão Do thái, mụ có thể đưa ra một lúc năm nghìn, nhưng cũng không coi khinh những đồ cầm chỉ đáng giá một rúp. Bọn chúng tớ đã có rất nhiều tay đến đấy. Có điều là mụ ta ghê gớm lắm.
Rồi hắn bắt đầu kể lể những là mụ ta độc ác ra sao, tính khí bất thường ra sao, những là chỉ cần quá hạn chuộc có một ngày cũng đã mất toi đồ cầm rồi. Mụ ta chỉ ứng cho được một phần tư giá tiền, đồ cầm, lấy lãi hàng tháng đến năm phân hay nhiều khi đến bảy phân nữa là khác v.v… Người sinh viên lại còn cao hứng lên nói ba hoa rằng mụ ta có một mụ em gái tên là Lizaveta, và mụ già bé loắt choắt, xấu như hủi ấy luôn tay đánh đập và hành hạ em gái như tôi mọi, xem như đứa con nít, mặc dầu mụ Lizaveta ít ra cũng cao đến thước bảy.
- Cũng là một của lạ đấy! - người sinh viên cười lớn.
Họ bắt đầu bàn tán về mụ Lizaveta. Người sinh viên có vẻ đặc biệt khoái trá khi nói đến mụ ta và cười luôn mồm, còn viên sĩ quan thì nghe rất chăm chú và bảo bạn nhắn mụ Lizaveta ấy đến vá đồ lót cho mình.
Raxkonikov không bỏ qua lấy một câu nào và biết được đủ mọi chuyện: mụ Lizaveta là em cùng cha khác mẹ của mụ già kia, năm nay đã ba mươi lăm tuổi. Mụ làm quần quật suốt ngày đêm cho chị, nấu nướng, giặt giũ khâu áo quần đem bán, đi lau sàn thuê cho người ta, bao nhiêu tiền công kiếm được đều đưa cả cho chị. Mụ không bao giờ dám nhận công việc gì của ai giao nếu không được mụ già cho phép. Mụ già nay đã làm xong di chúc, và mụ Lizaveta cũng có biết việc đó.
Theo tờ di chúc nầy thì mụ em không được hưởng lấy một xu nhỏ ngoài mấy thứ bàn ghế và đồ dùng lặt vặt; còn tiền bạc thì đều cúng cho một tu viện ở trấn N… để làm tiền phí tổn cầu nguyện thường xuyên cho vong linh mụ già. Mụ Lizaveta thuộc hạng tiểu thị dân chứ không phải thuộc giới viên chức. Đó là một mụ gái già xấu xí, người cao lêu đêu, đôi chân vòng kiềng dài ngoẵng, lúc nào cũng đi đôi giầy vẹt gót, ăn ở khá sạch sẽ. Nhưng điều làm cho người sinh viên ngạc nhiên và buồn cười hơn cả là mụ Lizaveta lúc nào cũng có mang.
- Thế sao cậu bảo mụ ta xấu xí lắm kia mà? - viên sĩ quan nhận xét.
- Ừ, nước da thì đen xạm như một thằng lính cải trang, nhưng cậu phải biết là mụ ta trông không đến nỗi. Khuôn mặt và đôi mắt mụ trông cũng phúc hậu. Rất phúc hậu nữa là khác. Chứng cớ là nhiều người ưa mụ lắm. Mụ ta hiền lành, dịu dàng, dễ tính, bảo gì mụ cũng nghe. Với lại mụ cười trông cũng khá xinh.
- Thế ra cậu cũng ưa mụ ta hẳn? - viên sĩ quan bật cười nói.
- Cái kỳ quặc của mụ cũng có chỗ hay hay. Thôi, để tớ nói cái nầy cho mà nghe. Tớ sẵn lòng giết phăng mụ già kia để cướp lấy của cải, và tớ cam đoan với cậu là lương tâm tớ sẽ không mảy may cắn rứt, - người sinh viên hăm hở nói thêm.
Viên sĩ quan lại cười phá lên. Raxkonikov giật mình. Thật là kỳ quặc…
- Nầy, cậu cho phép tớ hỏi một việc nghiêm chỉnh nhé, - người sinh viên hăng lên nói - vừa rồi cố nhiên là tớ nói đùa, nhưng cậu thử nghĩ mà xem: một đằng là một mụ già đần độn, vô nghĩa, độc ác, bệnh tật, chẳng có ích gì cho ai cả, trái lại còn có hại cho mọi người, sống cũng chẳng biết để làm gì, mà dù cứ để mặc cho mụ sống thì chỉ nay mai mụ cùng sẽ chết già chết bệnh, cậu hiểu không, cậu hiểu không nào?
- Ờ thì hiểu, - viên sĩ quan đáp, mắt chăm chú nhìn người bạn đang say sưa nói.
- Cậu nghe tiếp nhé. Mặt khác là những sức lực trẻ trung, cường tráng phải điêu đứng vì vô kế sinh nhai, mà những thứ ấy lại có hàng nghìn, và nơi nào cũng có! Hàng trăm, hàng nghìn việc tốt có thể khai trương và chỉnh đốn được nếu dùng số tiền mà mụ già dành cho tu viện có lẽ hàng trăm, hàng nghìn kiếp sống có thể được đưa vào con đường ngay thẳng; có thể cứu hàng chục gia đình thoát cảnh bần cùng, tan vỡ, truỵ lạc, chết chóc, thoát khỏi nhà thương bố thí chữa bệnh hoa liễu, - và muốn thế chỉ cần lấy số tiền của mụ ấy. Hãy giết mụ ấy đi, và đoạt lấy số của ấy để suốt đời phụng sự nhân loại và sự nghiệp chung: cậu nghĩ sao, hàng nghìn việc thiện há lại chẳng chuộc được một tội ác cỏn con duy nhất ấy sao? Chỉ hy sinh một tính mạng mà cứu được hàng nghìn sinh linh ra khỏi cảnh thối nát và tan rã. Một cái chết đổi lấy hàng trăm cái sống - đúng là một vấn đề số học chứ gì nữa! Vả lại trên cán cân của xã hội có nghĩa lý gì tính mạng của con mụ già ho lao, đần độn và độc ác ấy? Không hơn tinh mạng một con rận, một con gián, không bằng nữa là khác, vì mụ ta có hại hơn. Mụ ta hút máu hút mủ người khác; hôm nọ mụ ta nổi cơn ác khí lên cắn gần đứt ngón tay mụ Lizaveta đấy!
- Cố nhiên là mụ ta chẳng đáng được sống, - viên sĩ quan nói, - nhưng ở đây còn phải kể đến thiên nhiên.
- Chà, anh bạn, thiên nhiên thì người ta vẫn phải sửa chữa, uốn nắn đấy thôi, nếu không thì đành chết ngột trong đống thành kiến mất. Không làm như thế thì không thể nào cỏ lấy một vĩ nhân được. Người ta cứ nói: "Bổn phận, lương tâm", - tớ không có đả phá bổn phận, lương tâm gì đâu, - nhưng vấn đề là chúng ta quan niệm nó như thế nào? Khoan, để tớ hỏi cậu một câu nữa. Cậu nghe đây!
- Không, cậu khoan hẵng; để tớ hỏi cậu cái nầy.
- Nào thì hỏi đi.
- Nãy giờ cậu thuyết lý nghe hùng hồn lắm; bây giờ cậu thử nói cho tớ nghe xem: liệu cậu có thể "tự tay" giết mụ già hay không?
- Dĩ nhiên là không! Tớ nói là nói trên nguyên tắc công bình… Vấn đề ở đây không phải là cả nhân tớ…
- Thế còn theo tớ, nếu cậu đã không dám làm thì việc nầy cũng chẳng có gì dính líu đến cái công bình ấy! Ta chơi ván nữa đi!
Raxkonikov bồi hồi xúc động đến cực điểm. Dĩ nhiên đây là một trong những câu chuyện và những ý nghĩ hết sức thông thường, quen thuộc của lớp thanh mên lúc bấy giờ mà chàng đã được nghe nhiều lần, duy cách suy luận và đề tài có khác mà thôi. Nhưng tại sao vừa đúng vào lúc nầy chàng lại được nghe câu chuyện ấy và những ý nghĩ ấy, trong khi ngay trong đầu óc chàng cũng vừa nảy ra… "chính những ý nghĩ ấy". Và tại sao vừa đúng vào lúc nầy, khi chàng vừa ra khỏi nhà mụ già, mang theo mầm mống phôi thai của ý định kia, thì lại gặp ngay một người nói chuyện về mụ ấy? Đối với chàng sự tình cờ nầy bao giờ cũng vẫn có vẻ kỳ quái. Câu chuyện vô nghĩa nơi hàng quán ấy đã có một ảnh hưởng phi thường đối với chàng trong quá trình phát triển của sự việc về sau: hình như đây qua có một cái gì tiền định, một chỉ thị của số mệnh.
Từ Chợ hàng Rơm trở về, chàng buông mình rơi phịch xuống đi-văng và suốt một tiếng đồng hồ ngồi yên không nhúc nhích. Trong khi đó trời sập tối; chàng không có nến, mà cũng không hề thoáng nảy ra ý nghĩ thắp nến lên làm gì. Chàng không bao giờ nhớ lại được trong thời gian ấy chàng có nghĩ gì không. Cuối cùng, chàng lại thấy gây gây sốt như hồi hôm, chàng rùng mình và khoái trá nghĩ ra rằng trên chiếc đi-văng nầy còn có thể nằm được. Chỉ lát sau một giấc ngủ nặng như chì đã trùm lên chàng, dường như đè bẹp chàng xuống.
Chàng ngủ rất lâu và không mộng mị gì cả. Mười giờ sáng hôm sau, Naxtaxia đưa nước trà và bánh mì vào cho chàng, phải lay mãi chàng mới dậy. Lần nầy trà cũng lại loãng thếch và cũng pha trong chiếc ấm riêng của Naxtaxia.
- Cha chả là ngủ! - chị ta bực mình kêu lên, - cứ ngủ mãi thôi!
Chàng khó nhọc nhỏm dậy. Đầu chàng nhức buốt; chàng đứng xuống đất, đi một vòng quanh buồng rồi lại rơi phịch xuống đi-văng.
- Lại ngủ! - Naxtaxia kêu lên, - nhưng cậu ốm hay sao thế?
Chàng lặng thinh không đáp.
- Có muốn uống nước trà không?
- Thôi khoan hẵng, - chàng khó nhọc nói, đoạn nhắm mắt và nằm quay mặt vào tường.
- Dễ ốm thật rồi, - Naxtaxia nói đoạn quay ra.
Đến hai giờ trưa chị ta lại vào, và bưng liễn xúp. Chàng vẫn nằm như lúc nãy. Ấm nước trà vẫn còn nguyên. Naxtaxia giận dỗi lay chàng rất mạnh.
- Sao cậu cứ ngủ tràn ra thế! - chị ta ngán ngấm nhìn chàng quát. Chàng nhổm người lên rồi ngồi dậy, nhưng không nói gì với Naxtaxia, chỉ thẫn thờ nhìn xuống đất.
- Ốm hay sao vậy? - Naxtaxia hỏi, nhưng chàng vẫn lặng thinh.
- Cậu ra ngoài phố một chút thì hơn, - chị ta nói sau một lát im lặng, - đi ra một chút cho thoáng. Cậu ăn dăm miếng chứ?
- Sau hẵng hay, - chàng đáp, giọng yếu ớt, - thôi chị ra đi! - Đoạn chàng khoát tay một cái.
Naxtaxia đứng một lát nữa, ái ngại nhìn chàng rồi bỏ ra ngoài.
Mấy phút sau, chàng ngước mắt lên và nhìn hồi lâu ấm trà với liễn xúp. Rồi chàng với lấy khoanh bánh mì, cầm thìa và bắt đầu ăn.
Chàng ăn chẳng thấy ngon miệng chút nào, chỉ nhắp ba bốn thìa, như cái máy. Đầu đã đỡ nhứx. Ăn xong chàng lại gieo mình xuống đi-văng, nhưng không ngủ được nữa; chàng nằm sấp không động đậy, mặt úp vào gối. Chàng cứ mơ mộng liên miên, và những hình ảnh kỳ lạ cứ chập chờn nối tiếp theo nhau: chàng mơ thấy mình đang ở Ai Cập trên đất châu Phi, trong một khóm cây mọc giữa sa mạc. Đoàn lữ hành đang nghỉ ngơi, mấy con lạc đã nằm yên dưới bóng những cây cọ mọc um tùm quanh đấy, đoàn người đang ăn trưa. Còn chàng thì đang uống nước ở con suối chảy róc rách ngay sát bên cạnh. Khi trời mát rượi, và giòng nước trong xanh kỳ diệu cứ chảy róc rách trên lớp sỏi ngũ sắc, trên làn cát trắng tinh óng ánh lên từng chỗ như có lẫn bụi vàng… Bỗng có tiếng chuông đồng hồ vọng lại.
Chàng giật mình tỉnh dậy, ngẩng đầu lên nhìn ra cửa sổ ngẫm chừng xem sớm muộn ra sao bỗng hoàn toàn tỉnh táo đứng phắt dậy như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. Chàng rón rén đến mở hé cánh cửa trông ra cầu thang và bắt đầu nghe ngóng. Trống ngực chàng đập dữ dội Nhưng ngoài cầu thang im phăng phắc, như thế mọi người đều đang ngủ. Nghĩ rằng mình đã có thể ngủ li bì như vậy suốt từ hôm qua, chưa làm gì, chưa chuẩn bị gì cả, chàng thấy nó kỳ quái và vô lý quá. Thế mà, có lẽ vừa rồi chuông đồng hồ vừa đánh sáu giờ cũng nên… và chàng bỗng hối hả cuống quýt lên, không còn chút gì ngái ngủ, đờ đẫn như lúc nãy nữa. Vả chăng công việc sửa soạn cũng không có gì phiền phức. Chàng tập trung hết sức chú ý đề nhận rõ mọi việc và không quên lãng điều gì. Trống ngực chàng cứ đập thình thịch, mạnh đến nỗi chàng thấy khó thở. Trước hết cần phải làm cái quai rìu và khâu nó vào áo khoác, - việc nầy chỉ mất một phút.
Chàng lục đống áo quần nhét dưới gối tìm một chiếc sơ mi cũ đã rách bươm, từ lâu không giặt, xé ra một mảnh dài khoảng ba tấc và rộng khoảng năm phân.
Chàng gấp đôi mảnh giẻ lại, cởi chiếc áo rộng mùa hè bằng vải dày cộp đang mặc trên người đó là chiếc áo ngoài duy nhất của chàng và bắt đầu khâu hai đầu mảnh giẻ rách vào nách áo bên trái phía trong. Trong khi khâu, hai tay chàng run bắn lên, nhưng chàng vẫn trấn tĩnh được, và khi chàng mặc vào, bên ngoài không hề trông thấy đường chỉ. Kim chỉ chàng đã mua sẵn từ lâu và gói giấy cất trong ngăn kéo bàn. Cái quai vải ấy là một sáng kiến rất tinh xảo do chàng tự nghĩ ra: nó dùng đề đeo chiếc rìu. Vì ra đường không thể nào cầm rìu ở tay được, giấu dưới vạt áo thì vẫn phải lấy tay mà giữ, e người ta để ý mất. Còn như bây giờ có cái quai ấy rồi thì chỉ cần luồn cái cán rìu vào là nó sẽ nằm yên dưới nách áo, suốt dọc đường không phải lo lắng gì nữa. Thọc tay vào túi áo, chàng lại có thể giữ đầu cán rìu cho nó khỏi lúc lắc; cái áo khoác lại rộng thùng thình như cái bị, nên nhìn bên ngoài không thể nào nhận thấy chàng đang giữ một vật gì qua lần vải túi. Cái quai rìu nầy chàng cũng đã nghĩ ra từ hai tuần trước.
Xong đâu đấy, chàng thò mấy ngón tay vào cái khe hở nhỏ giữa chiếc đi-văng "Thổ nhĩ kỳ" của chàng và sàn gỗ, mọi moi ở góc trái một lúc và kéo ra cái "đồ cầm" đã soạn sẵn từ lâu và dấu ở đấy. Cái "đồ cầm" nầy chẳng phải là đồ cầm gì cả; đó chỉ là một miếng gỗ mỏng bào trơn kích thước vừa đúng như một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc. Mảnh gỗ nầy một hôm đang đi chơi chàng tình cờ bắt được trong một cái sân kế bên một xưởng thợ. Về sau chàng ghép thêm một miếng sắt mỏng và trơn nhỏ hơn mảnh gỗ kia một chút - có lẽ là một mảnh sắt vụn ở một đồ dùng gì rời ra, - mà chàng nhặt được ở ngoài đường, cũng vào hôm ấy. Chàng ghép miếng sắt ấy vào miếng gỗ và lấy chỉ buộc lại thật chặt; rồi chàng lấy một tờ giấy trắng thật sạch gói lại cẩn thận, trông rất đẹp mắt, và chằng giây rõ kỹ cho thật khó mở. Như vậy là đề làm xao lãng sự chú ý của mụ già và khi mụ ta đang hí hoáy tháo nút dây có thể chọn lúc thuận tiện. Miếng sắt mỏng ghép vào là để cho thêm nặng, sợ mụ già mới nhấc gói "đồ cầm" lên đã có thể biết ngay nó bằng gỗ. Tất cả những thứ ấy chàng cất dưới đi-văng chờ đến khi cần. Chàng vừa cầm cái gói lên thì bỗng nhiên ở bên ngoài có ai kêu:
- Sáu giờ từ lâu rồi còn gì!
- Trời ơi! lâu rồi ư?
Chàng nhảy chồm ra cửa, nghe ngóng một lúc, vơ lấy mũ và bước xuống ba mươi bậc thang gác một cách thận trọng, lặng lẽ, như một con mèo. Bây giờ còn phải làm cái việc quan trọng nhất: lấy trộm cái rìu trong nhà bếp. Về vấn đề phải dùng rìu thì chàng đã giải quyết từ lâu. Chàng còn có một con dao xếp; nhưng chàng không dám tin vào con dao và nhất là không dám tin ở sức mình, cho nên chàng đã dứt khoát chọn cái rìu.
Nhân thể cũng xin nhận xét qua một đặc điểm chung cho tất cả những điều mà chàng đã quyết định dứt khoát trong việc nầy. Những quyết định ấy có một thuộc tính kỳ dị: nó càng dứt khoát thì chàng lại càng thấy ngay là nó quái gở, vô lý. Tuy trong tâm khám có sự dằng co ray rứt dữ dội, suốt thời gian ấy chàng chưa bao giờ, dù chỉ một giây lát, có thể tin rằng những ý định của mình có thể thực hiện được.
Và dù đến một lúc nào đó mọi việc đều đã được suy tính kỹ càng từng ly từng tí và đã được quyết định dứt khoát không còn nghi ngại phân vân gì nữa, thì có lẽ chàng cũng vẫn từ bỏ hết những ý định ấy như một cái gì điên rồ, quái gở và không thể có được. Thế nhưng những điều chưa giải quyết và những nỗi ngờ vực vẫn còn cả mớ. Còn như làm thế nào để lấy được cái rìu thì đó là một điều vặt vãnh không hề khiến chàng lo ngại, bởi vì không còn có gì dễ hơn nữa. Số là Naxtaxia, nhất là đến tối, cứ vắng nhà luôn: chị ta cứ chạy sang nhà hàng xóm hay sang cửa hiệu bên cạnh, cửa bếp để mở toang. Cũng chỉ vì thế mà bà chủ tiếng bấc tiếng chì với chị. Như vậy chỉ cần chọn lúc lẻn vào bếp và lấy cái rìu rồi một giờ sau khi mọi việc đã xong xuôi trở vào để lại chỗ cũ. Nhưng cũng có những chỗ phân vân: ví thử một giờ sau chàng đem rìu trả lại thì vừa đúng khi Naxtaxia đã trở về. Lẽ dĩ nhiên phải đi thẳng lên buồng đợi khi chị ta lại đi ra ngoài. Thế nhưng nếu lúc ấy chị ta lại tìm đến rìu và kêu toáng lên thì tất người ta sẽ sinh nghi hay ít nhất cũng là một dịp để người ta sinh nghi.
Nhưng đó vẫn là những điều vặt vãnh mà chàng chẳng thèm nghĩ đến nữa, vả chăng cũng không có thì giờ mà nghĩ. Chàng nghĩ đến cái chính, còn những điều vặt vãnh thì chàng gác lại cho đến khi nào chàng đã quyết định dứt khoát. Nhưng điều nầy thì lại có vẻ như không sao thực hiện được. Hoặc ít nhất là chàng cảm thấy thế. Chẳng hạn, chàng không thể nào tưởng tượng được rằng đến một lúc nào đó chàng sẽ nghĩ xong, sẽ đứng dậy và đi đến đấy… Ngay như chuyến đi "duyệt thử" vừa qua tức là chuyến đến thăm với ý định xem xét địa điểm lần cuối cùng chàng cũng chỉ "thử làm" qua thôi, chứ không phải định làm thật. Chàng chỉ tự nhủ "Nào, ta sẽ đi xem thử một chuyến, chứ cứ "mơ tưởng" mãi thế nầy sao?" - rồi lập tức không sao chịu được nữa, chàng đã vứt bỏ hết, tự mình thấy ghê tởm mình. Thế nhưng trong khi đó hình như chàng đã phân tích và giải quyết xong xuôi mặt luân lý của vấn đề: biện luận của chàng đã được mài sắc lên như lưỡi dao cạo và trong thâm tâm chàng đã không tìm thấy những lời phản bác có ý thức nữa. Rồi ngày vừa qua, cái ngày đã đến một cách bất ngờ như vậy và đã quyết định ngay mọi sự trong một lúc, đã tác động đến chàng một cách gần như máy móc: cứ như thể có ai cầm tay chàng lôi đi một cách không sao cưỡng nổi, một cách mù quáng, với một sức mạnh siêu tự nhiên, không để cho chàng cãi lại. Cứ như thể chàng đã bị vướng vạt áo vào guồng máy, và guồng máy cứ thế mà cuốn luôn cả người chàng vào. Lúc đầu - kể cũng đã lâu lắm, - có một vấn đề khiến chảng bận tâm: tại sao tất cả các vụ án mạng đều bị khám phá một cách dễ dàng và dấu vết của hầu hết các thủ phạm đều hiện ra một cách lộ liễu như vậy? Chàng dần dà đi đến những kết luận phong phú và kỳ lạ, và theo ý chàng thì như thế không hẳn là vì thủ phạm không có điều kiện vật chất để che giấu tội ác: nguyên nhân chủ yếu nằm ngay trong tâm lý thủ phạm; bản thân kẻ giết người, hầu như bất cứ kẻ nào cũng vậy, khi nhúng tay vào tội ác thì nghị lực và lý trí suy sụp hẳn đi, nhường chỗ cho một sự nhẹ dạ kỳ quặc như của trẻ con, mà lại đúng vào lúc cần minh mẫn và thận trọng hơn cả. Chàng nghiệm ra rằng tình trạng rối trí và mất nghị lực đó xâm nhập người ta như một cơn bệnh, phát triển dần và lên đến cực điểm trước khi người ta nhúng tay vào tội ác ít lâu; nó giữ nguyên mức độ ấy trong khi diễn ra tội ác và tiếp tục kéo dài một thời gian sau, dài ngắn tuỳ từng người; rồi cũng qua đi như bất cứ một cơn bệnh nào. Còn vấn đề phải chăng bệnh tật đẻ ra tội ác, hay chính tội ác, do ban chất đặc biệt của nó, bao giờ cùng đi đối với một tình trạng giống như bệnh tật, thì chàng càm thấy mình chưa đủ sức giải quyết.
Đi đến những kết luận ấy, chàng tin chắc rằng riêng với chàng, trong việc nầy sẽ không có những sự đảo lộn bệnh tật như thế, rằng chàng sẽ giữ vững được lý trí và nghị lực suốt trong thời gian thực hiện ý định, chỉ vì một lý do duy nhất là việc chàng định làm "không phải là tội ác"… Ta hãy bỏ qua cả cái quá trình đã đưa chàng đến quyết định cuối cùng; cứ thế nầy chúng ta cũng đã đi vượt lên trước nhiều quá rồi… Chỉ xin nói thêm rằng những trở ngại thực tế, thuần tuý vật chất nói chung chỉ đóng một vai trò hết sức thứ yếu "Chỉ cần giữ vững được nghị lực và, lý trí, là sẽ lần lượt khắc phục được tất cả khi cần phải nghiên cứu chi ly việc nầy…" nhưng chàng vẫn chưa bắt tay vào việc, chàng vẫn không tin chút nào rằng mình đã quyết định dứt khoát, và khi giờ đã điểm, mọi việc đâm ra có vẻ lạ lùng, hú hoạ và hầu như bất ngờ nữa là khác.
Một việc hết sức nhỏ nhặt đã dồn chàng vào thế bí ngay từ khi chàng chưa xuống hết cầu thang. Xuống đến ngang căn nhà bếp của bà chủ trọ cửa bao giờ cũng mở toang, chàng thận trọng liếc mắt nhìn vào xem thử trong khi Naxtaxia đi vắng bà chủ có vào đấy không, và nếu không vào thì cửa phòng bà ta có đóng kỹ không, nhỡ may bà ta có nhìn ra khi chàng vào bếp lấy rìu chăng. Nhưng chàng kinh ngạc biết chừng nào khi chợt thấy rằng lần nầy không những Naxtaxia ở nhà, đang ngồi trong bếp, mà lại còn đang làm việc nữa: chị ta đang lấy áo quần đựng trong giỏ giặt ra treo lên dây. Trông thấy chàng, Naxtaxia ngừng tay, quay lại nhìn theo chàng trong khi chàng đi qua. Chàng nhìn lảng đi nơi khác và cứ đi ngang như thể không trông thấy gì. Nhưng thế là việc hỏng bét: không có rìu! Chàng choáng hẳn người đi "Mình căn cứ vào đâu, - chàng ngẫm nghĩ khi xuống đến cổng - mình căn cứ vào đâu mà trù tính rằng đúng vào lúc ấy chị ta sẽ đi vắng" "Tại sao, tại sao, tại sao mình lại tin chắc như thế?" Chàng lặng người đi thậm chí còn thấy nhục nữa. Chàng muốn tự bêu riếu cho hả giận… Một nỗi hằn học u mê, thú vật sôi sục trong người chàng.
Chàng ngần ngừ dừng chân dưới vòm cổng. Đi ra phố lấy lệ thì chàng thấy khó chịu quá; trở về buồng lại càng khó chịu hơn. "Thế là lỡ mất một dịp may không còn bao giờ tìm lại được nữa?" - Chàng lẩm bẩm trong khi đứng tần ngần dưới cổng, ngay trước căn buồng tối om của người gác cũng đang mở cửa. Bỗng chàng giật mình. Trong căn buồng của người gác cổng cách chàng hai bước, dưới một chiếc ghế dài đặt ở bên phải, một ánh thép loang loáng lọt vào mắt chàng… Chàng đưa mắt nhìn quanh - không có bóng người nào.
Chàng rón rén đến gần căn buồng, bước xuống hai bậc thang và cất tiếng yếu ớt gọi người gác cổng "Đúng thế, đi vắng rồi? Chắc đi đâu gần đây thôi, có lẽ ra quán, vì cửa vẫn mở toang". Chàng nhảy chồm về phía cái rìu đặt dưới gầm ghế giữa hai thanh củi và rút nó ra. Chàng lập tức đút cán rìu vào cái quai vải, đút hai tay vào túi áo và ra khỏi buồng. Không ai trông thấy cả! "Lý trí không được việc thì ma quỷ làm thay" - chàng nghĩ thầm, miệng nhoẻn một nụ cười quái gở.
Việc vừa xảy ra khiến chàng phấn khởi lạ thường. Chàng đi dọc đường, im lặng và khoan thai, không hấp tấp đề khỏi bị nghi ngờ. Chàng ít nhìn những người qua đường, thậm chí còn cố gắng không nhìn chút nào vào mặt họ và làm sao đừng ai để ý tới mình.
Đến đây chàng sực nhớ tới cái mũ dạ. "Trời ơi! Tiền đã có từ ba hôm nay, thế mà cũng không đổi lấy được một cái mũ cát két?". Một câu chửi rủa từ trong lòng chàng vụt thốt ra.
Tình cờ liếc mắt nhìn vào một cửa hiệu, chàng thấy chiếc đồng hồ treo tường chỉ bảy giờ mười phút.
Vừa phải đi nhanh lên cho kịp lại vừa phải đi vòng sang phía bên kia rồi quay trở lại cho khỏi lộ hướng…
Trước kia, những khi tưởng tượng đến những việc nầy, cũng có lúc chàng nghĩ rằng mình sẽ sợ lắm! Nhưng đến bây giờ thì chàng chẳng thấy sợ mấy, không sợ chút nào nữa là khác. Thậm chí lúc nầy chàng còn nghĩ đến những chuyện ở đâu đâu, có điều là những ý nghĩ ấy mới hiện lên đã vụt biến mất. Đi ngang công viên Yuxupov chàng lại còn nghĩ khá kỹ đến việc xây những vòi phun nước thật cao: những vòi phun như thế sẽ làm cho không khí ở các quảng trường mát mẻ biết chừng nào! Chàng dần dần đi đến chỗ nghĩ rằng giá mở rộng công viên mùa hè ra khắp quảng trường Chiến thắng hoặc hơn nữa, nối liền nó với công viên Mikhailovxki, thì đó sẽ là một công trình đẹp đẽ và hết sức có ích cho thành phố. Đến đây chàng bỗng lưu tâm đến một vấn đề: tại sao trong tất cả các thành phố lớn người ta lại cứ ở vào những khu vực chẳng có vườn hoa, chẳng có vòi phun nước, ở những nơi bẩn thỉu hôi hám đầy rẫy những rác rưởi thối tha. Như thế không phải chỉ vì hoàn cảnh ép buộc, mà còn có một khuynh hướng đặc biệt gì đây nữa. Chàng nhớ lại những buổi đi dạo ở khu Chợ hàng Rơm, và phút chốc trở về với hiện tại. "Nhảm nhí quá, - chàng nghĩ thầm. - Không, thà đừng nghĩ gì hết còn hơn".
"Chắc hẳn ý nghĩ của những kẻ bị đưa ra pháp trường cũng bấu víu vào tất cả những đồ vật gặp trên đường đi như thế" - ý nghĩ ấy thoáng nẩy trong óc chàng, nhưng chỉ vụt qua như một tia chớp, chính chàng hối hả dập tắt nó đi. - Nhưng đã gần đến nơi rồi, kia là toà nhà, kia là cái cổng. Bỗng đâu đây có một tiếng chuông đồng hồ đơn độc: "Sao, bảy giờ rưỡi rồi Chả nhẽ; chắc cái đồng hồ ấy chạy nhanh quá!".
May thay cho chàng, khi đến cổng mọi việc lại diễn ra một cách êm thấm. Hơn nữa, dường như cố ý, vừa lúc ấy trước mặt có một chiếc xe giàn chở rạ to tướng đi vào cổng, che chàng khuất hẳn trong suốt thời gian chàng đi qua vòm cổng, và chiếc xe vừa vào đến sân chàng đã vụt lách mình sang phải. Ở bên kia chiếc xe chở rạ nghe có tiếng mấy người quát tháo, cãi vã, nhưng không ai trông thấy chàng và không thấy ai đi ngược lại phía chàng cả. Lúc bấy giờ trong số các cửa sổ trông ra khoảng sân rộng thênh thang ấy có nhiều cửa sổ đang mở, nhưng chàng không ngẩng đầu lên - chàng không đủ sức. Thang gác dẫn lên buồng mụ già gần ngang cạnh cổng, chỉ rẽ sang phải là đến. Chàng đã bước lên cầu thang…
Chàng thở lại cho đều đặn và lấy tay áp vào ***g ngực đang đánh thình thình, nhân thể nắn lại cây rìu một lần nữa rồi thận trọng và im lặng bước lên thang gác, phút phút lại lắng tai nghe ngóng. Nhưng ngay ở cầu thang lúc nầy cũng vắng tanh: các cửa phòng đều đóng kín, chàng không gập người nào cả. Ở gác hai quả có một phòng bỏ trống cứ mở toang, trong có một tốp thợ sơn đang làm việc, nhưng họ không nhìn ra. Chàng dừng lại nghĩ ngợi một lát rồi tiếp tục đi. "Dĩ nhiên giá không có họ ở đây thì tốt hơn; nhưng… họ cách phòng kia những hai tầng. Nhưng đây đã đến gác tư rồi, đây là, cánh cửa ấy, và đây là gian phòng đối diện bỏ trống. Ở gác ba, gian buồng nằm ngay dưới buồng mụ già cũng bỏ trống: tấm thép ghim vào cửa đã cất đi, như vậy nghĩa là họ đã dọn nhà đi nơi khác!"
Raxkonikov thấy nghẹt thở. Một ý nghĩ vụt thoáng qua óc chàng: "Hay ta về quách?".
Nhưng chàng không tự trả lời và bắt đầu lắng tai nghe xem trong phòng mụ già có động tĩnh gì không: trong phòng vẫn im phăng phắc. Chàng lại hướng về phía dưới cầu thang lắng nghe hồi lâu, thật chăm chú… Rồi chàng đưa mắt nhìn quanh một lần cuối cùng, xốc lại áo khoác và một lần nữa nắn lại cây rìu giắt vào quai vải. "Mặt mình có tái… quá không? - chàng nghĩ - mình có hồi hộp quá không? Mụ ấy đa nghi lắm… hay là đợi một lát nữa cho tim bớt…?".
Nhưng tim chàng không hề bớt đập. Trái lại, như cố tình, nó càng đập mạnh hơn, mạnh hơn lên mãi…
Chàng không ghìm được nữa, chậm rãi giơ tay lên cầm dây chuông và giật một cái. Nửa phút sau chàng lại giật lần nữa, mạnh hơn một chút.
Không có tiếng thưa: Giật chuông nữa cũng vô ích: mà lại không tự nhiên. Dĩ nhiên mụ già đang ở nhà, nhưng tính mụ vốn đa nghi, và chắc hẳn mụ chỉ có một mình. Chàng biết được ít nhiều những thói quen của mụ… và một lần nữa chàng áp tai vào cánh cửa. Không biết vì giác quan của chàng đã trở nên nhạy bén đến thế cũng khó lòng mà giả thiết như vậy hay vì những tiếng động ấy nghe quá rõ, nhưng chàng chợt nghe dường như có tiếng một bàn tay thận trọng nắm lấy quả nắm và như có cả tiếng áo dài chạm sột soạt vào cánh cửa. Có ai lặng lẽ đứng sát ngay ở ổ khoá và cũng như chàng, đang áp tai vào cánh cửa nghe ngóng từ bên trong…
Chàng cố ý cựa quậy và lẩm bẩm một câu gì đề mụ già khỏi nghĩ là chàng có ý lén lút; rồi chàng kéo chuông lần nữa, nhưng kéo khẽ, từ tốn và không lộ vẻ gì sốt ruột. Về sau nhớ lại những giây phút nầy, chàng thấy nó đã vĩnh viễn khắc sâu vào trí nhớ của chàng thành từng nét rõ mồn một; chàng không hiểu nổi làm sao chàng lại có thể xảo quyệt đến thế, nhất là trong khi trí thông minh của chàng cứ mờ đi từng lúc, còn thân thể thì hầu như đã mất hết khả năng cảm giác… Một lát sau nghe có tiếng rút chốt cài cửa…

7.

Cũng như lần trước, cánh cửa hé mở ra thành một khe hở nhỏ xíu, và từ trong bóng tối, hai con mắt sắc lại ngờ vực soi mói chàng. Đến đây Raxkonikov mất bình tĩnh và suýt phạm một sai lầm lớn.
Sợ mụ già đâm hoảng vì thấy chỉ có mình mụ với chàng, và không dám trông mong rằng dáng vẻ của mình sẽ làm cho mụ yên tâm, chàng nắm lấy cánh cửa kéo về phía mình đề cho mụ già không thể nghĩ đến chuyện đóng lại nữa. Thấy thế, mụ ta không kéo cánh cửa trở lại, nhưng cũng không buông quả nắm ra, thành thử suýt bị chàng lôi ra ngoài cầu thang cùng với cánh cửa. Còn Raxkonikov thấy mụ già đứng chắn ngang cửa không cho chàng vào, liền bước thẳng về phía mụ ta. Mụ ta hoảng sợ nhảy lùi lại, toan nói gì nhưng dường như líu lưỡi lại không nói được, chỉ giương to mắt nhìn chàng.
- Chào bà Aliona Ivanovna, - chàng lên tiếng, cố nói cho thật ung dung, nhưng giọng nói không chịu tuân theo ý chàng, cứ run lên và đứt từng quãng, - Tôi đem… một thứ… đến cầm… thôi tốt hơn ta hãy vào trong kia… cho sáng… - Nói đoạn chàng cứ để mụ đứng, đấy đi xồng xộc vào phòng, không đợi mời mọc gì cả. Mụ già tất tả chạy theo chàng; lưỡi mụ đã đỡ líu lại.
- Trời? Ông muốn gì?… Ông là ai?… Ông hỏi có việc gì?
- Xin lỗi bà… tôi là chỗ quen biết đây mà… Raxkonikov… đây, tôi mang đồ lại cầm như đã hứa lần trước… - Chàng đưa gói giấy ra cho mụ. Mụ già liếc nhìn qua gói giấy rồi lập tức đưa mắt nhìn thẳng vào mắt người khách đường đột. Mụ nhìn chăm chú, đôi mắt hằn học và hồ nghi. Một phút trôi qua; chàng còn có cảm giác là trong đôi mắt mụ có một vẻ gì như giễu cợt tựa hồ mụ đã đoán biết được mọi việc. Chàng cảm thấy mình bối rối, gần như hoảng sợ, hoảng sợ đến nỗi nếu mụ cứ lặng thinh nhìn chàng như thế chừng nửa phút nữa thì chàng sẽ bỏ chạy mất.
- Ơ kìa, sao bà lại cứ nhìn tôi như thể không nhận ra ấy? - chàng bỗng lên tiếng, giọng cũng có vẻ hằn học. - Bà có bằng lòng thì lấy, không thì thôi, tôi đi chỗ khác, tôi đang vội đây.
Chính chàng cùng không nghĩ là mình sẽ nói như thế; mấy câu ấy cứ thế tự nó tuôn ra.
Mụ già trấn tĩnh lại, và hình như giọng nói quả quyết của ông khách đã làm cho mụ yên tâm.
- Ồ, thế như cậu đến bất thình lình quá - cái gì thế - mụ nhìn gói giấy hỏi.
- Chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc, lần trước tôi đã nói qua.
Mụ chìa tay ra.
- Nhưng sao cậu xanh thế? Tay cậu run kìa? Cậu sợ hay sao?
- Sốt - chàng đáp xẵng - Không có gì ăn thì gì mà chả xanh… - chàng phều phào nói thêm.
Sức lực chàng lại tiêu tan đâu mất hết. Nhưng câu trả lời có vẻ có lý; mụ già cầm lấy gói giấy.
- Đó là chiếc hộp thuốc lá… bằng bạc… bà xem thử.
- Xem chừng cứ như không phải bằng bạc… Chà, buộc gì mà kỹ quá thế?
Trong khi hí hoáy tháo nút dây và quay mặt về phía ánh sáng, cạnh cửa sổ, các cửa sổ trong phòng mụ đều đóng kín, tuy khí trời ngột ngạt mụ để chàng đứng đấy và quay lưng về phía chàng trong vài giây. Chàng mở cúc áo khoác và tháo cái rìu ra khỏi quai, nhưng chưa rút hẳn ra ngoài, chỉ cầm ở tay phải dưới lấn áo khoác Hai tay chàng bủn rủn, chính chàng cảm thấy chúng mỗi lúc một tê dại và cứng đờ ra. Chàng sợ sẽ buột tay đánh rơi cây rìu… bỗng chàng thấy đầu óc choáng váng lên.
- Chà, buộc gì mà rắc rối thế! - mự già bực bội kêu lên và nhích về phía chàng.
Không thể bỏ lỡ lấy một giây nào nữa. Chàng rút hẳn rìu ra, cầm cả hai tay giơ cao lên, người như tê dại hẳn đi, và, hầu như không phải ra sức, như một cái máy, chàng bổ sống rìu xuống đầu mụ. Chàng dường như đã kiệt sức. Nhưng ngay sau khi chàng bổ rìu xuống rồi thì sức lực vụt trở lại, cũng như mọi khi, đầu mụ già để trần. Mái tóc thưa lốm đốm bạc xức dầu nhầy nhụa tết thành bím đuôi chuột và cài một miếng lược sừng gãy nhô lên ở phía trên gáy. Nhát rìu trúng ngay giữa đỉnh sọ, một phần cũng vì người mụ vốn thấp bé. Mụ ta kêu lên một tiếng, nhưng rất khẽ, và bỗng ngồi thụp hẳn xuống sàn nhà, tuy cũng còn đủ thì giờ đưa hai tay lên đầu.
Một tay mụ hãy còn giữ gói "đồ cầm". Raxkonikov liền lấy hết sức giáng sống rìu xuống một lần nữa, rồi một lần thứ ba, cũng đều nhằm đúng vào đỉnh sọ.
Máu tuôn ra như từ một cái cốc đổ, và cái thân hình ngã sấp xuống. Chàng lùi lại một bước để cho mụ ngã và lập tức cúi xuống sát mặt mụ. Mụ già đã chết. Hai con ngươi mở trừng trừng như muốn vọt ra khỏi hốc mắt, cái trán và khắp khuôn mặt đều nhăn nheo và co rúm lại.
Chàng đặt rìu xuống sàn, bên cạnh xác chết, và lập tức thọc tay vào túi áo bên phải của mụ, cố cho máu đừng dây vào tay. Túi áo bên phải là tút đựng chìa khoá của mụ: lần trước chàng thấy mụ rút chìa khóa ở đấy ra; chàng hoàn toàn tính táo, không hề cảm thấy choáng váng hay chóng mặt gì nữa, nhưng tay chàng vẫn run. Về sau chàng nhớ lại là lúc ấy chàng rất chăm chú, thận trọng, luôn có ý tứ giữ cho tay đừng dây máu… Chàng rút chìa khoá ra được ngay; cũng như trước, bao nhiêu chìa khoá đều xâu thành chùm vào một cái khâu bằng thép. Chàng lập tức cầm chùm chìa khoá chạy sang buồng ngủ. Đó là một căn buồng rất nhỏ, với một chiếc trang thờ to tướng bày đầy tượng thánh. Sát bức tường đối diện kê một cái giường lớn rất sạch trải chiếc chăn bông, áo chăn làm bằng nhiều mảnh lụa vụn khâu lại. Ở tường bên kê một chiếc tủ ngăn. Thật là kỳ lạ: ngay khi chàng vừa mới bắt đầu thò chìa khoá vào ngăn tủ, vừa nghe thấy tiếng lách cách của chùm chìa khoá chạm vào nhau, chàng bỗng thấy rùng mình. Chàng lại nảy ra ý muốn vứt hết và bỏ đi. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua trong giây lát: bây giờ mà bỏ đi thì đã muộn. Chàng còn đang cười nhạt chế nhạo mình, thì bỗng nhiên một ý nghĩ hãi hùng khác lại đập mạnh vào dầu chàng. Chàng bỗng mường tượng như mụ già hãy còn sống và có thể tỉnh dậy. Chàng bỏ chùm chìa khoá vào cái tủ ngăn ở đấy, chạy trở ra phòng ngoài, nơi cái xác đang nằm sóng soài cầm lấy rìu và một lần nữa giơ cao lên trên người mụ già, nhưng không bồ xuống. Không còn hồ nghi gì nữa, mụ chết thật rồi. Cúi xuống nhìn sát hơn nữa vào xác chết, chàng thấy rất rõ ràng cái sọ đã bị bổ toác ra, xương đỉnh đầu còn lệch đi một chút nửa là khác. Chàng toan lấy ngón tay sờ thử, nhưng rồi lại rụt tay về. Không sờ cũng đã đủ rõ chán. Trong khi đó máu đã chảy loang ra thành một vũng. Chàng chợt thấy trên cổ mụ già có sợi dây; chàng kéo ra, nhưng sợi dây bền lắm không sao giật đứt được; hơn nữa nó lại thấm máu. Chàng thứ kéo sợi dây qua đầu, nhưng có cái gì vướng chặt không kéo được. Chàng sốt ruột toan giơ rìu lên chặt đứt sợi dây ngay trên người mụ già, nhưng rồi không dám, và sau mấy phút hì hục vất vả làm dây bẩn cả tay lẫn rìu, chàng cưa đứt được sợi dây, không cần chạm vào người mụ già, và lấy nó ra; quả chàng không nhầm: đó là một sợi dây đeo bóp đựng tiền. Ở đầu dây có hai cái thánh giá, một bằng gỗ huyền bá, một bằng đồng, ngoài ra còn có một bức tượng nhỏ tráng men. Bên cạnh các thứ đó là một cái bóp nhô bằng da lộc cáu ghét có khoá bấm bằng thép. Cái bóp nhét tiền chật cứng;
Raxkonikov đút nó vào túi, không mở ra xem, còn hai cái thánh giá thì chàng vứt lên ngực mụ già, và vẫn không quên cầm lấy chiếc rìu, chàng lại chạy trở vào buồng ngủ.
Chàng vội vã cuống cuồng lên, bắt đầu hí hoáy mở khoá. Nhưng không hiểu sao mở mãi chẳng ra: chìa khoá không vặn được. Không phải vì tay chàng run mạnh đến thế, nhưng chàng cứ lầm lẫn mãi: chẳng hạn có khi chàng cũng thấy là chìa nầy không phải, thế nhưng cứ đút vào. Chàng chợt nhớ lại và suy ra rằng cái chìa khoá to, đầu có răng cưa chắc hắn không phải chìa mở tủ ngăn lần trước chàng cũng đã nghĩ như thế mà phải dùng để mở một cái tráp nào đấy, và cái tráp ấy mới chính là nơi mụ già cất giấu tất cả của cải của mụ. Chàng rời chiếc tủ ngăn và lập tức bò xuống gầm giường, vì biết rằng các bà già thường cất tráp ở đấy Quá nhiên dưới gầm giường có một cái rương khá to chiều dài đến hơn bảy tấc, nắp khum lên, bọc da để đỏ nẹp từng hàng đinh thép. Cái chìa khoá răng cưa vừa khớp với ổ khoá. Chàng mở ra. Phía trên, dưới một tấm vải trắng, có một, chiếc áo choàng lông thỏ lót vải đỏ dưới nữa có một chiếc áo dài lụa, rồi đến một tấm khăn san. Có thể tưởng chừng như cái rương đựng toàn quần áo. Trước hết Raxkonikov chùi hai bàn tay vấy máu lên lần vải đỏ lót áo lông. "Vải đỏ, thế thì chùi máu vào đây, sẽ khó thấy hơn" - chàng suy nghĩ, rồi bỗng sực tỉnh: "Trời ơi! Ta điên rồi hay sao thế nầy" - chàng kinh hãi nghĩ thầm.
Nhưng chàng vừa nhấc mấy thứ quần áo lên thì từ dưới chiếc áo lông buột ra một cái đồng hồ vàng. Chàng lập tức xáo hết lên. Quả nhiên, giữa các lớp áo quần đều có những đồ bằng vàng - chắc đều là những đồ cầm không chuộc lại, - vòng, xuyến, trâm, dây chuyền, hoa tai và nhiều thứ khác. Có cái đựng trong hộp, có cái chỉ gói giấy báo, nhưng gói rất cẩn thận bằng hai lần giấy, ngoài lại buộc dây rất kỹ. Không chần chừ lấy một giây, chàng bắt đầu đút hết thứ nầy đến thứ khác, vào túi quần và túi áo khoác, không chọn lựa không mở ra xem. Nhưng chàng chưa có thì giờ bỏ túi được bao nhiêu…
Bỗng nghe có tiếng chân bước ở phòng ngoài, nơi có xác mụ già. Chàng ngừng tay và lịm đi. Nhưng mọi vật vẫn im lặng, chắc chàng mê sảng. Chợt chàng nghe rõ một tiếng kêu khe khẽ, hay dường như có ai kêu lên một tiếng ấm ức rồi ngưng bặt. Xung quanh lại im phăng phắc trong khoảng một hai phút. Chàng ngồi xổm bên cạnh chiếc rương và chờ đợi, hơi thở rối loạn, nhưng bỗng nhiên chàng vụt chồm dậy, vơ lấy rìu và chạy ra.
Mụ Lizaveta đang đứng ở giữa phòng, tay cầm một gói vải lớn, sững sờ nhìn xác mụ chị, mặt trắng nhợt như tờ giấy và dường như không có đủ sức để kêu lên nữa. Trông thấy chàng chạy ra, mụ run lên cầm cập và mặt mụ như rúm ró lại; mụ giơ tay lên bưng lấy miệng, nhưng vẫn không kêu, rồi từ từ đi thụt lùi về phía góc phòng, lặng lẽ giương mắt nhìn chàng trừng trừng, như thể không còn đủ hơi sức mà kêu nữa. Raxkonikov cầm rìu lao tới; môi mụ mếu xệch đi như môi của trẻ nhỏ khi kinh hãi nhìn chăm chăm vào vật gì đang làm chúng sợ và sắp sửa khóc oà lên. Người đàn bà khốn nạn kia ngờ nghệch và hoáng hốt đến nỗi thậm chí cũng không còn đủ trí khôn để đưa hai tay lên ngang mặt mà đỡ, mặc dầu đó là cứ chỉ tự nhiên và tất yếu nhất trong giây phút nầy, vì cây rìu đang giơ lên ngay phía trên mặt, mụ chỉ hơi nhấc tay trái lên cách mặt một quãng và từ từ giơ về ph** trước như để ẩy chàng ra. Lưỡi rìu dáng thẳng xuống sọ và bổ đứt cả phần phía trên trán, gần sát đến đỉnh đầu. Thế là mụ ngã nhào xuống; Raxkonikov hoàn toàn rối trí. Chàng vớ lấy cái tay nải của mụ, rồi lại bỏ xuống và chạy ra phòng ngoài.
Chàng mỗi lúc một thêm hoảng hốt, nhất là sau vụ giết người thứ hai hoàn toàn bất ngờ nầy. Chàng muốn trốn khỏi nơi nầy cho thật nhanh. Và ví thử lúc ấy chàng có đủ sức nhìn và suy luận một cách đúng đắn hơn, ví thử chàng có thể thấy hết được cái tình cảnh khó khăn, tuyệt vọng, quái gở và vô lý của mình, hiểu rõ mình còn phải làm bao nhiêu việc gian phi nữa mới có thể thoát ra khỏi nơi nầy và lần về đến nhà, thì rất có thể là chàng đã bỏ hết đây và lập tức đi tự thú, và như vậy cũng không phải vì lo sợ cho bản thân mình, mà chỉ vì kinh hãi và ghê tởm trước việc mình vừa làm. Nỗi ghê tởm mỗi lúc một trỗi dậy và dâng lên dữ dội trong lòng chàng. Bây giờ không còn có gì trên đời có thể bắt chàng trở vào chỗ cái rương, thậm chí trở vào trong hai gian phòng kia cũng vậy.
Nhưng một tâm trạng lơ đãng, hầu như mơ mộng, dần dần xâm chiếm lấy chàng: có những lúc chàng như quên hẳn mình đi, hay nói cho đúng hơn, quên mất điều chủ yếu, và cứ để tâm vào những chuyện vụn vặt.
Tuy vậy, khi liếc nhìn vào gian bếp và trông thấy một xô nước đặt trên chiếc ghế dài, chàng cũng nghĩ đến việc rửa tay và rửa rìu. Hai tay chàng nhầy nhụa những máu. Chàng thả cây rìu vào xô nước, cầm lấy miếng xà phòng đựng trong cái đĩa va đặt trên bậu cửa sổ và bắt đầu rửa tay ngay trong xô. Rửa tay xong, chàng lấy cái rìu ra, rửa lưỡi rìu, và một hồi lâu, trong khoảng ba phút đồng hồ, chùi cọ những vết máu trên cán rìu, có lúc còn lấy cả xà phòng xát thứ nữa. Đoạn chàng lấy những thứ áo quần phơi trên sợi dây căng qua giàn bếp lau tay và rìu, rồi đưa cây rìu ra đứng cạnh cửa sổ xem xét hồi lâu. Vết máu đã chùi sạch, chỉ có cái cán hơi ướt. Chàng cẩn thận bỏ rìu vào cái quai khâu dưới áo choàng, rồi trong ánh sáng mờ mờ lọt vào gian bếp, chàng xem xét chiếc áo khoác, cái quần, đôi ủng.
Mới thoáng trông thì nhìn bên ngoài chẳng thấy gì cả; chỉ có một vệt máu dính ở ủng. Chàng nhúng ướt một mảnh giẻ và lau sạch chiếc ủng. Vả chăng chàng cũng biết là không thể xem thật kỹ được, và có lẽ còn một dấu vết gì rõ rệt mà chàng không để ý. Chàng phân vân đứng ở giữa phòng. Một ý nghĩ đen tối, day dứt đấy lên trong lòng chàng: chàng nghĩ rằng mình đang phát điên và lúc nầy đã không đủ sức suy luận, không đủ sức tự vệ nữa, và có lẽ những việc chàng đang làm đây lại chính là những việc không nên làm… "Trời ơi! Phải trốn đi, trốn đi!" - chàng lẩm bẩm rồi lao ra phòng trước. Nhưng đến đây chàng đã phải một phen kinh hoảng mà dĩ nhiên chàng chưa có lần nào trải qua.
Chàng đứng ngẩn người ra nhìn và không còn dám tin ở mắt mình nữa: cánh cửa ngoài mở ra thang gác, chính cánh cửa mà chàng đã bước vào lúc nãy sau khi giật chuông, bây giờ đang để ngó, thậm chí còn hở đến một gang tay nữa là khác: không khoá, không cài then; nó đã bị để ngỏ như thế suốt cả thời gian, suốt cả thời gian ấy! Mụ già vào xong không đóng cửa lại, chắc là để đề phòng chuyện bất trắc. Nhưng trời ơi! Sau đó còn có mụ Lizaveta vào nữa kia mà? Làm sao chàng lại không nghĩ ra rằng mụ phải có lối nào mà vào? Chả nhẽ mụ lại đi xuyên qua tường được!
Chàng nhảy chồm ra cửa và móc chốt lại.
- Nhưng mình lại lẩn thần rồi! Phải bỏ đi mới đúng, phải đi…
Chàng nhấc chốt lên, mở cửa và lắng nghe những tiếng động ở ngoài cầu thang.
Chàng nghe ngóng hồi lâu, xa xa đâu ở phía dưới, có lẽ ở ngoài cổng, có tiếng hai người đang cãi cọ chửi bới lẫn nhau rất to, giọng the thé. "Họ nói những gì thế…" Chàng kiên nhẫn chờ một lát. Cuối cùng tiếng léo nhéo im bặt như bị cắt ngang: họ bỏ đi rồi. Chàng đã muốn đi ra, nhưng bỗng ở tầng dưới có tiếng cánh cửa mở ra thang gác đánh sầm một cái, và có ai bắt đầu bước xuống cầu thang, mồm ê a hát một câu gì không rõ. "Sao họ lại cứ làm ồn suốt đi thế!" - chàng thoáng nghĩ. Chàng khép cửa lại và đứng chờ… Cuối cùng mọi vật đều im phăn phắc, không còn ai đi lại gì nữa, chàng đã đặt một chán ra ngoài thì bỗng nghe có tiếng chân bước.
Tiếng chân bước nghe rất xa, mãi tận cuối cầu thang thì phải, nhưng chàng nhớ rất rõ ràng lúc ấy không hiểu tại sao vừa nghe tiếng bước đầu tiên chàng đã nghĩ ngay rằng chắc chắn người ta đang đi lên đây, lên buồng mụ già ở tầng bốn. Tại sao? Những tiếng động ấy có gì đặc biệt, đáng chú ý chăng? Những tiếng chân bước ấy nặng nề, đều đặn, thong thả. Và đây, hắn đã lên đến gác hai, và vẫn còn lên nữa, tiếng chân mỗi lúc một rô thêm, có thể nghe thấy tiếng thở hen suyễn nặng nhọc của hắn, hắn đã bắt đầu đi qua gác ba…
Hắn đã đến đây! Và Raxkonikov chợt thấy như mình cứ đờ ra, chàng có một cảm giác y hệt như trong giấc chiêm bao, khi mơ thấy có người đuổi đến gần để giết mình, còn mình thì như chôn chặt xuống đất và không sao cựa tay được nữa.
Và mãi cho đến khi người khách lạ bắt đầu leo lên gác tư, chàng mới cuống cuồng lên đóng cửa lại và nhanh nhẹn rời gian phòng ngoài lùi vào trong nhà. Rồi chàng cầm lấy cái móc cửa và nhẹ nhàng cài lại, không một tiếng động. Bản năng đã giúp chàng. Xong đâu đấy, chàng nín thở nép người vào sát cánh cửa. Người khách bất đắc dĩ cùng đã đứng ngoài cửa. Bấy giờ hai người đang đứng sát vào nhau như chàng với mụ già lúc nãy, khi cánh cửa còn ngăn cách họ, và chàng thì lắng tai nghe ngóng.
Người khách thở hắt ra mấy tiếng nặng nhọc."Chắc phải là một người to béo" - Raxkonikov nghĩ thầm tay xiết chặt cán rìu. Quả nhiên, cứ như trong một giấc chiêm bao, chàng nghe thấy khách cầm lấy dây chuông giật mạnh.
Cái tiếng rè rè như sắt tây của chiếc chuông vừa vang lên thì chàng chợt có cảm giác như trong phòng xôn xao hẳn lên. Trong mấy giây chàng còn lắng tai nghe ngóng thật sự nữa là khác. Người lạ mặt kéo chuông lần nữa, đợi thêm một lát rồi bỗng nhiên sốt ruột ra sức giật quả nắm cửa. Raxkonikov kinh hoàng nhìn cái chốt cửa đang lật bật trong khâu cài và sững sờ đợi lúc cái chốt bật hẳn ra ngoài. Quả nhiên có thể tưởng đâu nó sắp bật đến nơi: người đứng ngoài cửa giật mạnh lắm. Đầu chàng dường như lại choáng váng lên. "Mình ngã xuống đất" - chàng thoáng nghĩ, nhưng người kia đã lên tiếng, khiến chàng lập tức định thần lại.
- Chà hai con mẹ nầy làm gì trong ấy, ngủ tiệt hay có ai bóp chết ngoẻo rồi? Đồ quỷ sứ! - hắn gầm lên, tiếng nghe như trong thùng phát ra. - Ê, Aliona Ivanovna, mụ phù thuỷ già! Lizaveta Ivanovna, nàng giai nhân tuyệt thế! Mở ra chứ? Chà, hai con mẹ chết tiệt ngủ rồi hay sao thế không biết?
Hắn phát khùng lên, lấy hết sức lực kéo chuông hàng chục lần nữa. Chắc hẳn đây phải là một người quen biết lâu ngày và có quyền thế đối với nhà nầy.
Ngay lúc ấy bỗng nghe có bước mau, vội vã, trên thang gác, cách đấy không xa. Lại thêm một người nữa mới đến, lúc đầu Raxkonikov nghe vẫn chưa hiểu ra điều đó.
- Chả nhẽ không có ai ở nhà à? - người mới đến cất tiếng oang oang vui vẻ hỏi người kia lúc bấy giờ đang kéo chuông. - Chào bác Koch!
"Cứ nghe giọng nói thì chắc chắn hắn còn trẻ lắm" - Raxkonikov chợt nghĩ.
- Có ma nó biết, lay đến vỡ ổ khoá ra mà vẫn không thưa, - Koch đáp. - Thế tại sao ông lại biết tôi?
- Ơ kìa? Thì hôm kia ở tiệm "Gambrinus" tôi vừa thắng bác ba ván bi-a liền đấy thôi.
- À - à - à - Thế sao, không có nhà à? Lạ thật. Mà cũng vô lý hết sức. Mụ già ấy thì đi đâu mới được chứ? Tôi đang có việc cần gặp mụ.
- Tôi cũng thế ông ạ!
- Thôi, biết làm thế nào được? Đành phải về vậy.
- Chà. À! Thế mà tôi cứ tính chuyện đến lấy ít tiền! - người trẻ tuổi phàn nàn.
- Đành phải về thật, nhưng đã thế sao lại đi hẹn với người ta? Chính con mụ ấy hẹn giờ hẹn ngày với tôi đấy chứ. Tôi phải đi vòng khá xa mới ghé lại đây được. Nhưng tôi vẫn không hiểu mụ già ấy đi đâu thế? Ngồi ru rú ở nhà suốt năm đến mốc thếch cả người ra, lại đau chân nữa, thế mà nay bỗng dưng lại đi dạo đâu vắng mới lạ chứ.
- Hay thử hỏi lão gác cổng xem.
- Hỏi gì?
- Hỏi xem mụ đi đâu và bao giờ về?
- Hừm, đồ quỷ… hỏi, nhưng mà mụ ấy có đi đâu được kia chứ… - Và một lần nữa hắn lại kéo quả đấm cửa. - Mẹ kiếp, thôi đành về vậy.
- Khoan đã, - người trẻ tuổi bỗng kêu lên, - bác thừ nhìn xem: hễ kéo là cánh cửa hơi bật ra một tí, bác thấy không?
- Thì sao?
- Thế nghĩa là cửa không khoá, mà, chỉ cài chốt thôi, chỉ móc lại thôi mà! Bác có nghe thấy không cái móc kêu lạch cạch đấy.
- Thế thì sao?
- Sao bác lại không hiểu nhỉ? Thế nghĩa là vẫn có người ở nhà. Nếu cả hai mụ đều đi vắng cả thì phải khoá bằng chìa ở bên ngoài, chứ sao lại móc cửa ở bên trong được. Thế nhưng đây thì móc cửa lại cứ kêu cành cạch thế kia kìa, bác có nghe thấy không? Mà muốn móc cửa từ phía trong thì phải ở trong nhà chứ, bác hiểu ra chưa? Thế nghĩa là hai con mụ ở nhà mà vẫn không chịu mở cửa!
- Ờ mà thật! - Koch ngạc nhiên kêu lên - Thế thì hai con mụ làm gì ở trong ấy? - và hắn lại giận dữ kéo cửa.
- Khoan! - người trẻ tuổi lại nói, - đừng kéo nữa? Có cái gì không ổn đây rồi… bác kéo chuông, giật cửa như thế mà vẫn không mở: thế nghĩa là hai mụ phải chết giấc đi ở trong ấy hay là…
- Hay là thế nào?
- Bây giờ thế nầy nhé: ta xuống gọi bác gác cổng lên để cho bác ấy đánh thức hai mụ dậy.
- Phải đấy?
Cả hai người cùng đi xuống.
- Khoan đã! Bác cứ đứng đây một chút, tôi sẽ xuống gọi cho.
- Đứng đây làm gì?
- Nhỡ ra có chuyện gì…
- Có lẽ…
- Tôi đang học để ra làm dự thẩm! Ở đây rõ ràng có một cái gì không ổn, r - rõ r - ràng là như thế - người trẻ tuổi hăm hớ nói to, đoạn chạy vội xuống thang gác.
Koch đứng lại, khẽ kéo chuông một lần nữa. Cái chuông kêu lên một tiếng. Sau đó hắn lại im lặng vặn quả nắm, có - vè như đang suy nghĩ và xem xét điều gì, kéo cánh cửa rồi lại buông ra để nghiệm lại một lần nữa, cho chấc bụng rằng cửa chỉ móc lại chứ không khoá. Rồi hắn vừa thở phì phò vừa khom người xuống dòm vào lỗ khoá; nhưng khoá đã đút vào Ồ từ phía trong, cho nên hắn không thể trông thấy gì hết.
Raxkonikov đứng yên, tay lăm lăm cầm cán rìu. Chàng như đang mê sảng. Chàng còn sắp sẵn để đánh nhau với hai người lạ khi họ vào nữa. Trong khi họ gọi cửa và nói chuyện với nhau, đã mấy lần chàng chợt nẩy ra ý chấm dứt quách cho xong và đứng sau cửa lên tiếng quát họ. Có khi chàng muốn chửi bới, trêu tức họ trong khi họ chưa mở được cửa.
"Nhanh lên thôi chứ!" - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua óc chàng.
- Mà sao hắn đi lâu thế, đồ quỷ.
Thời gian trôi qua, một phút, rồi một phút nữa - vẫn không thấy ai lên. Koch bắt đầu bứt rứt cựa quậy.
- Quái thật?… - Hắn bỗng sốt ruốt kêu lên rồi bỏ mặc đấy đi xuống nốt, chân bước vội vã và nện ủng thình thình trên thang gác. Tiếng bước xa dần rồi im hẳn.
- Trời ơi, biết làm gì đây?
Raxkonikov nhấc chốt, hé mở cửa ra. Xung quanh không có lấy một tiếng động. Và bỗng nhiên chàng bước ra, đầu óc tuyệt nhiên không còn nghĩ ngợi gì nữa hết, đóng cửa lại thật chặt và đi xuống cầu thang.
Chàng vừa xuống được ba bậc thang thì bỗng phía dưới có tiếng động mạnh. Biết nấp vào đâu bây giờ?
Xung quanh không có chỗ nào có thể ẩn được. Chàng chạy lùi lại, quay trở vào phòng.
- Ê quân chết tiệt! Bắt lấy nó!
Ở phía dưới có ai vừa quát tháo vừa từ trong một căn phòng nào đó nhảy xổ ra rồi đâm bổ xuống thang gác, miệng thét thất thanh:
- Mitka? Mitka! Mitka! Mitka! Mitka! Quỷ bắt mày đi thằng nỡm!
Tiếng quát tháo chuyển sang tiếng rú the thé rồi im hẳn; những tiếng sau cùng nghe rõ là từ sâu vọng lên. Xung quanh lại im lặng. Nhưng ngay lúc ấy một tốp người vừa ầm ầm leo lên thang gác vừa nói chuyện ồn ào, tiếng nghe đồn dập. Họ có khoảng ba hay bốn người. Chàng phân biệt được giọng nói oang oang của người trẻ tuổi. "Chính họ đấy rồi!".
Hoàn toàn tuyệt vọng, chàng đi thẳng xuống phía họ, ra sao thì ra? Họ chặn chàng lại thì hỏng bét, mà họ không chặn nữa, thì cũng thế: họ sẽ nhớ. Hai bên đã sắp chạm trán nhau: giữa chàng với họ chỉ còn một cầu thang nữa, - và bỗng nhiên, lối thoát hiện ra cách chàng vài bậc thang, về bên phải, có một gian phòng bỏ trống cửa mở toang, chính gian phòng ở gác hai nơi bọn thợ sơn đang làm việc lúc nãy, nhưng bây giờ thì họ đã bỏ đi đâu, như cố ý vậy. Chắc hẳn vừa rồi chính họ vừa quát tháo vừa chạy xuống dưới sân.
Sàn nhà vừa mới sơn xong, ở giữa phòng có một cái thùng, một hộp sơn có cắm cái chồi sơn. Trong nháy mắt chàng đã chui tọt vào cửa và nấp vào sau bức tường, và cũng vừa kịp: mấy người kia bấy giờ đã lên đến gác hai ngay trước cửa phòng. Nhưng họ vẫn tiếp tục lên gác tư, vừa đi vừa nói bô bô. Chàng đợi một lát, rón rén ra khỏi phòng và chạy xuống.
Trên thang gác không có lấy một bóng người! Ở dưới cổng cũng thế. Chàng đi nhanh qua vòm cổng và rẽ ngoặt sang trái.
Chàng biết lắm, chàng biết rất rõ rằng lúc nầy đây họ đã vào phòng, rằng họ rất kinh ngạc khi thấy cánh cửa lúc nãy còn móc chốt mà nay đã mở, rằng họ đã trông thấy hai xác chết và chỉ một phút nữa là họ sẽ đoán ngay ra được rằng vừa rồi kẻ sát nhân đang ở trong phòng và vừa mới kịp lén đi, có lẽ họ cùng đoán được rằng chàng đứng trong gian phòng bỏ trống trong khi họ đi lên. Thế nhưng chàng không sao dám rảo bước đi thật nhanh, tuy từ đấy đến chỗ ngoặt đầu tiên còn phải đi đến trăm bước nữa. Hay là ta lẻn vào một cái cổng nào đấy, nấp vào một cầu thang mà đợi? Không được, hỏng bét? Vứt quách cái rìu đi chăng? Hay là gọi chiếc xe ngựa? Không được, hỏng bét, hỏng bét!"
Cuối cùng, chàng đã đến chỗ rẽ vào một ngõ hẻm. Chàng bước vào ngõ, người như chết dở; đến đây chàng gần như đã thoát nạn rồi, và chàng cũng hiểu như thế bây giờ thì khó bị nghi ngờ hơn, hơn nữa người qua lại rất đông, và chàng mất hút vào đây như một hạt cát.
Nhưng những phút khổ ải vừa qua đã làm cho chàng kiệt sức đến nỗi hầu như không nhích chân được nữa.
Mồ hôi đổ hột chảy ròng ròng trên mặt chàng; cổ chàng ướt dầm. "Thằng cha kia say bí tí" - có ai quát chàng khi chàng rẽ ra kênh đào.
Bây giờ chàng cứ mê man đi, càng đi trí óc càng tối sầm lại. Tuy vậy chàng cũng nhớ là khi rẽ ra kênh đào chàng thấy ở đấy vắng quá sợ dễ bị chú ý, nên toan quay trở vào ngõ. Tuy đã suýt ngã khuỵu xuống, chàng vẫn đi vòng một quãng xa để về nhà từ một hướng khác hẳn.
Ngay đến khi chàng đi vào cổng nhà mình, Raxkonikov cũng vẫn chưa tỉnh hẳn. Dù sao chàng lên đến thang gác rồi mới sực nhớ đến cái rìu. Bây giờ còn phải làm một việc rất quan trọng: trả cái rìu về chỗ cũ, và phải làm sao cho thật kín đáo. Dĩ nhiên chàng không còn đủ sức suy tính rằng có lẽ đừng để cái rìu lại chỗ cũ, mà tốt hơn nhiều là nên vứt nó vào một cái sân nào khác, để đến sau nầy rồi vứt cũng được Nhưng mọi việc đều êm thấm. Cửa phòng người gác cổng đang đứng, nhưng không khoá, thế tức là hắn ta có lẽ đang ở nhà. Nhưng chàng mất khả năng suy nghĩ đến nỗi cứ đi thẳng tới và mở cửa ra. Ví thử người gác cổng hỏi chàng: "Ông cần gì?" thì có lẽ chàng sẽ cứ thế cầm cái rìu đưa thẳng cho hắn ta. Nhưng người gác cổng lại vắng nhà, và chàng có đủ thì giờ để đặt cây rìu ở chỗ cũ, dưới chiếc ghế dài; chàng lại còn lấy thanh củi chặn lên như cũ nữa. Trên đường trở về buồng, chàng không gặp lấy một bóng người nào; phòng bà chủ đóng kín. Về đến buồng mình, chàng cứ để nguyên quần áo gieo mình xuống đi-văng. Chàng không ngủ, nhưng cứ thiêm thiếp mê man. Bấy giờ giá có ai đi vào buồng, chàng sẽ lập tức nhảy chồm dậy và kêu rú lên.
Những mảng ý nghĩ đứt đoạn và rối ren cứ loáng thoáng trong đầu chàng; nhưng chàng không thể cầm giữ lấy một ý nào, không thể dõi theo một ý nào, dù có cố sức cũng không được.

Chương 7

Phần II



Chàng nằm như thế rất lâu. Có những khi chàng như tỉnh giấc, và những khi ấy, chàng nhận thấy đêm đã xuống từ lâu, nhưng không hề có ý muốn dậy.
Cuối cùng chàng thấy trời đã sáng hẳn(1). Chàng nằm im trên đi-văng, tâm trí còn bàng hoàng vì cơn mê vừa qua. Từ dưới phố vọng lên những tiếng quát tháo kinh khủng nhói cả tai. Vả chăng đêm nào cũng vậy, khoảng hơn hai giờ sáng ở dưới cửa sổ lại nghe thấy những tiếng quát tháo như thế. Và giờ đây chính những tiếng quát ấy đã đánh thức chàng dậy. "À! Lũ say rượu đã kéo nhau ra về rồi đây" - chàng nghĩ thầm, - hơn hai giờ sáng rồi, chàng bỗng choàng dậy, như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. - Sao, hơn hai giờ sáng rồi ư? Chàng ngồi dậy và chợt nghĩ ra. Trong nháy mắt, chàng sực nhớ lại tất cả những việc đã qua.
Phút đầu chàng ngỡ mình phát điên. Khắp người chàng thấy lạnh toát ra, chắc cũng vì cơn sốt đã bắt đầu nổi lên từ lâu, trong khi chàng ngủ. Song bây giờ chàng run lên cầm cập, mạnh đến nỗi răng đánh vào nhau như muốn bật tung ra, toàn thân chàng choáng váng hẳn đi. Chàng mở hé cánh cửa và bắt đầu nghe ngóng: trong nhà im phăng phắc, mọi vật đều ngủ say.
Chàng ngỡ ngàng đưa mắt nhìn xuống người mình và nhìn mọi vật xung quanh, lòng băn khoăn không sao hiểu nổi: làm thế nào mà hôm qua, khi vào buồng, chàng lại không cài cửa lại và không những cứ để nguyên cả áo quần gieo mình xuống đi-văng, mà ngay cả mũ cũng không cất nữa. Khi chàng nằm xuống nó đã buột ra và nay còn nằm trên sàn nhà, ngay cạnh gối. "Nếu có ai vào họ sẽ nghĩ ra sao đây? Hẳn là họ sẽ nghĩ rằng ta say, nhưng…". Chàng nhảy nhồm ra cửa sổ. Ở đây có đủ ánh sáng, chàng hối hả xem xét người mình suốt từ đầu đến chân: áo quần có còn vết gì không? Nhưng cứ thế nầy thì không thể xem xét gì được: người chàng cứ run lên lẩy bẩy. Chàng lần lượt cởi hết áo quần ra xem lại thật kỹ. Chàng lật đi lật lại xem từng đường may, từng mụn vá, và vẫn chưa yên tâm, chàng xem lại từng cái một đến ba lần liền. Nhưng hình như không có gì cả không thấy một dấu vết nào; chỉ có một chỗ gấu quần xổ tung ra, xơ vải thấm đầy máu đông đặc. Chàng lấy con dao xếp lớn xén hết chỗ xơ đi. Ngoài ra hình như không còn gì nữa. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng cái bóp tiền và những đồ đạc lấy trong hòm mụ già ra cho đến nay vẫn nằm trong túi chàng. Mãi cho đến nay mà chàng vẫn chưa nghĩ đến việc rút nó ra và đem giấu đi?
Ngay bây giờ, trong khi xem xét áo quần, chàng vẫn không nhớ ra. Thế là thế nào? Trong một nhoáng chàng lôi hết ra ngoài và vứt cả lên bàn. Chàng lại còn lộn cả các túi áo ra cho chắc bụng để không còn sót lại một cái gì nữa, xong chàng vò tất cả các thứ đó bỏ vào một góc phòng, nơi giấy dán tường bong ra và rách một lỗ.
Chàng nhét hết các thứ vào cái lỗ ấy, dưới làn giấy dán tường. "Ổn rồi! Không còn thấy vết tích đâu nữa, cả cái bóp cũng thế!" - chàng mừng rỡ nghĩ thầm trong khi đứng dậy nhìn đờ đẫn vào cài góc và cái lô giấy rách bây giờ cộm hẳn lên. Chợt cả người chàng run bắn lên vì kinh hãi: "Trời ơi, - chàng tuyệt vọng thều thào - mình làm sao thế nầy? Thế mà gọi là giấu kín ư? Đời thuở ai lại đi giấu như thế?". Quả tình chàng quên không tính đến các thứ nầy; chàng tưởng là mình sẽ lấy tiền thôi, cho nên không chuẩn bị trước chỗ cất giấu.
"Nhưng bây giờ, thì ta mừng cái gì mới được chứ? - chàng nghĩ thầm. - Có ai lại đi giấu như thế bao giờ? Đúng là mình mất hẳn trí khôn rồi!"
Chàng bải hoải ngồi xuống đi-văng và lập tức lại run lên cầm cập. Như một cái máy, chàng kéo chiếc áo khoác mùa đông cũ kỹ của sinh viên vắt trên chiếc ghế đặt bên cạnh, một chiếc áo hãy còn ấm, nhưng đã rách bươm ra, đắp lên người, và cơn mê sảng lại ập vào người chàng. Chàng thiếp đi.
Chỉ độ năm phút sau chàng lại choàng dậy và lập tức hoáng hốt vồ lấy đống quần áo. "Làm sao mình lại có thể ngủ trong khi chưa làm xong gì cả! Đúng thế, đúng thế rồi: mình vẫn chưa tháo cái quai ở nách áo ra. quên bẵng đi mất, một việc như thế mà lại quên được! Một tang vật rành rành ra như thế?". Chàng giật đứt cái quai và hối hả xé vụn nó ra từng manh rồi nhét vào đống quần áo dưới gối. "Dù sao cũng không ai ngờ vực những mảnh gì nầy; hình như thế, hình như thế đấy!" - Chàng đứng ở giữa phòng nhắc đi nhắc lại, và với một sức chú ý căng thẳng đến nỗi nhức cả mắt, chàng lại xem xét xung quanh, trên sàn nhà cũng như khắp các nơi khác, xem mình có còn quên gì nữa không. Chàng biết chắc rằng mình đang mất hết, ngay cả trí nhớ, ngay cả khả năng suy luận đơn giản nhất cũng thế, và bắt đầu lo lắng ray rứt không sao chịu nổi.
Sao, chẳng lẽ hình phạt đã bắt đầu, chẳng lẽ giờ hành hình đã điểm?… Kia rồi, kia rồi, mình biết ngay mà? Quả nhiên những mảnh xơ chàng xén ở gấu quần còn vứt bừa ra sàn nhà ngay chính giữa phòng, ai vào cũng có thể trông thấy ngay được! "Mình làm sao thế nầy nữa!" - Chàng lại kêu lên như người mất trí.
Đến đây chàng nẩy ra một ý nghĩ kỳ lạ: có thể là áo quần chàng chỗ nào cũng bê bết những máu, có lẽ còn có nhiều vết máu lắm, chẳng qua chàng không trông thấy, không nhận ra đấy thôi, vì đầu óc chàng đã suy nhược, rối loạn, trí khôn đã mờ đi. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng trên cái bóp tiền cũng phải có máu, vì khi ta đút túi cái hộp hãy còn ướt!" Chàng lập tức lộn túi quần ra. Quả nhiên trên lần vải lót túi có những vết máu? "Thế nghĩa là ta chưa mất hẳn trí khôn, thế nghĩa là ta hãy còn khả năng suy luận, còn trí nhớ, mới có thể nghĩ ra được điều đó chứ? - chàng đắc chí nghĩ thầm và hớn hở hít mạnh không khí vào căng cả ***g ngực, - chẳng qua vì sốt nên bị suy nhược, mê sảng trong chốc lát thôi". Chàng liền xé miếng vải lót túi quần bên trái ra. Vừa lúc ấy một tia năng chiếu vào chiếc ủng bên trái của chàng: ở đầu chiếc bít tất thòi ra ngoài mõm giầy hình như có những vết bẩn. Chàng cởi chiếc bít tất ra: "Đúng là có vết! Mũi bít tất nhơm nhớp những máu; chắc là chàng đã sơ ý bước vào vũng máu… "Nhưng bây giờ biết làm thế nào? Biết giấu chiếc bít tất, cái mảnh xơ, cái treo túi nầy đi đâu?".
Chàng vơ cả một nắm và đứng sững ra ở giữa phòng.
"Bỏ vào lò sưởi chăng?" Nhưng đó là nơi họ sẽ bới tìm trước tiên. Đốt! Nhưng lấy gì mà đốt? Đến diêm cũng không có nữa kia mà. Không, tốt hơn là hãy đem một chỗ nào mà vứt. Phải rồi? Vứt đi thì hơn! - chàng nhắc đi nhắc lại và ngồi xuống đi-văng, - mà phải đi vứt ngay bây giờ, không chậm trễ!" Nhưng đầu chàng lại cứ trĩu xuống gối; ngực chàng lại rung lên từng cơn không sao cưỡng nổi; chàng kéo áo khoác lên đắp.
Và mãi hồi lâu, đến mấy tiếng liền, chàng cứ chập chờn với ý nghĩ "phải đi ngay bây giờ, không lần lữa gì nữa, phải đến một chỗ nào mà vứt hết các thứ nầy cho mất tang đi, nhanh lên, nhanh lên!" Đã mấy lần chàng choàng người lên, muốn đứng dậy mà không được. Một tiếng đập cửa rất mạnh thức chàng tỉnh hẳn.
- Kìa mở ra chứ, chết rồi hay sao thế? Cứ ngủ li bì mãi! - Naxtaxia vừa kêu vừa nện quả đấm vào cửa, - ngủ suốt mấy ngày liền? Đúng hệt như con chó! Mở ra nào. Mười giờ rồi.
- Có lẽ đi đâu vắng cũng nên? - một giọng đàn ông nói.
Chà giọng lão gác cổng… Lão muốn gì thế? Chàng choàng dậy ngồi trên đi-văng. Tim chàng đập mạnh đến đau cả ngực.
- Thế thì ai chốt cửa lại? - Naxtaxia cãi, - chà lại sinh ra cái trò chốt với cài! Sợ người ta rinh mình đi mất chắc? Mở ra nào, đồ ngốc, dậy đi!
Họ muốn gì? Tại sao lão gác cổng lại lên đây? Họ biết hết rồi. Kháng cự hay là chịu mở cửa? Mẹ chúng nó…
Chàng nhỏm dậy, chồm về phía trước và nhấc then cửa lên. Phòng chàng chật đến nỗi có thể cứ ngồi ở giường cùng mở được cửa.
Đúng như chàng đoán, lão gác cổng đang đứng trước cửa với Naxtaxia.
Naxtaxia nhìn chàng một cách khác thường. Chàng đưa mắt thách thức và tuyệt vọng nhìn lão gác cổng.
Lão im lặng, đưa cho chàng một tờ giấy xám gấp làm đôi, niêm bằng thứ xi gắn cổ chai.
- Trát ở sở gửi đến, - lão vừa trao giấy vừa nói.
- Sở nào?…
- Sở cảnh sát, giấy đòi anh lên sở cảnh sát.
- Sở cảnh sát à!… Việc gì thế?
- Tôi làm thế nào mà biết được. Họ đòi thì đi thôi. - Lão chăm chú nhìn chàng, đảo mắt quanh phòng một lượt rồi quay ra.
- Cậu ốm thật rồi hay sao thế? - Naxtaxia hỏi, mắt vẫn nhìn chàng đăm đăm. Lão gác cổng cũng ngoái đầu lại một lát. - Sốt từ hôm qua, - Naxtaxia nói thêm. Chàng không đáp, tay vẫn cầm tờ giấy, không bóc ra.
- Thôi đừng dậy nữa! - Naxtaxia ái ngại nói tiếp khi thấy chàng thả chân xuống sàn. - Ốm thì đừng đi nữa, chẳng có gì gấp đâu, tay cậu cầm cái gì thế? - chàng nhìn xuống: tay phải chàng đang nắm mớ vải xớ cắt ở gấu quần, chiếc bít tất, miếng rẻo túi quần.
Vừa qua chàng đã cầm nguyên cả các thứ đó mà ngủ. Mãi về sau, khi nghĩ lại, chàng mới nhớ rằng trong cơn sốt đã có lần chàng thức giấc, nửa mê nửa tỉnh, nắm mở giẻ thật chặt và cứ thế mà ngủ lại.
- Xem cậu ta nhặt được mở giẻ ở đâu mà ngủ cũng không rời ra, như thể của quý ấy… - Nói đoạn Naxtaxia cười rũ ra từng cơn như thường lệ. Trong nháy mắt chàng đút hết nắm giẻ xuống dưới vạt áo và trừng trừng giương mắt nhìn chị ta. Tuy lúc ấy chàng rất ít khả năng suy nghĩ tỉnh táo, Raxkonikov cũng cảm thấy rằng thái độ của những kẻ đi bắt người hẳn không như thế. "Nhưng còn… sở cảnh sát".
- Uống nước chè nhé? Có muốn uống không? Tôi sẽ đem lại, hãy còn đấy!
- Không… tôi đi đây! Tôi đi ngay dây, - chàng đứng dậy lẩm bẩm.
- Nhưng liệu có xuống nổi thang gác không đã nào?
- Tôi cứ đi…
- Ừ muốn đi thì đi.
Naxtaxia theo sau người gác cổng lui ra. Chàng lập tức lao người ra chỗ sáng xem lại chiếc bít tất và miếng rẻo: "Có vết, nhưng không rõ lắm; bùn lấm bê bết, lại chà xát mãi nên màu cùng bạc đi. Không biết trước thì không thấy gì đâu. Thế nghĩa là Naxtaxia đứng xa không thể nhìn thấy gì được. Lạy Chúa!". Chàng lập cập bóc phong bì ra đọc. Chàng đọc hồi lâu và mãi cuối cùng mới hiểu ra. Đó là một tờ trát thông thường của quan cảnh sát yêu cầu đến trình tại phòng giấy quận trưởng vào lúc chín giờ rưỡi ngày hôm nay.
"Chuyện quái gì thế nhỉ? Mình có việc gì dính dáng đến cảnh sát đâu? Mà tại sao lại đúng vào hôm nay? - chàng ngầm nghĩ, lòng bàn khoăn ray rứt. - Trời ơi, sao cho chóng xong đi" Chàng quỳ xuống toan cầu nguyện, nhưng rồi lại bật cười - không phải cười lời cầu nguyện mà cười bản thân mình. Chàng bắt đầu hối hả mặc áo. Ra sao thì ra, đã hỏng thì cho hỏng nốt, cần gì! Cứ đi chiếc tất vào? - chàng chợt nghĩ, - càng trát bụi vào, càng mất đâu. Nhưng vừa luồn chiếc bít tất vào chàng đã kinh tởm và khiếp sợ rút nó ra. Rồi nhớ ra rằng không còn chiếc nào khác, chàng lại đi vào và cười phá lên. "Tất cả những cái đó đều là ước lệ, đều là tương đối, đó chỉ là những cái hình thức, - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua trí chàng như chỉ chạm hờ vào một góc lề tư tưởng, trong khi cả người chàng run lên cầm cập, - Ấy thế mà ta vẫn xỏ chân vào đấy! Rốt cục rồi cũng xỏ chân vào!" Nhưng rồi tiếng cười nhường chỗ ngay cho nỗi tuyệt vọng. "Không… mình không đủ sức…" - chàng thầm nghĩ. Chân chàng run lẩy bẩy. "Run vì sợ đấy - chàng lẩm bẩm nói một mình. Đầu chàng váng lên và nhức nhối vì cơn sốt. "Đây là một quỷ kế! Chúng nó muốn bày mưu nhử mình đến rồi hỏi cũng bất thình lình" - chàng nghĩ tiếp khi ra cầu thang. "Tệ hại nhất là bây giờ mình gần như đang mê sảng… mình có thể buột mồm nói bậy…"
Trên cầu thang chàng sực nhớ rằng mình vẫn để nguyên các thứ trong cái lỗ thủng trên tấm giấy dán tường, - "mà có lẽ họ cố nhử cho mình đi vắng để soát nhà cũng nên?" - chàng chợt nghĩ ra và dừng lại. Nhưng một tâm trạng tuyệt vọng, một thứ trâng tráo của kẻ cùng đường đã khống chế chàng, chàng khoát tay một cái và đi thẳng.
"Miễn sao cho chóng xong đi!…"
Ngoài phố nóng bức không sao chịu nổi; suốt mấy ngày hôm ấy không có lấy một giọt mưa. Lại cảnh bụi bặm, vôi gạch, lại mùi xú uế nồng nặc từ các cửa hiệu, các tiệm rượu xông ra, lại những gã say rượu đi lại nhan nhản, những người bán hàng rong bẩn thỉu và những chiếc xe ngựa ọp ẹp. Ánh nắng chói vào mắt chàng nhức buốt; đầu chàng váng hẳn lên - cái cảm giác thông thường của người sốt khi ra đường đột ngột trong một ngày nắng sáng.
Đi đến chỗ rẽ ngoặt sang dãy phố "hôm qua", chàng bồi hồi lo sợ liếc mắt nhìn vào dãy phố, nhìn toà nhà ấy… và lập tức nhìn sang chỗ khác.
"Nếu họ hỏi, có lẽ ta sẽ nói hết" - chàng nghĩ khi gần đến sở cảnh sát.
Sở cảnh sát cách nhà chàng khoảng một phần tư verxta. Nó vừa dọn sang trụ sở mới đặt ở tầng gác thứ tư của một toà nhà mới. Hồi nó còn ở chỗ cũ, chàng đã có lần ghé vào một lát, nhưng đã lâu lắm rồi. Đi vào cổng, chàng thấy ở bên phải có một cầu thang, và trên cầu thang, một người mu-gich cầm quyển sổ đang đi xuống: "Có những người gác cổng ra vào; thế thì đây đúng là sở cảnh sát rồi" (2), chàng phỏng đoán như vậy rồi cứ thế leo lên thang gác, không muốn hỏi ai hết.
"Ta sẽ vào, sẽ quỳ xuống và khai hết từ đầu chí cuối". - chàng nghĩ khi bước lên tầng thứ tư. Cầu thang chật hẹp, lên thẳng đứng, ngập ngụa nước bẩn vả rác rưởi. Tất cả các gian bếp của tất cả các nhà ở khắp bốn tầng đều trông ra thang gác và cứ thế mở suốt ngày. Cho nên không khí ở đây ngột ngạt lạ lùng. Những người gác cổng sổ cắp nách, những người cảnh binh và những người thường dân nam có nữ có lẽn lên xuống xuống không ngừng. Cánh cửa vào phòng giấy cũng mở toang. Chàng bước vào và dừng lại ở phòng ngoài. Ở đây có mấy người mu-gich đang đứng dợi.
Không khí trong phòng nầy cũng hết sức ngột ngạt, lại thêm mùi sơn ướt ở các phòng xông ra, tanh đến lộn mửa. Đợi được một lát, chàng nảy ra ý đi thẳng vào phòng bên. Các phòng ở đây đều chật và thấp. Một tâm trạng nôn nóng cứ thôi thúc chàng đi sâu mãi vào các phòng trong. Không có ai để ý đến chàng. Ở gian phòng thứ hai có những viên thư lại ăn mặc chẳng hơn gì chàng mấy, đang ngồi viết hí hoáy, trông họ có một vẻ gì kỳ quái. Chàng hỏi thăm một người trong bọn họ.
- Anh cần cái gì?
Chàng chìa tờ trát của sở ra.
- Ông là sinh viên à? - người kia hỏi sau khi nhìn vào giấy.
- Vâng, cựu sinh viên.
Viên thư lại nhìn chàng một lát, song cũng không hề có ý tò mò. Đó là một người có bộ tóc rối xù lên, mắt lờ đờ như thể luôn luôn theo đuổi một ý nghĩ bất đi bất dịch.
"Hỏi hắn thì chẳng biết thêm được gì đâu, hắn dửng dưng đối với mọi việc trên đời" - Raxkonikov thầm nghĩ.
- Ông đi lại đằng kia gặp ông chánh văn phòng, viên thư lại nói và giơ ngón tay ra phía trước chi vào gian phòng ở tận cùng.
Chàng bước vào phòng nầy phòng thứ tư kế từ ngoài vào, một gian phòng chật hẹp và đầy ắp những người là người - đám khách ở đây ăn mặc sạch sẽ hơn những người đứng trong các phòng kia. Trong số khách có hai người đàn bà. Một người để tang, phục sức tồi tàn ngồi trước bàn giấy viên chánh văn phòng và đang viết những gì gì do viên kia đọc. Người đàn bà thứ hai béo phục phịch, da mặt lốm đốm đỏ, dáng bệ vệ, ăn mặc sang trọng và diêm dúa, ngực cài một cái hoa giả to bằng cái đĩa tách, đang đứng đợi một bên. Raxkonikov chìa tờ trát ra cho viên chánh văn phòng. Hắn liếc nhìn qua tờ giấy, nói: "Ông đợi một tí", rồi tiếp tục đọc cho người đàn bà mặc tang phục viết.
Raxkonikov thở đã nhẹ nhõm hơn. "Chắc là không phải!" Chàng dần dần hoàn hồn, cố hết sức trấn tĩnh và lấy lại can đảm.
"Chỉ cần một cử chỉ dại dột, một hành động bất cẩn hết sức nhỏ nhặt là có thể lộ hết! Hừm… tiếc rằng ở đây khó thở quá, - chàng nghĩ tiếp, - ngột ngạt thế nầy… Đầu đã thấy choáng váng… trí khôn cũng vậy…".
Chàng thấy hoang mang lạ lùng. Chàng chỉ sợ không tự chủ được. Chàng cố gắng chú ý đến một vật gì hay nghĩ đến một việc gì hoàn toàn xa lạ, nhưng không sao được. Vả chăng viên chánh văn phòng đang thu hút hết sức chú ý của chàng: cứ muốn phân tích vẻ mặt của hắn để phỏng đoán xa gần. Đó là một người rất trẻ, tuổi trạc hai mươi hai nước da ngăm ngăm, vẻ mặt linh hoạt. Trông hắn có vẻ già hơn tuổi. Hắn ăn mặc bảnh bao, theo đúng thời trang, tóc rẽ thành đường ngôi, chải chuốt và bôi sáp cẩn thận, mấy ngón tay trắng trẻo rửa ráy kỹ lưỡng bằng bàn chải, đeo rất nhiều nhẫn và khâu, áo gi-lê mắc những sợi dây chuyền vàng. Với một người ngoại quốc đang đứng đấy hắn lại còn nói dăm ba câu tiếng Pháp nghe khá thông thạo.
- Luyza Ivanovna, bà ngồi xuống chứ, - hắn quay lại một chút nói với người đàn bà mặt đỏ ăn mặc diêm dúa nãy giờ cứ đứng mãi, như thể không dám ngồi xuống, mặc dầu ngay bên cạnh có một chiếc ghế tựa.
- Ich danke(3) - bà ta nói khẽ, đoạn ngồi xuống trong tiếng lụa sột soạt. Chiếc áo dài màu xanh nhạt viền đăng-ten trắng của bà ta như một quả khinh khí cầu phồng tướng ra xung quanh ghế và choán đến gần nửa gian phòng. Mùi nước hoa sực nức. Nhưng bà ta hẳn lấy làm ngượng vì mình choán hết nửa phòng và mùi nước hoa của mình cứ bay lên ngào ngạt như vậy, bèn nở một nụ cười vừa bẽn lẽn vừa trâng tráo, nhưng rõ ràng là có ý lo ngại.
Cuối cùng người đàn bà mặc tang phục đã viết xong và đứng dậy. Vừa lúc ấy có một viên sĩ quan nện gót giầy bước vào, vẻ hiên ngang, cứ mỗi bước lại nhích vai một cái trông rất lạ mắt. Hắn vứt chiếc mũ lưỡi trai có đính phù hiệu lên bàn và ngồi vào ghế bành. Người đàn bà sang trọng trông thấy hắn lập tức đứng dậy, và với một vẻ hân hoan đặc biệt, nhún chân xuống chào; nhưng viên sĩ quan không mảy may để ý đến bà ta, còn bà ta thì bây giờ không còn dám ngồi xuống trước mặt hắn nữa. Đó là viên phó quận trưởng cảnh sát khu nầy. Hắn để hai chòm ria mép rất dài màu hung hung chĩa ngang ra hai bên; mặt có những nét rất thanh nhưng không có gì đặc biệt ngoài một vẻ hách dịch nào đó. Hắn nhìn Raxkonikov gườm gườm và phần nào có ý bực tức; chàng ăn mặc tồi tàn quá, và tuy tư thái của chàng đã nhũn nhặn nhưng vẫn không tương xứng với cách trang phục: Raxkonikov đã vô ý nhìn hắn quá thẳng và quá lâu khiến hắn phật ý.
- Anh kia muốn gì hả? - hắn quát, chắc lấy làm lạ rằng một tên khố rách áo ôm như thế mà lại không thèm quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn nảy lửa của hắn.
- Người ta đòi tôi đến… có trát… - Raxkonikov ấp úng trả lời.
- Đây là người sinh viên gọi đến về việc lá đơn đòi nợ - viên chánh văn phòng vội ngẩng đầu lên khỏi đống giấy nói. - Đây ạ? - Đoạn hắn đẩy về phía Raxkonikov một quyển vở và chỉ cho chàng một đoạn viết trên trang giấy, - Ông đọc đi?
"Tiền ư? Tiền gì nhỉ? - Raxkonikov nghĩ, - nhưng, như vậy tức là không phải chuyện ấy". Và chàng rùng mình lên vì mừng rỡ. Chàng bỗng thấy người nhẹ nhõm lạ lùng. Cả gánh nặng dè trĩu lên vai chàng đã bay biến đi đâu mất.
- Thế trong giấy mời ông đến vào lúc mấy giờ, thưa ông" - viên trung uý quát to, mỗi lúc một cáu tiết, chẳng hiểu vì chuyện gì. - người ta viết là chín giờ, thế mà bây giờ đã hơn mười một giờ rồi!
- Họ mới đưa lại cho tôi cách đây có mười lăm phút, - Raxkonikov dõng dạc nói chõ qua vai, trong lòng cũng đột nhiên thấy nổi giận lên một cách bất ngờ, và thậm chí còn cảm thấy phần nào thích thú trong cơn giận, - Thiết tưởng tôi đang ốm, đang lên cơn sốt thế nầy mà vẫn đến đây, như thế cũng đủ lắm rồi.
- Xin ông đừng có quát lên như thế!
- Tôi không quát, tôi nói rất từ tốn, chính ông quát tôi thì có; tôi là sinh viên, và không cho phép ai được quát tôi cả.
Viên phó quận trường nổi xung lên đến nỗi phút đầu không nói ra được câu nào, chỉ thấy môi hắn lắp bắp làm toé cả bọt ra. Hắn nhảy chồm lên.
- Ông im ng… nga… y! Ông đang ở nơi công đường. Xin ông đừng có v… vô lễ!
- ông cũng đang ở nơi công đường, - Raxkonikov quát lên, - thế mà không những ông quát tháo, ông lại còn hút cả thuốc lá nữa, chính ông vô lễ đối với chúng tôi - Nói xong câu ấy, Raxkonikov có một cảm giác khoái lạc không sao tả xiết.
Viên chánh văn phòng mỉm cười nhìn hai người.
Viên trung uý nóng tính có vẻ lúng túng. Mãi hồi lâu hắn mới rán sức quát lên thật to, giọng nghe rất gượng gạo.
- Đó không phải việc ông ông hãy chịu phiền cũng khai theo như người ta yêu cầu. Alekxandr Grigoryevich, đưa cho ông ấy xem. Người ta kiện ông đấy, ông không chịu trả tiền! Đẹp mặt chưa?…
Nhưng Raxkonikov không còn buồn nghe hắn nói nữa. Chàng háo hức cầm lấy tờ giấy, sốt ruột muốn tìm ngay ra manh mối. Chàng đọc đi đọc lại đến hai lần mà vẫn không hiểu.
- Cái gì thế nầy? - chàng hỏi viên chánh văn phòng.
- Đó là giấy đòi tiền thuê nhà. Một là ông phải trả số tiền còn nợ với tất cả những khoản bồi thường, phụ toán vân vân, hai là phải viết tờ khai cho biết đến bao giờ ông có thể trả, và đồng thời cam kết không ra khỏi kinh đô trước khi trả xong nợ, không bán chác hoặc giấu giếm tài sản của mình đi. Người chủ nợ có quyền đem phát mại tài sản của ông và xử lý với ông đúng luật pháp.
- Nhưng tôi… có nợ gì ai đâu!
- Cái đó thì không phải việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ biết là có nhận được một tờ phiếu hợp lệ nhận nợ số tiền thuê nhà là một trăm mười lăm rúp của ông trao cho bà quả phụ viên công chức bậc tám Zarnitxyn cách đây chín tháng, và bà quả phụ Zarnitxyn đã gán tờ giấy nầy cho quan tư vấn pháp đình Shebarov để thanh toán, cho nên sở gọi ông đến đây để trả lời về việc nầy.
- Nhưng bà ta là chủ trọ của tôi kia mà?
- Chủ trọ của ông thì có sao!
Viên chánh văn phòng nhìn chàng với một nụ cười thương hại và bề trên, đồng thời không khỏi có phần đắc chí như khi nhìn một anh chàng khờ khạo mới bắt đầu nếm mùi cay cực, ý như muốn nói: "Thế nào, bây giờ anh thấy trong người ra sao?". Nhưng chàng thì bây giờ có thiết gì, có hơi đâu mà đi để ý đến những thứ tín phiếu, những việc kiện tụng ấy? Những thứ ấy làm sao có thể đáng cho chàng lo lắng, hay dù chỉ để ý đến thôi cũng vậy! Chàng đứng đấy, đọc, nghe, trả lời vả lại còn hỏi nữa, nhưng tất cả những việc ấy chàng đều làm như cái máy. Giờ phút nầy, tất cả con người chàng đang tràn ngập nỗi hân hoan của bản năng tự vệ đắc thắng, của kẻ vừa thoát ra khỏi mối nguy cơ đang nặng trĩu trên mình; chàng không hề lo xa, phân tích, không hề hình dung những cách đặt và giải quyết những vấn đề sau nầy, không hề nghi ngờ, thắc mắc.
Đó là một giây phút vui sướng trọn vẹn, tự nhiên, thuần tuý thú vật. Nhưng vừa lúc ấy ở sở cảnh sát bỗng diễn ra một cơn giông tố. Viên trung uý, hãy đang giận run lên về thái độ vô lễ của Raxkonikov và hẳn là muốn cứu vãn lại uy thế, hầm hè xông vào xỉ vả người "đàn bà sang trọng" đáng thương kia, nây giờ vẫn nhìn hắn với nụ cười hết sức ngờ nghệch.
- Còn mụ nữa, đồ ** rạc! - hắn bỗng gân cổ hét tướng lên người đàn bà mặc tang phục đã ra ngoài - Đêm qua, ở đằng nhà mụ có chuyện gì thế hả? Lại những việc nhơ nhuốc bậy bạ làm toáng cả phố lên. Lại rượu chè, lại ẩu đả. Muốn vào nhà pha trừng giới lắm phỏng? Ta đã nói với mụ, ta đã báo trước hàng mười lần cho mụ biết rằng đến lần thứ mười một ta không dung tha nữa đâu? Thế mà mụ lại chứng nào tật ấy, cái đồ ** rạc!
Raxkonikov kinh ngạc đến nỗi tờ giấy buột ra khỏi tay chàng rơi xuống đất. Chàng ngơ ngác nhìn người đàn bà sang trọng đang bị xỉ vả không chút kiêng dè; nhưng chỉ một lát sau chàng chợt hiểu và còn đâm ra thích thú với chuyện nầy nữa là khác. Chàng lắng nghe một cách khoái trá, thậm chí còn muốn cười to lên, cười to lên nữa… Dường như bao nhiêu dây thần kinh của chàng đều rung lên bần bật.
- Ilya Petrovich! - viên chánh văn phòng lo lắng gọi, nhưng rồi phải dừng lại đợi lúc khác, bởi vì kinh nghiệm bản thân đã cho hắn biết rằng viên trung uý nóng nảy đã sôi sục lên rồi thì không còn cách gì ngăn hắn lại nữa.
Về phần người đàn bà sang trọng thì thoạt tiên còn run sợ cuống quít trước cơn sấm sét ấy; nhưng lạ thay, những câu chửi bới càng dôn dập và càng dữ dội, thì vẻ mặt bà ta lại càng hoà nhã, nụ cười của bà hướng về phía viên trung uý hung dữ kia lại càng thêm duyên dáng. Bà ta cứ nhấp nhỏm tại chỗ, nhún chân liên tiếp sốt ruột đợi người ta cho phép mình thưa lại. Cuối cùng, dịp ấy đã đến.
- Thưa ông tại uý, ở nhà tôi có đánh nhau ầm ĩ gì đâu - bà ta bỗng tuôn ra một tràng như trút đồ, giọng Đức rất nặng, tuy bà ta nói tiếng Nga liến láu - và khôông hề có chuyện gì pậy pạ cả, họ uống rượu ở tâu say khuốt rồi kéo tến, tôi xin kể hết tế ôông rõ. Ôông tại uý ạ tôi khôông có tội tìn gì, nhà tôi là nhà tử tế, thưa ôông tại uý, tều là chỗ tứng tắn cả, và pản thân tôi khôông pao giờ muốn có chuyện gì pậy pạ. Thế nhưng họ uống rượu say mèm rồi kéo tến, lại tôi thêm pa chai nữa, rồi một người dơ hai chân lên tênh duông cầm pằng chân, fào nhà tủ tế mà làm như ráy thật không tốt. Hắn tập fỡ cả tàn duông cầm, fà tôi có pảo hắn là như fậy khôông còn ra cái thế thôống gì nữa. Thế là hắn fơ lấy một chai rượu tánh vào tít mọi nguồi. Tôi pèn kọi ngay pác kác còông, Kan mới tến, thế là hắn cầm lấy Karl ténh dập con mắt, Henriet hắn cũng ténh dập con mắt, còn tôi thì hắn ténh cái má năm lần. Thua ôông tại uý, fào nhà tù tế mà làm như fậy thật là pất lật sự, thế tôi mới la lên. Hắn liền mở cửa sổ trôông ra kến tào và rôống lên the thé nhu con lộn con, thật là xấu hồ. Ai tời lại chõ mồm ra phố mà hét lên nhu con lộn con nhu thế pao giờ? Húi, húi, húi? Kan mới nắm lấy tuổi áo hắn mà kéo và quả tìn, thua ôông tại uý, có làm réch mất áo Rock. Thế rồi hắn la lên là phỉ tền cho hắn muồi lăm rúp. Thật là một nguồi khéch khôong tủ tế, thua ôông tại uý, làm tủ những trò pậy pạ! Hẳn pảo là sẽ fiết một pài páo tả kít ôông, páo nào hắn cũng quen, muốn fiết gì fề ôông thì fiết.
- Thế thì hắn là một nhà văn à?
- Thưa phải ạ, và thưa ỏông tại uý, fào nhà tủ tế mà như rậy thật ià pất lịt sự!
- Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi! Ta đã nói với mụ, ta đã nói là…
- Ilya Petrovich! - viên chánh văn phòng lại nói, giọng đầy ý nghĩa. Viên trung uý liếc nhanh về phía hắn: hắn sẽ gật đầu.
- Đây thì thưa bà Laviza Ivanovna kính mến, đây là lời dặn cuối cùng của tôi, và lần nầy là lần cuối cùng đấy nhé, viên trung uý nói tiếp. - Nếu trong cái nhà tử tế của bà mà còn xảy ra chuyện bậy bạ như thế một lần nữa thôi, tôi sẽ cho bà nếm mùi nhà pha ngay, như trong giọng văn quý phải vẫn nói. Bà nghe ra chưa?
- Thế ra nhà văn kia đã lấy của cái "nhà tứ tế" ấy năm rúp tiền đền áo. Đấy, các nhà văn là thế đấy! - hắn vừa nói vừa ném một cái nhìn khinh bỉ về phía Raxkonikov. - Hôm kia trong một quán rượu còn xảy ra một chuyện như thế nầy nữa: có một lão vào ăn uống no nê rồi không muốn trả tiền; đòi thì lão nói: "Tôi sẽ cho lên báo một bài đả kích nhà người về việc nầy". Trên tàu thuỷ tuần trước cũng có một lão nhà văn dùng đủ những danh từ tục tĩu thoá mạ vợ và con gái một ông tư vấn quốc gia đáng kính. Hôm trước người ta đã phải tống cổ một tên như thế ra khỏi cửa một hiệu bánh kẹo đấy. Đấy cái bọn nhà văn, nhà báo, sinh viên, cái bọn mồm loa mép giải ấy là như thế đấy… xì! Thôi mụ kia xéo đi! đi! Ta sẽ để ý theo dõi… liệu hồn. Nghe ra chưa?
Luyza Ivanovna đon đả nhún mình chào tứ phía, vừa chào vừa đi thụt lùi ra cửa, nhưng vừa đến cửa thì vấp lưng phải một viên sĩ quan đẹp trai có khuôn mặt cởi mở tươi tắn vôi bộ râu rậm tuyệt mỹ màu vàng óng. Đó chính là Nikodim Phomits, viên quận trưởng cảnh sát.
Luyza Ivanovna vội vàng cúi mình chào đến gần sát đất và nhún nhảy từng bước ngắn chạy vụt ra ngoài.
- Lại sấm sét, bão tố, cuồng phong? - Nikodim Phomits thân mật và ôn tồn nói với Ilya Petrovich - lại bị quấy rầy trêu tức, lại sôi sục lên rồi! Vừa vào đến cầu thang tôi đã nghe thấy tiếng.
- Biết làm thế nào được? - Ilya Petrovich nói, giọng lơ đãng một cách đài các, vừa nói vừa cầm mấy tệp giấy tờ đi sang bàn bên, cứ mỗi bước lại nhích vai lên một cái trông rất ngoạn mục.
- Đây, xin ngài thấy cho: ngài văn sĩ đây, - tức ngài sinh viên nầy, hay nói cho đúng hơn, là ngài cựu sinh viên nầy, không trả tiền, ký những tờ tín phiếu và không chịu cuốn gói ra khỏi nhà trọ, người ta gửi đơn kiện không ngớt ấy thế mà ngài lại còn có nhã ý khiếu nại là tôi đã dám hút thuốc trước mặt ngài! Ngài còn tỏ ra khiếm nhã gấp mấy, đây xin ngài đại uý thứ nhìn xem: dáng vẻ ngài đã hấp dẫn chưa!
- Nghèo không phải là xấu, anh bạn ạ, nhưng làm thế nào được! Ai cũng biết là thuốc súng không đời nào chịu để ai lăng nhục: Chắc ông lại có điều gì bực mình với trung uý và không tự kiềm chế được chứ gì - Nikodim Phomits ôn tồn nói tiếp với Raxkonikov, - nhưng ông làm như vậy là không phải: trung uý đây là một người hết sức cao quý, nhưng tính như thuốc súng, như thuốc súng! Cứ bùng lên, sôi lên, cháy phụt lên - rồi mất biến! Xong là hết! Rốt cục chỉ còn lại một tấm lòng vàng! Cho nên trong binh đoàn mới đặt cho ông ta cái biệt hiệu "trung uý thuốc súng"…
- Mà đây có phải là một binh đoàn thường đâu?
Ilya Petrovich thốt lên, rất hài lòng vì được mơn trớn dễ chịu như vậy, nhưng vẫn chưa nguôi hết cơn giận.
Raxkonikov bỗng thấy muốn nói với hắn một câu gì thật hoà nhã.
- Đại uý cứ thử nghĩ mà xem, - chàng quay về phía Nikodim Phomits mở đầu, giọng rất ung dung. - đại uý cứ thử đặt mình vào tình cảnh tôi xem… Tôi rất sẵn lòng xin lỗi ngài trung uý, nếu về phần tôi đã có gì sơ xuất đối với ngài. Tôi là một sinh viên nghèo và đau ốm, luôn bị cảnh túng bần giầy vò - chàng dùng đúng chữ "giầy vò". - Tôi là cựu sinh viên, bởi vì hiện nay tôi không có cách gì sinh sống, nhưng tôi sẽ nhận được một số tiền… Tôi có người mẹ và người em gái ở trấn X… Họ sẽ gửi tiền cho tôi, và tôi sẽ trả. Bà chủ trọ của tôi là một người tốt, nhưng bà ấy thấy tôi mất chỗ dạy học và bốn tháng liền không trả được tiền trọ nên đã oán giận tôi đến nỗi thậm chí cũng không thèm dọn cho tôi ăn nữa… Và tôi không thể nào hiểu được cái tín phiếu ấy là thế nào. Bây giờ bà ấy căn cứ vào tờ tín phiếu ấy để bắt tôi trả tiền, ngài cứ thử nghĩ xem…
- Nhưng đó có phải việc chúng tôi đâu… - viên chánh văn phòng lại nói.
- Xin phép, xin phép ngài, tôi hoàn toàn đồng ý với ngài, nhưng cũng xin ngài cho phép tôi được giãi bày, - Raxkonikov lại tiếp, chàng không nói với viên chánh văn phòng mà vẫn chỉ nói với Nikodim Phomits, nhưng cũng cố hết sức quay về phía Ilya Petrovích mặc dầu hắn cứ một mực làm ra vẻ như đang cắm cúi xem đống giấy tờ, không thèm chú ý đến chàng, - về phần tôi tôi xin phép giãi bày rằng tôi trọ ở nhà bà ta đã hơn ba năm nay, mãi từ hồi tôi mới ở quê lên và trước tiên… trước tiên… vả chăng việc gì tôi lại không thú nhận rằng ngay từ đầu tôi đã có lời hứa là sẽ lấy con gái bà ta, một lời hứa miệng, hoàn toàn không có gì ràng buộc… Đó là một người con gái mà, dù sao tôi cũng có chút cảm tình với cô ta… tuy cũng chẳng phải yêu đương gì, nói tóm lại, tuổi trẻ, nghĩa là tôi muốn nói rằng hồi ấy bà chủ trọ đối với tôi rất rộng rãi về mặt tiền nong, và tôi sinh hoạt có phần… hồi ấy tôi nhẹ dạ lắm.
- Chúng tôi tuyệt nhiên không đòi hỏi những lời tâm sự như thế, thưa ngài, vả chăng cũng không có thì giờ, - Ilya Petrovích ngắt lời một cách thô lỗ, vẻ đắc thắng, nhưng Raxkonikov hăm hở cướp lời nói tiếp, tuy bây giờ chàng chợt thấy hết sức khó nói.
- Nhưng cứ xin các ngài cho phép tôi kể hết… mọi việc và về phần tôi… tuy cũng xin thừa nhận rằng kể như vậy là thừa. Nhưng cách đây một năm người con gái ấy chết vì bệnh thương hàn, còn tôi thì vẫn ở trọ như cũ, và khi dọn sang ở căn nhà hiện nay, bà chủ có nói với tôi, như chỗ thân tình… rằng bà hoàn toàn tin cậy ở tôi, nhưng giá tôi vui lòng viết cho bà một tờ tín phiếu một trăm mười lăm rúp tức tất cả số tiền mà bà coi là tôi còn nợ của bà, thì tốt hơn. Xin các ngài hiểu cho: chính bà ta nói rằng hễ tôi viết cho bà tờ giấy ấy, bà lại sẽ cho tôi nợ bao nhiêu cũng được và về phần bà sẽ không bao giờ, không bao giờ, - đó là nguyên văn lời bà, - dùng đến tờ giấy ấy, bà cứ để cho tôi tự ý trả dần… Thế mà bây giờ, đến khi tôi đã mất chỗ dạy học và không có gì ăn nữa, bà lại đem ra kiện tụng… Tôi còn biết nói thế nào được?
- Xin ngài vui lòng hiểu cho rằng tất cả những tình tiết lâm ly ấy đều không có dính dáng đến chúng tôi - Ilya Petrovích xấc xược cắt ngang - ngài phải ký giấy nhận nợ và giấy cam kết, còn như chuyện ngài có yêu đươngvhay không yêu đương, và những nỗi niềm bi đát của ngài, thì chúng tôi tuyệt nhiên không cần biết đến - Kìa sao anh… phũ phàng thế… - Nikodim Phomits vừa lẩm bẩm vừa ngồi vào bàn và cũng bắt đầu hí hoáy viết. Hắn tự dưng thấy ngường ngượng.
- Ông viết đi, - Viên chánh văn phòng nói với Raxkonikov.
- Viết gì? chàng đáp, giọng rất xẵng.
- Tôi sẽ đọc cho mà viết.
Raxkonikov có cảm giác viên chánh văn phòng đối xử với chàng có vẻ khinh thị hơn sau khi nghe những lời tâm sự vừa rồi, và lạ thay, chàng bỗng thấy mình hoàn toàn không còn thiết gì đến bất cứ quan niệm của ai đối với mình nữa; sự chuyển biến ấy diễn ra chỉ trong một nháy mắt. Ví thử chàng chịu suy nghĩ một chút, Raxkonikov dĩ nhiên sẽ lấy làm lạ rằng trước đấy một phút mình đã có thể nói như vậy và hơn nữa lại phô bầy cả tình cảm mình ra. Mà những tình cảm ấy thì lấy ở đâu ra? Bây giờ thì ngược lại, giả sử những người ngồi trong phòng nầy không phải là những tên cảnh binh mà là những người bạn thân nhất của chàng, thì chắc chàng cũng không tìm ra được lấy một lời chân tình để nói với họ: lòng chàng bỗng dưng thấy trống hoác ra. Chàng có ý thức rõ rệt rằng một cảm giác nặng nề, xót xa về nỗi cô đơn, lạc lõng không bờ bến của mình, bỗng nhiên đã tràn ngập tâm hồn chàng.
Tâm trạng chàng xoay ngược hẳn lại như vậy không phải vì chàng thấy rõ sự hèn hạ của những lời thổ lộ tâm tình trước Ilya Petrovích hay cái vẻ đắc chí hèn hạ của viên trung uý. Ô, bây giờ thì chàng còn thiết gì đến sự hèn hạ của bản thân, đến tất cả những trò ganh đua hiếu thắng, những thứ trung uý, đại uý, ** bợm, tín phiếu, kiện tụng, vân vân, vân vân. Giả sử bọn họ có ra lệnh đem chàng lên giàn hoả hành hình ngay lúc ấy thì hẳn chàng cũng không hề nhúc nhích, thậm chí còn nghe lời tuyên án ấy một cách lơ đãng nữa là khác.
Trong người chàng đang diễn ra một quá trình mới lạ, đột ngột, chưa từng thấy. Không phải chàng hiểu, mà chính là chàng có cảm giác hết sức rõ rệt rằng mình không còn có thể thổ lộ tâm tình như lúc nãy đã đành, nhưng cũng không thể nào nói bất cứ chuyện gì với những kẻ ngồi trong phòng giấy cảnh sát nầy, và dù họ có là anh em ruột thịt của chàng chăng nữa, thì chàng cũng tuyệt nhiên không lý gì phải đi nói chuyện với họ, dù trong trường hợp nào cũng vậy; kể cho đến phút nầy chàng chưa từng bao giờ có một cảm giác kỳ dị và khủng khiếp đến thế. Và xót xa hơn cả, đây lại là một cảm giác nhiều hơn là một ý thức, một khái niệm; một cảm giác trực tiếp, cái cảm giác đau đớn nhất mà chàng đã trải qua từ trước đến nay.
Viên chánh vãn phòng bắt đầu đọc cho chàng viết giấy nhận nợ theo công thức thường lệ, nghĩa là tôi chưa thể trả nợ được, tôi xin hứa đến ngày nọ ngày kia sẽ trả, tôi cam kết không ra khỏi thành phố, không đem tài sản đi bán, đi cho…
- Nhưng ông không đủ sức để viết nữa kìa, bút cứ tuột ra khỏi tay, - viên chánh văn phòng nói, mắt tò mò nhìn Raxkonikov. - Ông ốm à?
- Vâng… tôi thấy chóng mặt… Ông đọc tiếp đi!
- Thôi hết rồi, ông ký tên cho.
Viên chánh văn phòng cầm lấy tờ giấy và quay ra giái quyết các việc khác. Raxkonikov trá cây bút, nhưng đáng lẽ phải đứng dậy ra về, thì chàng lại chống khuỷu tay lên bàn và giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng có cảm giác như bị ai đóng đinh vào đinh sọ. Chàng bỗng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: đứng ngay dậy, đến cạnh Nikodim Phomits và kể cho hắn nghe tất cả những việc đã xảy ra hôm qua, kể cặn kẽ cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, rồi đưa hắn về buồng mình và chỉ mớ đồ đạc giấu trong góc buồng, trong cái lỗ thủng. Ý muốn ấy mạnh đến nỗi chàng đã đứng dậy toan thi hành ngay. "Hay để nghĩ qua một chút đã. Không, tốt hơn hết là đừng nghĩ gì hết, nhắm mắt mà làm!" Nhưng chàng bỗng đứng đực ra như đóng dinh tại chỗ: Nikodim Phomits đang nói gì rất hăng với Ilya Petrovich, và chàng nghe loáng thoáng:
- Không thể được, phải thả cả hai ra. Thứ nhất là vì tất cả những việc ấy đầy rẫy những mâu thuẫn; anh thứ nghĩ xem: việc gì họ lại đi gọi người gác cổng, nếu chính họ là thủ phạm? Để tự tố giác mình hay sao? Hay là để đánh lạc hướng? Không phải, nếu thế thì quỷ quyệt quá chừng! Và cuối cùng là người gác cổng và một mụ lái buôn có trông thấy tên sinh viên Pextriakov ngay khi hắn vào: hắn đi với ba người bạn và chia tay với họ ngay ở cổng vào, rồi lại hỏi thăm chỗ ở ngay khi bọn kia còn đứng đấy. Chả nhẽ đi làm một việc như thế mà lại còn hòi chỗ ở? Còn như tên Koch thì trước khi đến nhà mụ già đã ngồi ở nhà lão thợ bạc ở tầng dưới đến nửa tiếng đồng hồ và đúng tám giờ kém mười lắm mới từ đó lên phòng mụ già ở trên gác. Bây giờ ông thử nghĩ xem…
- Nhưng khốn nỗì lời khai của họ có chỗ mâu thuẫn như sau: họ quả quyết rằng họ có đập cửa và cánh cửa đóng kín, thế mà ba phút sau, khi đi lên với người gác cổng, thì lại thấy cửa mở?
- Vấn đề là ở chỗ đó: chắc chắn hung thủ đang ở trong nhà và chốt cửa lại; và chắc chắn sẽ tìm thấy hắn ở đấy, nếu cái thằng cha Koch kia không dại dột bỏ xuống nhà tìm người gác cổng. Chính trong khoảng thời gian ấy hắn đã có đủ thì giờ xuống thang gác và làm thế nào lọt qua mắt họ. Lão Koch thì cứ làm dấu thánh lia lịa, lão nói: "Ví thử tôi đứng lại đấy thì hắn đã nhảy xổ ra bổ rìu vào đầu tôi mất rồi". Hắn đang muốn làm lễ tạ ơn chúa đấy. Hê - hê - hê!
- Thế không ai trông thấy hung thủ à?
- Thì trông thấy thế nào được? Cái nhà ấy như cái vườn bách thú ấy mà, - viên chánh văn phòng, nãy giờ ở bàn lắng tai nghe, buông một lời nhận xét.
- Sự việc rõ lắm rồi, rõ lắm rồi! - Nikodim Phomits hăm hở nhắc đi nhắc lại.
- Không, sự việc chẳng rõ tý nào đâu, - Ilya Petrovich khẳng định.
Raxkonikov cầm lấy mũ và đi ra cửa, nhưng chàng không ra được đến cửa… Khi chàng tỉnh dậy thì thấy mình ngồi trên một chiếc ghế, bên phải có một người nào đang đứng đỡ chàng, bên trái có một người khác cầm một cái cốc màu vàng đựng đầy một chất nước gì vàng vàng, Nikodim Phomits thì đứng trước mặt chàng và đang nhìn chàng chòng chọc; chàng đứng dậy.
- Sao thế, ông ốm à? - Nikodim Phomits hỏi, giọng hơi xẵng.
- Khi ký giấy ông ấy cầm bút đã không nổi rồi,- viên chánh văn phòng vừar nhận xét vừa ngồi vào bàn và tiếp tục lục soạn giấy tờ.
- Ông ốm đã lâu chưa? - Ilya Petrovich cũng đang ngồi soạn giấy tờ ở bàn mình, quát chõ ra. Dĩ nhiên hắn cũng đã đến xem xét Raxkonikov khi chàng ngất đi nhưng đã lập tức lảng ra khi thấy chàng tỉnh dậy.
- Từ hôm qua… - Raxkonikov lắp bắp trả lời.
- Thế hôm qua ông có ra khỏi nhà không?
- Có!
- Trong khi đang ốm?
- Trong khi đang ốm!
- Lúc mấy giờ?
Hơn bảy giờ tối.
- Xin hỏi ông đi đâu như thế?
- Ra phố.
- Thật là gọn và rõ.
Raxkonikov trả lời rất xẵng, dằn từng tiếng một, mặt trắng nhợt như tờ giấy, hai con mắt đen nổi tia máu nhìn thẳng vào mặt Ilya Petrovich.
- Ông ấy đứng không vững nữa, thế mà anh… - Nikodim Phomits nhận xét.
- Không sao! - Ilya Petrovich nói, giọng nghe rất khác thường. Nikodim Phomits còn muốn nói thêm một câu gì nữa, nhưng sau khi đưa mắt về phía viên chánh văn phòng lúc bấy giờ cũng nhìn chàng không chớp, lại thôi. Ai nấy bỗng lặng thinh. Trong phòng im lặng một cách kỳ lạ.
- Thôi được - Ilya Petrovich kết luận, - Ông có thể về.
Raxkonikov đi ra. Chàng còn có đủ thì giờ nghe thấy tiếng bàn tán xôn xao nói lên khi chàng vừa ra khỏi cửa: nghe rõ nhất là giọng nói có ý dò hỏi của Nikodim Phomist… Ra đến phố chàng tình hẳn lại.
"Khám nhà, khám nhà, chúng sẽ khám nhà ngay bây giờ? - chàng tự nhủ trong khi rảo bước cho chóng về đến buồng, - quân kẻ cướp! Chúng nó nghi ngờ!"
Cảm giác lo sợ lúc nãy lại luồn vào khắp người chàng, từ đầu đến chân.

Chú thích:
(1) Xin bạn đọc lưu ý rằng sự việc xảy ra ở Petersburg, vào mùa hè, tiết nầy, đêm ở Petersburg là "đêm trắng" không có mặt trời nhưng vẫn sáng.
(2) Những người gác cổng hàng ngày phải đến sở cảnh sát bẩm báo.
(3) Xin cảm ơn (tiếng Đức)

Chương 8

Phần II



"Nếu chúng đã khám rồi thì sao? Nếu bây giờ về vừa gặp chúng ngay ở nhà mình thì sao?".
Nhưng đã đến buồng chàng đây rồi. Không có gì, không có ai hết; không có ai dòm ngó vào đây cả, ngay đến Naxtaxia cũng không hề bén mảng tới. Nhưng trời! Làm sao lúc nầy chàng lại có thể để tất cả những thứ ấy trong cái lỗ thủng kia?
Chàng đâm bổ vào góc nhà, thò tay xuống dưới lần giấy lấy các thứ giấu trong lỗ nhét vào túi. Cả thảy có tám cái: hai cái hộp con đựng hoa tai hay một thứ gì như thế - chàng cũng không nhìn rõ nữa; rồi đến bốn cái bao nhỏ bằng da dê, một sợi dây chuyền bọc giấy báo, và một vật gì nữa không rõ, hình như một tấm huân chương, cũng bọc giấy báo.
Chàng đút hết vào các túi áo khoác, vào túi quần bên phải còn nguyên vẹn, cố sao cho thật khó trông thấy. Cái bóp tiền chàng cũng gộp làm một với các thứ kia. Rồi chàng ra khỏi phòng, lần nầy cứ để cửa mở toang.
Chàng bước nhanh nhẹn, quà quyết, và tuy cảm thấy chân tay rời rã ra, chàng vẫn tỉnh táo. Chàng sợ bị truy bắt, chàng sợ rằng nửa giờ sau, hay mườilăm phút sau đã có lệnh theo dõi chàng; vậy thì phải tìm đủ cách để phi tang trước đi: Cần phải làm cho xong trong khi thân thể hãy còn chút nào sức lực, trí óc hãy còn chút nào minh mẫn… Nhưng đi đâu bây giờ!
Điều đó đã được giải quyết từ lâu: "Vứt tất xuống kênh đào, thế là phi tang, và vụ nầy sẽ kết thúc". Chàng đã quyết định như vậy ngay từ đêm qua, trong cơn mê sảng, chàng còn nhớ rõ là đúng vào khi chàng toan nhổm dậy mấy lần: "Nhanh lên, nhanh lên, đi mà vứt hết đi". Nhưng bây giờ mới biết là vứt đi như thế rất khó.
Chàng đi lang thang dọc theo bờ kênh Ekaterina đã nửa giờ rồi, có lẽ còn lâu hơn nữa, và đã mấy lần mỗi khi đi ngang bên chàng lại nhìn những bậc tam cấp dần xuống lòng kênh. Nhưng không thể nào nghĩ đến chuyện thực hiện ý định được: hoặc có những cái bè đỗ ngay ở lối xuống, và trên bè những người thợ giặt đang giặt quần áo, hoặc có những chiếc thuyền buộc vào bờ, và nơi nào cùng nhan nhản những người, vả lại xung quanh đấy, dọc theo bờ kênh, đứng chỗ nào người ta cũng có thể nhìn thấy, có thể chú ý được: tự dưng lại có người cố ý đi xuống bến, dừng lại rồi bỏ một cái gì xuống nước thi khả nghi lắm. Thế rồi nhỡ ra mấy cái hộp kia không chìm mà lại nối lềnh bềnh trên mặt nước thì sao? Mà chắc chắn là phải như thế!
Bất cứ người nào cũng có thể trông thấy. Cứ thế nầy thôi, khi gặp chàng ai nấy cũng đã nhìn ngó như thể xưa nay chỉ chú ý đến chàng. "Không hiểu tại sao họ lại nhìn như thế". Hay có lẽ đó chỉ là cảm giác của mình - chàng băn khoăn tự hỏi.
Cuối cùng chàng nghĩ có lẽ nên đi ra mạn sông Neva thì hơn. Ở đây vắng hơn, và khó có người trông thấy hơn, dù sao thì ở đấy cũng thuận lợi hơn, và nhất là xa chỗ chàng ở hơn. Rồi chàng bỗng ngạc nhiên: làm sao chàng lại có thể đi lang thang suốt hàng nửa tiếng đồng hồ trong khi đang lo sợ như vậy ở những nơi nguy hiểm nầy mà không nghĩ ra từ trước? Chàng phí mất nửa giờ đồng hồ làm một việc vô lý như vậy cũng chỉ vì trong khi mê sảng chàng đã có lần quyết định như thế! Dạo nầy chàng đâm ra đãng trí, hay quên lạ lùng, và chính chàng cũng biết thế. Nhất định phải làm gấp!
Chàng theo đại lộ V., đi ra sông Neva, nhưng dọc đường một ý nghĩ lại vụt hiện đến: "Tại sao lại ra sông Neva, tại sao lại phải vứt xuống nước? Sao lại không tìm một nơi nào cho thật xa, trên các đảo chẳng hạn, và đến một chỗ nào thật vắng: một khóm cây hay một bụi rậm, chôn các thứ ấy xuống rồi đánh dấu vào thân cây chẳng hạn, có phải hơn không". Và lúc bấy giờ tuy chàng thấy mình không đủ sức suy tính cho rõ ràng và tỉnh táo, chàng cũng có cảm giác rằng đó là một ý nghĩ đúng đắn.
Nhưng rồi rốt cục chàng cũng không đi đến các đảo sự việc xảy ra khác hẳn: khi từ đại lộ V., ra đến một quảng trường, chàng bỗng trông tháy ở bên trái có một lối đi dẫn vào khoảng sân xung quanh có tường rào bao bọc kín mít. Ở bên phải, sát ngay lối vào và kéo dài cho đến tận cuối sân là bức tường của ngôi nhà bốn tầng ở bên cạnh, không trổ cửa sổ, không quét vôi. Ở bên trái, song song với bức tường kín và cũng sát bên cổng vào, có một dẫy hàng rào gỗ chạy sâu vào khoảng hai mươi bước rồi bé quặt sang trái. Đó là một khoảng đất trống ngổn ngang những vật liệu bỏ đi. Xa hơn, mãi tận cuối sân, ở bên kia tường có thể thấy góc mái một cái nhà kho bằng đá thấp lụp xụp, ám khói đen xì, có lẽ thuộc một xưởng thợ nào đấy. Chắc hẳn trước kia ở đây có đặt một xưởng đóng xe, làm khoá hay là một cái gì tương tự; hầu như ngay từ cổng vào, nơi nào cũng thấy đen xì những bụi than. "Đây rồi, phải vứt vào đây rồi bỏ đi". Raxkonikov chợt nghĩ.
Không thấy ai trong sân, chàng bước vào cổng và chợt thấy ngay sát cổng có một cái ống máng lắp vào tường như vẫn thường thấy ở những nhà có nhiều thợ thuyền, phu xe v.v… và ở khoảng tường phía trên ống máng thấy có mấy chữ viết bằng phấn: "Cấm đứng đái chỗ nầy". Như vậy càng tốt, chẳng ai có thể nghi ngờ chàng đã ghé vào đây. "Phải vứt hết lại đây thành một đống và bỏ đi".
Chàng đưa mắt nhìn quanh một lần nữa, và đã định thọc tay vào túi, thì chợt trông thấy ngay ở chân tường ngoài, giữa cái cổng và cái ống máng cách nhau không đầy một thước, có một tảng đá lớn không đẽo gọt gì, có lẽ nặng tới pút rưỡi, đặt sát vào chân hốc tường đá. Bên kia bức tường ấy là hè phố; đứng trong sân có thể nghe thấy tiếng chân bước của những người qua đường thưa thớt; nhưng ở ngoài đường nhìn vào không thể trông thấy chàng được, trừ khi có ai ghé vào đây. Vả chăng điều đó rất có thể xảy ra, cho nên cần phải làm gấp.
Chàng cúi xuống giơ hai tay nắm thật chắc lấy phần trên tấm đá, lấy hết sức lực lật ngửa nó ra. Ở dưới tảng đá đất lõm xuống thành một cái hốc trũng; chàng lập tức trút hết các thứ ở trong túi vào đấy. Cái bóp tiền nằm ở trên cùng, thế nhưng trong hốc vẫn còn chỗ. Xong đâu đấy chàng lại ôm tảng đá lật lại, nó nằm vừa vặn vào chỗ cũ, chỉ hơi nhô cao lên hơn trước một chút. Nhưng chàng bới đất xung quanh và lấy chân đắp vào cạnh rìa hòn đá. Không còn trông thấy gì khả nghi nữa.
Chàng ra phố và đi về phía quảng trường. Một niềm vui sướng mãnh liệt, hầu như không sao chịu nổi, lại tràn vào lòng chàng trong giây lát. "Thế là phi tang! Ai lại có thể nảy ra cái ý đến tìm ở dưới tảng đá ấy bao giờ? Có lẽ nó nằm đấy từ hồi mới xây nhà, và sẽ còn nằm đấy bấy nhiêu lâu nữa. Mà dù có tìm thấy, thì có ai đi ngờ cho mình? Thế là xong! Mất hết tang chứng!" - và chàng phá lên cười. Phải, về sau chàng nhớ lại rằng lúc ấy chàng đã rũ ra cười nấc lên từng cơn lặng lẽ ngắn hơi và cười mãi hồi lâu, suốt trong thời gian chàng đi qua quảng trường. Nhưng khi chàng rẽ vào đại lộ K, nơi mà hôm kia chàng gặp người con gái say rượu, trận cười của chàng vụt tắt. Những ý nghĩ khác len vào đầu chàng. Chàng lại chợt có cảm tường rằng mình sẽ thấy ghê tởm khi đi qua chiếc ghế dài mà chàng đã ngồi suy nghĩ sau khi người con gái bỏ đi, và cùng sẽ thấy khó chịu hết sức nếu gặp lại người cảnh binh có bộ ria mà hôm ấy chàng đã trao cho hai mươi cô-pếch. "Ma bắt nó đi cho raảh!".
Chàng bước đi, mắt nhìn hai bên một cách lơ đãng và hằn học. Bấy giờ bao nhiêu ý nghĩ của chàng đều xoay quanh một điểm chính nào đó, chàng cũng cảm thấy rằng đó quả là điểm chính, và bây giờ, chính lúc nầy đây, chàng còn lại một mình đối diện với cái điểm chính ấy, lần đầu tiên trong suốt hai tháng vừa qua.
"Thôi kệ mẹ nó! - chàng bỗng nghĩ trong cơn tức giận điên cuồng. - Đã bắt đầu rồi à, thì cứ bắt đầu; cuộc sống mới ư? Mặc cho nó đi về nhà mà! Trời ơi, sao lại có những chuyện ngớ ngẩn đến thế!… Hôm nay mình đã nói dối và làm những việc thật hèn hạ! Mình đã quỳ gối một cách ô nhục trước mặt cái thằng Ilya Petrovich đê mạt ấy! Nhưng đó cũng toàn là chuyện nhảm hết! Nhổ toẹt vào tất cả bọn chúng nó, mà cũng cần quái gì nghĩ đến chuyện mình có quỳ gối hay không quỳ gối. Vấn đề không phải ở đấy! Không phải ở đấy chút nào!…
Bỗng chàng dừng lại; một câu hỏi mới, hoàn toàn bất ngờ và hết sức đơn giản chợt nảy ra, khiến chàng rối trí và kinh ngạc một cách chua xót: "Nếu quả tất cả những việc đó đều làm một cách có ý thức chứ không phải làm hú hoạ, nếu mày quả có một mục đích rõ ràng và vững chắc, thì làm sao mãi cho đến bây giờ mày vẫn không hề nhìn vào cái ví tiền và không biết việc nầy đã đưa lại cho mày những gì, Vì đâu mà mày chịu khổ chịu sở và bắt tay vào một việc hèn hạ, xấu xa, bỉ ổi như thế? Vừa rồi mày muốn vứt hết xuống nước, cả cái ví tiền lẫn các thứ khác mà, thậm chí mày cũng chưa mở ra xem nữa… sao lại có thể như thế?"
Phải, đúng như thế, hoàn toàn đúng như thế. Vả chăng trước kia chàng cũng đã biết thế, và đây hoàn toàn không phải là một vấn đề mới mẻ gì đối với chàng; thế mà đêm qua, khi quyết định vứt xuống nước, chàng đã quyết định không hề phân vân, lưỡng lự, cứ như thể tất nhiên phải như thế, không thể nào khác đi được… phải, chàng biết hết những điều đó và nhớ hết; mà hầu như việc đó đã được quyết định ngay từ hôm qua, ngay khi chàng ngồi bên cái rương lấy các thứ ở trong rương ra… Ra thế đấy…
"Đó là vì mình đang ốm nặng, - cuối cùng chàng quả quyết tự nhủ, - chính mình dày vò, hành hạ mình, và chính mình không biết mình đang làm gì… Cả ngày hôm qua, hôm kia, suốt cả một thời gian ấy mình đã tự dày vò… Mình sẽ khỏi và sẽ không làm khổ mình nữa… Thế nhỡ không khỏi chút nào thì sao? Trời ơi! Chán ngấy lên rồi?…" Chàng bước đi, không dừng chân.
Chàng háo hức muốn tìm cách khuây khoả, nhưng không biết nên làm gì. Một cảm giác mới mẻ, không sao cưỡng được mỗi phút một tràn ngập lòng chàng: đó là một cảm giác ghê tởm không bờ bến, hầu như nhục thể, đối với tất cả những gì chàng gặp, tất cả những gì ở xung quanh chàng, một cảm giác kiên trì, ác liệt, cay cú.
Chàng thấy tất cả những người qua đường đều có những bộ mặt, những dáng đi, những cử chỉ khả ố. Giá có ai lên tiếng nói gì với chàng, chàng sẽ nhổ thẳng vào mặt họ, có lẽ còn xông vào cắn họ nữa,…
Chàng bỗng dừng chân khi ra đến bờ sông Neva Con, trên đảo Vaxili, cạnh cái cầu. "Hắn ở đây, trong ngôi nhà nầy đây. - chàng thầm nghĩ. - Sao thế nhỉ, mình loay hoay thế nào rồi rốt cục lại dẫn xác đến nhà Razumikhin! Lại y như hôm ấy… mà kể cũng lạ thật; mình cốt đi đến đây hay chẳng qua tình cờ đi ngang, thì cũng thế thôi; hôm kia… mình nói… là một ngày sau khi việc ấy đã xong xuôi mình sẽ đến hắn, thế thì cứ đến thôi! Làm như thể bây giờ mình không thể ghé nhà ai được nữa!"
Chàng lên phòng Razumikhin ở gác năm.
Razumikhin có nhà. Lúc ấy anh đang ngồi viết hí hoáy trong căn buồng chật hẹp. Nghe tiếng gõ cửa; anh ra mở. Đã bốn tháng nay hai người không gặp nhau.
Razumikhin mặc một chiếc áo dài ngủ rách bươm, chân đi giầy vải, đấu tóc rối bù, râu không cạo, mặt không rửa. Gương mặt anh lộ vẻ ngạc nhiên.
- Cậu đấy à? - Anh kêu lên, mất chăm chăm nhìn bạn từ đầu đến chân; nhưng rồi anh im bặt và huýt lên một tiếng. - Bi đến thế kia à? Cậu mặc còn bảnh hơn cả tớ nữa rồi đấy! - anh nhìn mấy tấm giẻ rách của Raxkonikop nói thêm. - Ngồi xuống chứ, hình như cậu mệt lắm thì phải.
Và khi Raxkonikov đã buông mình rơi phịch xuống chiếc đi-văng Thổ Nhĩ Kỳ lót vải sơn còn tồi tệ hơn cả chiếc ghế của chàng, Razumikhin bỗng nhận ra rằng bạn mình ốm.
- Nhưng cậu ốm hẳn hoi rồi, cậu không biết à? - Nói đoạn anh cầm lấy tay bạn để bắt mạch. Raxkonikov giật phắt tay ra.
- Không cần, - chàng nói, - tôi đến… Thế nầy, tôi không có chỗ nào dạy học cả… tôi muốn… vả chăng tôi cũng cóc cần chỗ dạy…
- Nầy, cậu mê sảng rồi còn gì! - Razumikhin chăm chú, quan sát chàng và nhận xét.
- Không, tôi không mê sảng… - Raxkonikov rời đi-văng đứng dậy. Khi lên nhà Razumikhin, chàng không nghĩ đến việc mình sẽ phải mặt giáp mặt với bạn. Mãi đến bây giờ, do kinh nghiệm thực tế, chàng mới vụt nghĩ ra rằng giờ phút nầy không có gì có thể làm cho chàng khó chịu hơn là phải mặt giáp mặt với bất cứ ai trên đời. Một nỗi hằn học dữ dội đấy lên trong lòng chàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa phòng Razumikhin, chàng đã thấy căm tức bản thân mình đến nghẹn cổ.
- Thôi chào cậu? - chàng bỗng nói và đi ra cửa.
- Kìa khoan đã, khoan đã, cậu nầy gàn quá?
- Thôi! - Raxkonikov giật tay ra nói.
- Đã thế thì cậu đến đây làm quái gì! Cậu phát điên rồi chắc? Thế kia có tức không chứ. Tớ không để cậu ra về như thế đâu.
- À thế thì cậu nghe đây, tôi đến cậu là vì ngoài cậu ra tôi không biết ai có thể giúp tôi… bắt đầu… vì cậu tốt hơn hết thảy bọn họ, nghĩa là cậu thông minh hơn, có thể bàn bạc được… Nhưng bây giờ tôi lại thấy rằng tôi không cần gì nữa hết, cậu nghe ra chưa, hoàn toàn không cần gì nữa hết… không cần ai giúp đỡ, cảm thông gì hết… Tôi sẽ tự liệu lấy… một minh… Thôi thế đủ rồi! Cứ để mặc xác tôi!
- Thì khoan tí đã nào, đồ dở hơi! Cậu điên thật rồi! Tớ thì cậu muốn thế nào cũng được, cậu xem, tớ cũng không có chỗ dạy học, mà tớ cùng **** cần; nhưng ở chợ tầm tầm có một lão lái sách tên là Kheruvimov, lão nầy cùng đáng giá một chỗ dạy học chán. Bây giờ thì có đổi lão ấy lấy năm chỗ dạy học ở các nhà buôn tớ cũng không đổi. Lão ta xuất bản cả sách và hiện đang cho in những tập sách nhỏ về khoa học tự nhiên, bán đắt như tôm tươi! Chỉ riêng cái đầu đề không thôi cũng đáng đồng tiền rồi! Cậu thì bao giờ cũng bảo tớ ngốc: thế mà có kẻ còn ngốc hơn tớ nữa, tớ nói thật đấy! Bây giờ lão ấy cũng đang lao theo phong trào, tuy một chữ cắn đôi cũng không biết: lẽ dĩ nhiên tớ khích cho lão lao mạnh nữa vào. Đây có hai tập gần bốn chục trang tiếng Đức - theo tớ thì chỉ là thứ văn bán thuốc ê ngớ ngẩn nhất đời, đề tài nói tóm lại là: đàn bà có phải là người hay không phải là người? Và cố nhiên tác giả chứng minh một cách trịnh trọng rằng đàn bà quả là người thật. Kheruvimov chuẩn bị xuất bản quyển sách nầy để đáp ứng với phong trào thảo luận về vấn đề phụ nữ, tớ thì dịch, lão ấy thì làm cái việc kéo dài bốn chục trang nầy ra thành một trăm trang, chúng tớ sẽ viết một cái dầu đề cho thật kêu dài đến nửa trang giấy và đem bán năm hào một quyển. Chu lắm! Tiền công dịch của tớ là sáu rúp mỗi tập mười sáu trang, vị chi cả thảy được chừng mười lăm rúp, tớ đã lĩnh trước sáu rúp rồi đấy. Xong cái nầy thì sẽ dịch sang một tài liệu nói về cá voi, rồi thì trong phần sau quyển "Confessions"(1) cũng thấy có nhiều đoạn nói nhảm hết sức vô vị, cho nên cũng dịch nốt; có một thằng cha nào nói với Kheruvimov rằng Rousseau cũng là một thứ Radisev, lẽ dĩ nhiên ta cứ ầm ừ, kệ mẹ nó. Thế nào, cậu lấy tập 2 quyển "Đàn bà có phải là người không?" về mà dịch nhé. Nếu cậu bằng lòng thì lấy ngay nguyên bản, bút giấy đây - toàn là của công đấy - và cầm lấy ba rúp: tớ đã lĩnh tiền ứng trước cho cả hai tập, thế nghĩa là phần cậu ba rúp. Dịch xong cậu sẽ nhận nốt ba rúp nữa. Nhưng cậu đừng có nghĩ là tớ giúp đỡ gì cậu nhé. Ngược lại, vừa trông thấy cậu tớ đã tính chuyện nhờ cậu ngay. Trước hết là tớ viết hay sai chính tả, thứ đến là tiếng Đức của tớ đôi khi cũng schwach(2), thành thử phần nhiều tớ cứ tự ý bịa ra mà viết và tự an ủi rằng làm như vậy sách chỉ có thể hay thêm mà thôi. Thế nhưng biết đâu được, có lẽ nó không hay thêm mà lại càng tồi thêm thì có… Cậu có lấy không?
Raxkonikov lặng lẽ cầm lấy tập giấy in tiếng Đức cầm lấy ba đồng rúp và đi ra, không nói lấy một lời. Razumikhin ngạc nhiên nhìn theo chàng. Nhưng ra đến góc phố, Raxkonikov bỗng quay phắt trở lại, lên phòng Razumikhin, đặt lên bàn cả xấp giấy lẫn ba đồng rúp, cũng vẫn không nói lấy một lời, rồi đi ra.
- Kìa cậu sốt thật rồi? - Razumikhin rốt cục cũng điên tiết gầm lên. - Cậu làm cái trò gì thế? Đến tớ cũng phải lộn ruột lên với cậu… Đã thế thì đến làm gì, đồ quỷ?
- Tôi không cần… dịch… - Raxkonikov lẩm bẩm trong khi bước xuống thang gác.
- Thế thì cậu cần cái quái gì nào? - Razumtkhin trên gác quát chõ xuống. Raxkonikov lặng thinh bước thẳng.
- Nầy! Nhà cậu bây giờ ở đâu thế hả?
Không có tiếng trả lời.
Thôi mặc x… xác cậu!
Nhưng Raxkonikov đã ra phố. Trên cầu Nikolaevxki chàng lại phải sực tỉnh, lần nữa, vì một sự việc xảy ra khiến chàng rất khó chịu. Một người xà ích đánh xe song mã đã quất roi vào lưng chàng vì chàng suýt đâm đầu vào chân ngựa, tuy hắn đã ba bốn lần quát chàng tránh ra. Nhát roi làm cho chàng giận điên lên. Chàng nhảy vụt ra thành cầu không hiểu tại sao chàng cứ đi nghênh ngang ở giữa cầu, khoảng dành cho xẹ cộ, nghiến răng kèn kẹt. Mấy người đứng quanh cười rộ lên.
- Đáng đời!
- Chắc là một thằng kẻ cắp.
- Ai còn lạ gì, già vờ say rượu rồi chui đầu vào bánh xe để lĩnh tiền bồi thường chứ gì?
- Cũng là một cách xoay tiền ông ạ, cũng là một cách xoay tiền.
Nhưng trong khi chàng còn đứng bên thành cầu, vừa nhìn theo cỗ xe song mã đang xa dần với đôi mắt giận dữ và ngây dại vừa xoa lưng, chàng bỗng cảm thấy có ai dúi tiền vào tay chàng. Chàng nhìn lại thì thấy một người đàn bà đứng tuổi, trông chừng là hạng buôn bán, đầu trùm khăn, chân đi giầy da dê, cùng đi với một người thiếu nữ đội mũ dạ, cầm ô xanh, chắc là con gái bà ta. "Anh cầm lấy, vì Chúa". Chàng cầm lấy đồng tiền, và họ đi thẳng. Có là một đồng hào đôi. Trông dáng vẻ và cách ăn mặc của chàng họ rất có thể tưởng chàng là một người ăn mày vẫn thường ngứa tay xin từng đồng xu trên hè phố. Chàng được bố thí như vậy chắc hẳn cũng là nhờ nhát roi kia đã làm cho họ động lòng trắc ẩn.
Chàng nắm chặt đồng hào đôi trong tay, đi độ mươi bước và quay mặt ra sông Neva, về phía hoàng cung. Bầu trời không một gợn mây, và màu nước xanh biếc hầu như lẫn với màu trời, một điều rất ít thấy trên sông Neva. Không có nơi nào có thể nhìn rõ những đường nét của mái nhà thờ Isaac như chỗ chàng đang đứng, trên cầu, cách nhà thờ chừng hai mươi bước. Chiếc mái vòm khum ánh lên trên nền trời, và qua làn không khí trong vắt còn có thể thấy rõ từng nét trang hoàn trên mái. Chỗ bị roi quất đã hết đau và Raxkonikov đã quên khuấy nó đi; bây giờ chỉ có một ý nghĩ lo âu mơ hồ khiến chàng bận tâm. Chàng đứng yên hồi lâu nhìn đăm đăm vào không gian xa thẳm; nơi nầy đối với chàng rất quen thuộc. Hồi chàng còn lui tới trường đại học, nhất là trên đường về nhà, chàng thường dừng lại hàng trăm lần đúng ở chỗ nầy, nhìn đăm đăm vào bức toàn cảnh tráng lệ nầy và cứ mỗi lần như thế chàng lại lấy làm lạ về cái ấn tượng mơ hồ và khó hiểu nhóm lên trong lòng chàng. Bao giờ cái quang cảnh tráng lệ ấy cũng như thở vào người chàng một luồng hơi lạnh buốt kỳ lạ; và chàng cứ cảm thấy bức tranh lộng lẫy ấy có một cái gì ghẻ lạnh, dửng dưng… Cứ mỗi lần như vậy chàng lại lấy làm lạ với cái ấn tượng âm u, huyền bí nhóm lén trong lòng mình, và không dám tin rằng mình có thể hiểu thấu được: chàng lại tự hứa sẽ tìm cách lý giải sau. Bây giờ chàng bỗng sực nhớ lại những nỗi băn khoăn, thắc mắc trước kia, và cảm thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà mình nhớ lại như thế. Chỉ riêng một điều nầy thôi chàng đã thấy nó có vẻ kỳ quái và huyền bí, là chàng đã dừng lại đúng ở chỗ cũ, dường như chàng thật sự tưởng rằng bây giờ mình cũng có thể suy nghĩ như trước kia, cũng có thể quan tâm đến những vấn đề và những quang cảnh mà… trước đây không lâu chàng vẫn quan tâm đến. Thậm chí chàng còn thấy gần như nực cười nữa, tuy lòng chàng sẽ lại đến đau nhói cả ngực lên. Ở một nơi nào sâu thẳm phía dưới kia, dưới chân chàng, mờ mờ hiện lên tất cả cái dĩ vãng ấy; những ý nghĩ, những vấn đề, những nỗi băn khoăn, những ấn tượng cũ, và cả bức toàn cảnh nầy, và cả bản thân chàng nữa, tất cả, tất cả… Chàng có cảm giác như mình đang bay bổng lên, chơi vơi ở một nơi nào cao ngất, và mọi vật đều tan biến đi trước mắt chàng…
Chàng bất giác xua tay một cái, và chợt thấy có đồng hào đôi trong lòng bàn tay nắm chặt. Chàng ngả tay ra, nhìn đăm đăm vào đồng tiền một lát rồi đang tay ném xuống nước. Đoạn chàng quay lại đi về nhà. Chàng có cảm tưởng như mình vừa lấy kéo cắt đứt hẳn bản thân mình ra khỏi mọi người và mọi vật.
Chàng về đến nhà thì trời đã chiều, như thế nghĩa là chàng đã đi lang thang sáu tiếng đồng hồ. Chàng về nhà ra sao và đi lối nào thì chàng không hề nhớ tí gì hết. Người run bắn lên như con ngựa mệt lừ, chàng cởi áo nằm lên đi-văng, kéo chiếc áo khoác đắp lên người và lập tức thiếp đi…
Khi trời đã tối mịt, chàng sực tỉnh giấc vì một tiếng gào khủng khiếp. Trời ơi, tiếng gào gì mà gớm guốc thế Chàng chưa bao giờ nghe thấy những âm thanh quái gở như vậy, chàng chưa từng nghe thấy những tiếng rú, những tiếng quất, những tiếng rít, những tiếng khóc, những tiếng đấm đá và chửi rủa như vậy bao giờ. Chàng cũng không thể hình dung nổi một cái gì hung dữ, thú vật như vậy. Chàng kinh hãi nhỏm dậy và ngồi trên đi-văng, phút phút lại lặng người đi vì sợ hãi và đau đớn: Những tiếng đấm đá, la hét mỗi lúc một thêm dữ dội. Và chàng bỗng vô cùng kinh ngạc nhận ra tiếng bà chủ nhà. Bà ta gào thét, rú rít lên, khóc lóc kể lể cuống quít, có khi líu lưỡi lại nói không ra tiếng nữa, thành thử không tài nào nghe ra được bà nói những gì. Chỉ biết là bà đang kêu van, chắc là đang van người ta đừng đánh đập mình nữa, vì có một người nào đang đánh đập bà tàn nhẫn trên thang gác. Người đang đánh tức giận điên cuồng, gân cổ lên quát mắng khủng khiếp đến nỗi khản cả giọng, thế nhưng cũng đang nói gì rất nhanh, cứ được mấy tiếng lại sặc sụa lên không còn nghe ra cái gì nữa. Bỗng Raxkonikov run bắn lên: chàng đã nhận ra giọng nói nầy; đó là, giọng của Ilya Petrovich, Ilya Petrovich đang ở đây, và đang đánh đập bà chủ nhà! Hắn lấy chân đá vào bà ta, cộc đầu bà vào bậc thang, - cứ nghe những tiếng ồn ào những tiếng la hét và đấm đá cũng đủ rõ! Làm sao thế trời dất đảo điên cả rồi hay sao? Khắp, các tầng trên gác dưới, suốt dọc cầu thang người ta đổ ra đông nghịt: có thể nghe thấy những tiếng nói xôn xao, những tiếng kêu í ới, những tiếng chân chạy thình thịch, những tiếng cửa đóng ầm ầm. "Nhưng có chuyện gì thế, tại sao, và làm sao lại có thể như thế được!" - chàng cứ nghĩ đi nghĩ lại, thạt sự lo sợ rằng mình đã phát điên hẳn hoi rồi. Nhưng không, chàng nghe quá rõ!… Nhưng nếu đã thế thì họ sắp đến phòng chàng ngay tây giờ, bởi vì… chắc đầu đuôi cũng đều do chuyện hôm qua… mà ra cả… Trời ơi!" Chàng định chốt trái cửa lại, nhưng tay chàng cứ rũ xuống… vả lại cũng vô ích! Nỗi hãi hùng như một tảng băng trùm lấy tâm hồn chàng, khiến chàng đau buốt, co quắp lại… Nhưng rồi cuối cùng tiếng ồn ào inh ỏi, kéo dài đã được đến mười phút, bắt đầu im ắng dần. Bà chủ nhà luôn mồm rên rỉ và thở dài sườn sượt; Ilya Petrovich vẫn còn hăm doạ và nguyền rủa… Nhưng rốt cục hình như chính hắn cùng lặng đi; không còn nghe thấy tiếng hắn nói nữa; "hay là hắn đi rồi! Lạy chúal". Phải, đây, bà chủ nhà cũng đi ra, mồm vẫn rên rỉ và khóc thút thít… và đây, cửa phòng bà ta đã đóng sập lại… Đám đông đã rời thang gác tản về các buồng; họ xôn xao bàn tán, gọi nhau í ới, tiếng nói khi to lên thành tiếng quát, khi nhỏ lại chỉ còn nghe rì rầm. Chắc là đông lắm; gần như cả nhà đều đổ ra xem thì phải. "Nhưng trời ơi, chả nhẽ lại có thể như thế được! Mà tại sao, tại sao hắn lại đến đây làm cái gì?"
Raxkonikov bủn rủn gục xuống đi-văng, nhưng không sao nhắm mắt lại được nữa; chàng nằm yên khoảng nửa tiếng đồng hồ, với một cảm giác sợ hãi đau đớn không sao chịu nổi, mà xưa nay chàng chưa hề biết.
Bỗng phòng chàng sáng rực lên: Naxtaxia vừa bước vào tay cầm nến, tay bưng xúp. Chị ta chăm chú nhìn chàng, và khi thấy chàng đang thức, chị đặt cây nến xuống bàn và bắt đầu bày các thứ ra, bánh mì, muối, đĩa, thìa.
- Chắc từ hôm qua chưa ăn gì. Đi lang thang suốt cả ngày vả lại sốt hầm hập lên chứ có phải không đâu.
- Naxtaxia nầy… tại sao họ đánh đập bà chủ thế?
Naxtaxia nhìn chàng chằm chặp.
- Ai đánh bà chủ?
Vừa rồi ấy… cách đây nửa giờ ấy mà, Ilya Petrovich, viên phó quận trưởng, trên cầu thang… Tại sao hắn lại đánh bà ấy, và… hắn đến đây làm gì?
Naxtaxia cau mày lặng thinh nhìn chàng chăm chú một hồi lâu. Chàng thấy khó chịu trước cái nhìn ấy thậm chí còn thấy sợ nữa.
- Naxtaxia, sao chị cứ làm thinh? - mãi lát sau chàng mới rụt rè cất tiếng hoi, giọng yếu ớt.
- Máu đấy, - sau một lát im lặng, Naxtaxia đáp khẽ như nói một mình.
- Máu!… Máu nào?… - chàng lắp bắp, mặt tái nhợt đi, và bất giác né người về phía vách. Naxtaxia vẫn lặng lẽ nhìn chàng.
- Không có ai đánh bà chủ cả, - chị lại nói, giọng nghiêm nghị và quả quyết.
Raxkonikov nhìn chị ta, thở không ra hơi nữa.
- Chính tôi nghe mà… tôi không ngủ… tôi ngồi nghe, - chàng nói, giọng còn rụt rè hơn nữa… - Viên phó quận trưởng đến… người ta chạy hết ra thang gác, buồng nào cũng ra…
- Chẳng có ai đến hết. Đấy là máu nó xông lên đấy. Máu ứ lại mà không thoát ra được là nó dồn vào gan, thế mới sinh ra mê sảng… Cậu ăn đi dăm ba miếng chứ?"
Chàng không đáp. Naxtaxia vẫn đứng cạnh giường, nhìn chàng đăm đăm không lui ra.
- Cho tôi xin tí nước, Naxtaxia.
Naxtaxia đi xuống nhà và khoảng hai phút sau mang lên một cái ốc bằng đất sét trắng; nhưng chàng không còn nhớ nhưng việc tiếp diễn về sau nữa. Chàng chỉ nhớ rằng mình nuốt một ngụm nước lạnh và đánh đổ nước trong cổ ra ngực. Sau đó chàng mê man đi.

Chú thích:
(1) "Tự thú", tác phẩm của J.J. Russeau
(2) Yếu, kém tiếng Đức

Chương 9

Phần II



Song cũng không phải chàng hoàn toàn mê man trong thời gian ốm: đó là một trạng thái sốt nhỉệt, có nói sảng và nửa mê nửa tỉnh. Về sau chàng nhớ lại được khá nhiều việc. Có khi chàng mường tượng như quanh chàng có rất nhiều người quây lại định mang chàng đi đâu không rõ, họ bàn bạc về chàng và cãi vã lẫn nhau rất dữ. Có khi chàng lại thấy minh nằm một mình trong phòng, mọi người đều bỏ đi hết, hẳn vì sợ chàng, và thỉnh thoang mới có người mở hé cánh cửa ra dòm chàng, de doạ chàng, thầm thì cười nới với nhau, và trêu chọc chàng. Chàng nhớ là Naxtaxia thường ở cạnh chàng: chàng còn nhớ thêm một người nữa, hình như rất quen thuộc, nhưng cụ thể là ai thì chàng không sao đoán ra được: điều đó làm cho chàng buồn lắm và thậm chí còn khóc nữa. Có khi chàng tưởng chừng mình đã nằm liệt giường đến một tháng nay, khi lại ngỡ như mọi việc đêu xảy ra nội ngày hôm ấy. Nhưng về việc ấy, việc ấy thì chàng quên bẵng đi: song từng giờ từng phút chàng vẫn nhớ là mình có quên một điều gì lẽ ra không được quên mới phải; chàng vật vã, day dứt, cố sức nhớ cho ra, chàng rên rỉ, ***g lộn điên cuồng lên hay rơi vào một tâm trạng khiếp sợ ghê gớm, không sao chịu nổi. Những lúc ấy chàng vùng dậy, toan bỏ chạy, nhưng bao giờ cùng có ai dùng sức giữ chàng lại, và chàng lại chìm vào cõi hôn mê. Cuối cùng chàng tỉnh hẳn, lúc ấy là vào khoảng chín giờ sáng. Vào những ngày quang đãng, giờ nầy bao giờ ánh nắng cũng vẽ thành một vệt dài chạy qua bức tường bên phải phòng chàng và chiếu sáng góc phòng cạnh cửa ra. Bên giường chàng có Naxtaxia và một người nữa đang đứng nhìn chàng có vẻ rất tò mò. Đó là một người chàng chưa hề quen biết, một người trẻ tuổi mặc áo cáp-tan, để chòm râu cằm, dáng trông như một người chạy hàng. Qua cánh cửa mở hé, bà chủ đang dòm vào. Raxkonikov nhỏm dậy…
- Ai thế, Naxtaxia? - chàng chỉ người trẻ tuổi hỏi.
- À tỉnh rồi? - Naxtaxia nói.
- Tỉnh rồi, - người chạy hàng nói vọng theo.
Đoán rằng chàng đã tỉnh đậy, bà chủ, nhà đang đứng dòm ở cửa, lập tức đóng cửa lại và giấu mặt đi.
Bà ta xưa nay vốn nhút nhát và rất sợ những cuộc nói chuyện hay giãi bày; bà ta trạc bốn mươi tuổi, người to béo, lông mày đen, mắt cũng đen, tốt bụng vì béo và vì lười, trông cùng dễ ưa nữa là khác. Tính cả thẹn của bà ta thì thật quá quắt.
- Anh… là ai? - Raxkonikov hỏi thẳng người chạy hàng.
Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa lại mở toang và Razumikhin, người hơi cúi lom khom. Vì anh ta vốn cao lớn, vừa bước vào vừa kêu ca:
- Cứ như cái buồng tàu thuỷ, lúc nào cùng cộc đầu va trán; thế mà cũng gọi là phòngvới phiếc. Cậu tỉnh rồi đấy à? Tớ vừa nghe Pasenka(1) bảo thế.
- Mới vừa tỉnh dậy đấy, - Naxtaxia nói.
- Mới vừa tỉnh dậy đấy ạ, - người chạy hàng lại mỉm cười nói vọng theo.
- Thế anh là ai? - Razumikhin bỗng quay sang hắn hỏi đột ngột. - Còn tôi đây là Vrazumikhin; không phải là Razumikhin như người ta thường tâng bốc(2), mà là Vrazumikhin, sinh viên, con nhà quý tộc, còn cậu nầy là bạn tôi. Thế còn anh là ai?
- Tôi là người chạy hàng cho hiệu buôn của ông Selopayev ạ, tôi đến đây có tí việc ạ.
- Mời anh ngồi ghế nầy, - Razumikhin vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đặt ở bên kia bàn con. - Cậu tỉnh dậy như thế là phải lắm, - anh nói tiếp với Raxkonikov.
- Đã bốn ngày nay cậu hầu như chẳng ăn uống gì. Quả tình cũng có hớp được mấy thìa nước trà. Tớ đã dẫn Zoximov đến đây hai lần. Cậu có nhớ Zoximov không? Hắn ta khám cho cậu và nói ngay rằng chẳng có gì hệ trọng hết, chẳng qua đầu óc bị chấn động thế nào đấy. Hắn ta bảo là một chứng thần kinh gì đấy, vì ăn uống kham khổ, ít uống bia, ít ăn rau khơ-ren quá mà ra, còn như bệnh trạng thì chẳng có gì đâu, sẽ tự khỏi thôi. Anh chàng Zoximov cừ lắm? Chứa bệnh đã thành thạo rồi. À, tôi không dám giữ anh đâu - Razumikhin lại quay sang người chạy hàng, - anh cần việc gì xin cứ nói đi Rodia ạ: cửa hàng của họ đã hai lần cho người đến đây rồi đây; lần trước không phải anh nầy, một người khác kia, chúng tôi có nói chuyện với người đó. Lần trước cửa hiệu anh cho ai đến đây thế nhỉ?
- Ông muốn nói cái người đến đây hôm kia phải không ạ, đúng đấy. Đó là Alekxey Xemionovich cùng làm ở hiệu chúng tôi đấy ạ.
- Anh kia có vẻ khôn ngoan hơn anh phải không?
- Vâng ạ, ông ấy đúng là chững chạc hơn tôi ạ.
- Hay lắm; anh cứ nói đi.
- Thế nầy ạ, ông Aphanaxi Ivanovich Vakhrusin, mà tôi chắc ông đã có nghe tên nhiều lần, theo yêu cầu của bà cụ nhà đã chuyển cho hiệu chúng tôi một tờ ngân phiếu - người chạy hàng nói thẳng với Raxkonikov. - Đến khi nào ông đã tỉnh trí, chúng tôi sẽ trao lại cho ông ba mươi lăm rúp, vì Xemion Xemionovich theo yêu cầu của cụ nhà, có được Aphanaxi Ivanovich báo cho biết về số tiền nói trên theo thể thức như cũ. Ông đã biết việc nầy chưa ạ?
- Có tôi có nhớ… Vakhrusin… - Raxkonikov nói, vẻ trầm ngâm.
- Anh nghe ra chưa: cậu ấy biết ông lái buôn Vakhrusin! - Razumikhin kêu lên. - Thế mà còn bảo là chưa tĩnh trí nữa à? À mà bây giờ tôi nhận thấy anh cùng là người khôn ngoan lắm. Hay! Nghe những câu nói thông minh cũng thú lắm chứ!
- Chính ông Vakhrusin Aphanaxi Ivanovich đấy ạ, cụ nhà đã từng gửi tiền cho cậu một lần qua ông Vakhrusin theo thể thức ấy, lần nào ông cũng không từ chối lời yêu cầu của cụ nhà, và cách đây ít hôm có báo cho ông Xemion Xemionovich biết để chuyển cho ông ba mươi lăm rúp trong khi chờ đợi một món lớn hơn.
- Đấy cái câu "trong khi chờ đợi một món lớn hơn" của anh nghe hay hơn cả đấy; cả cái "bà cụ nhà" của anh cũng khá lắm. Nào, thế theo anh thì sao: anh bạn tôi đã tĩnh trí hẳn hay chưa, hả?
- Đối với tôi thì thế nào cũng được. Miễn là ông ấy ký được biên lai.
- Ký được mà! Anh có mang sổ sách theo đấy chứ?
- Sổ đây ạ!
- Đưa lại đây. Nào, Rodia, cậu ngồi dậy. Tớ sẽ đỡ đầu; cậu nguệch cho anh ta một chữ ký. Raxkonikov, cầm lấy bút đi cậu ạ, vì bây giờ chúng mình đang cần tiền lắm!
- Không cần, - Raxkonikov gạt bút ra nói - Không cần làm sao? Tôi không ký đâu.
- Quái thật, không ký thì làm thế nào?
- Không cần… tiền…
- Không cần tiền! Cậu chỉ nói láo, tớ xin làm chứng như vậy! Anh chớ lo, chẳng qua cậu ấy… lại hơi mê sảng một chút. Vả chăng ngay khi tỉnh táo cậu ấy cùng đôi khi như thế… Anh là người thông minh; chúng ta sẽ hướng dẫn cậu ấy, ngh** lả hướng dẫn bàn tay cậu ấy một chút! Cậu ấy sẽ ký… Nào, ta…
- Dù sao thi khi khác tôi đến đây cũng được.
- Không, không, anh lo ngại cái gì kia chứ? Anh là người thông minh. Nào. Rodia, đừng làm phiền ông khách… cậu cũng thấy ông ấy đợi đấy. - nói đoạn Razumikhin thật sự chuẩn bị đỡ tay Raxkonikov.
- Cậu buông ra, để tôi ký lấy… - Raxkonikov nói đoạn cầm bút ký vào sổ. Người chạy hàng giao tiền và lui ra.
- Hoan hô! Bây giờ thì ăn chứ, cậu có muốn ăn không?
- Có, - Raxkonikov đáp.
- Chị có xúp không?
- Xúp hôm qua. - Naxtaxia, nãy giờ vẫn đứng đấy, đáp.
- Xúp khoai tây với bột gạo đấy chứ?
- Xúp khoai tây với bột gạo.
- Tớ thuộc lòng đi rồi. Đem xúp lên đây, dọn trà luôn nhé.
- Vâng ạ.
Raxkonikov nhìn mọi vật với vẻ bỡ ngỡ sửng sốt và một nỗi sợ sệt vô nghĩa, đần độn, chàng quyết định lặng thinh chờ xem sẽ ra sao nữa. "Hình như đây không phải là mê sảng - Chàng nghĩ thầm - Hình như đó là chuyện thật…"
Hai phút sau, Naxtaxia bưng súp vào và nói rằng trà cũng sẽ mang vào sau. Khi dọn xúp ra thấy có hai cái thìa. hai cái đĩa và đủ cả bộ sậu: lọ tiêu muối: mù-tạt để ăn thịt bò vân vân, những thứ mà đã lâu lắm không hề thấy được bày biện tươm tất như vậy. Khăn giải bàn trắng tinh.
- Naxtaxia nầy, giá bà Praxkovia Paplovna cho hai chai bia thì hay quá. Chúng tôi sẽ uống với nhau.
- Chà, cái cậu nầy chúa vòi - Naxtaxia càu nhàu đi xuống nhà làm tròn phận sự.
Raxkonikov vẫn nhìn quanh quất một cách ngỡ ngàng và căng thẳng trong khi Razumikhin đã ngồi sang đi-văng với chàng, cử chỉ vụng về như con gấu, luồn cánh tay trái xuống dưới đầu chàng tuy chàng đã có thể tự nhỏm dậy, đưa tay phải cầm một thìa xúp đưa sát miệng chàng sau khi thổi thổi mấy lần cho đỡ nóng. Nhưng xúp chỉ còn hơi hâm hẩm mà thôi. Raxkonikov thèm thuồng húp lấy ruột thìa, một thìa nữa: rồi một thìa nữa. Nhưng cho chàng ăn được mấy thìa thì Razumikhin bỗng dừng lại và tuyên bố rằng về phần sau phải hỏi ý kiến Zoximov đã.
Naxtaxia cầm hai chai bia bước vào.
- Cậu có uống trà không?
- Mang trà lên đây, nhanh lên Naxtaxia, về cái mục nầy thì hình như cũng không cần đến trường Y khoa. Nhưng đã có bia đây rồi!
Chàng ngồi ra ghế, kéo đĩa xúp và đĩa thịt bò lại và bắt đầu ăn ngon lành như thể nhịn đói đã ba hôm nay.
- Rodia ạ, bây giờ tớ ngày nào cũng ăn ở nhà nầy, - anh nói lúng búng, trong chừng mực cái miệng nhồm nhoàm đầy những thịt bò còn cho phép. - và đều được Pasenka, cô chủ nhà của cậu, thết đãi hết lòng. Dĩ nhiên tớ không yêu sách gì, nhưng cũng không phản đối. À, Naxtaxia đem trà lên đây rồi. Chị nầy đảm lắm: Naxtenka, uống bia đi!
- Anh chàng nầy quấy thật!
- Thế còn nước chè?
- Nước chè thì được.
- Rót đi, khoan, để tớ rót cho; ngồi đây.
Razumikhin lập tức ra tay; anh rót chè vào chén, rót thêm một chén nữa, bỏ các món ăn đấy vả lại ngồi sang đi-văng, lại luồn cánh tay trái xuống dưới đầu người ốm, nâng nó lên và bắt đầu đút từng thìa trà cho chàng, lại hăm hở thổi luôn mồm vào thìa, làm như thể bản thân cái việc thổi thổi như vậy chính là biện pháp chủ yếu, công hiệu nhất để cứu bạn khỏi bệnh.
Raxkonikov lặng thinh và không kháng cự, tuy chàng cùng cảm thấy mình thừa sức ngồi dậy mà không cần ai nâng đỡ và không những có đủ sức điều khiển chân tay để cầm thìa hay cầm chén, mà có lẽ còn đủ sức đi lại nữa. Nhưng do một sự xảo quyệt kỳ dị, gần như sự tinh khôn của loài dã thú, chàng bỗng nảy ra ý tạm thời che giấu sức lực đi, vờ vịt, thậm chí nếu cần sẽ giả làm như chưa tỉnh hắn nữa để nghe ngóng, dò xét xem chung quanh đang xảy ra những gì. Vả chăng chàng không sao nén nổi cảm giác ghê tởm. Húp được mươi thìa trà, chàng bỗng bắt đầu hờn dỗi, đẩy thìa ra và lại ngả mình xuống gối. Dưới đầu chàng bây giờ là những chiếc gối thật, độn lông tơ, vỏ gối trắng tinh; điều đó chàng cũng chú ý và ghi nhớ để suy xét thêm.
- Ngay hôm nay, Pasenka phải gửi lên cho chúng tôi ít mứt mận và pha nước cho anh ấy uống. - Razumikhin vừa nói vừa ngồi sang ghế tiếp tục ăn xúp, uống bia.
- Thế bà ấy lấy mận ở đâu ra cho cậu? - Naxtaxia hỏi, năm ngón tay xìe ra cầm cái đĩa tách và húp nước trà "qua miếng đường" (3)
- Mận ở ngoài cửa hiệu ấy, cô bạn ạ. Rodia nầy, cậu không biết chứ trong khi cậu ốm ở đây đã xảy ra cả một câu chuyện kỳ lạ. Cái hôm cậu bỏ tớ chuồn đi một cách mất dạy như vậy, địa chỉ cũng không thèm nói, tớ nỗi khùng lên đến nỗi quyết chí tìm cậu cho bằng được và trị cho cậu một mẻ. Ngay hôm ấy tớ bắt tay vào việc. Tớ đi lùng khắp nơi, đến đâu cũng hỏi. Tớ quên mất cái địa chỉ hiện nay của cậu, làm sao mà nhớ được vì xưa nay tớ có hề biết bao giờ đâu? Còn nhà cũ của cậu thì tớ chỉ nhớ là ở khu Năm Góc, nhà ông Kharlamov. Tớ tìm mãi cái nhà ông Kharlamov ấy, nhưng về sau mới biết rằng cái ông chủ nhà kia hoàn toàn không phải là Kharlamov, mà là Bukh, tên họ đôi khi cùng dễ nhớ nhầm lung tung ra như thế đấy! Tớ mới nổi cáu lên, thế là tớ tìm đến phòng Địa chỉ, và cậu thử tưởng tượng mà xem: chỉ hai phút họ đã tìm ra địa chỉ của cậu. Tên cậu có ghi ở đấy.
- Có ghi ở đấy?
- Còn sao nữa; thế mà lúc tớ ấy họ tìm mãi vẫn không ra nhà ông tướng Kobelev đây. Chà thôi, kể thì dài lắm. Đến đây một cái là tớ tìm hiểu hết các công việc của cậu ngay, tìm hiểu tất cả, cậu ạ, việc gì tớ cũng biết; cậu cứ hỏi chị nầy thì rõ, tớ làm quen cả với Nikodim Phomits, cả Ilya Petrovich người ta cùng đã chỉ cho tớ xem mặt, tớ làm quen cả với bác gác cổng, cả với ông Zamiotov Alekxandr Gigorievich, chánh văn phòng quận cảnh sát khu nầy, và cuối cùng là làm quen với Pasenka - Thật là một kết thúc rực rỡ, đây cứ hỏi chị nầy thì biết.
- Cậu ta làm bà ấy mê tít rồi, - Naxtaxia lẩm bẩm, môi nở một nụ cười ranh mãnh.
- Cô pha đường vào tách mà uống, cô Naxtaxia Nikiphorovna!
- Rõ khỉ! - Naxtaxia bỗng kêu lên và rũ ra cười - Tôi là Petrovna chứ có phải Nikiphorovna đâu, - chị ta nói thêm khi trận cười đã ngớt.
- Xin ghi lòng tạc dạ. Ấy, cậu ạ, để khỏi dài dòng lôi thôi xin nói rằng lúc đầu tớ muốn bắc một luồng điện chạy qua khắp khu nầy đề xua hết những định kiến của địa phương sở tại đi; nhưng Pasenka đã thắng. Cậu ạ quá tớ không ngờ bà ta lại có thể… khả ái như vậy! Cậu nghĩ sao. hả?
Raxkonikov lặng thinh, tuy đôi mắt, lo lắng không phút nào rời Razumikhin, và bây giờ vẫn chăm chăm nhìn anh tả.
- Rất khả ái nữa là khác, - Razumikhin nói tiếp, không mảy may nao núng trước sự im lặng của Raxkonikov, và như đang đáp lại mọi câu trả lời của chàng, - mà lại khá về đủ mọi phương diện.
- Rõ khỉ! - Naxtaxia lại kêu lên. Câu chuyện nầy hình như đang đưa lại cho chị ta một niềm khoái lạc không sao tả xiết.
- Thật đáng tiếc là ngay từ đầu cậu đã không biết cách xoay sở. Với bà ta thì không làm như thế được. Tính tình bà ta có thể nói là hết sức bất kỳ! Thôi, để sau hẵng nói đến chuyện tính tình… Thế nhưng làm thế nào, là nói ví dụ thế, cậu làm thế nào đến nỗi bà ta dám không dọn cho cậu ăn nữa? Hay như tờ tín phiếu kia chẳng hạn? Cậu điên hay sao mà lại đi ký những tờ tín phiếu như thế? Hay chuyện cậu hứa hôn với con gái bà ta chẳng hạn, khi cô Natalya Yegorovna nầy còn sống… Tớ biết hết? Ấy, tớ cũng thấy đây là một vấn đề tế nhị, và vừa rồi quả tớ ngốc như con bò; cậu tha lỗi cho tớ nhé. Nhưng nhân thể nói đến chuyện ngốc với chả ngốc; cậu nghĩ sao, Praxkovia Paylovna hoàn toàn không ngốc chút nào như mới thoạt trông có thể tưởng, phải không nào?
- Ừ - Raxkonikov ậm ừ, mắt nhìn đi nơi khác, nhưng cũng hiểu rằng cứ cố tiếp chuyện thì có lợi hơn.
- Có phải không nào? - Razumikhin reo lên, hẳn là rất hài lòng được bạn trả lời, - nhưng cũng không phải là thông minh, hả? Tính tình thật là bất kỳ, thật là bất kỳ! Tớ có phần hoang mang rồi đấy, thật thế cậu ạ Bà ta sắp trọn tứ tuần rồi. Nhưng bà ta cứ bảo là băm sáu, và bà ta hoàn toàn có quyền nói như vậy. Vả chăng quan niệm của tớ về bà ấy có tính chất trí tuệ nhiều hơn và chỉ thuộc lĩnh vực siêu hình học; những gì đã diễn ra giữa bà ta với tớ thật rối beng lên như đại số học vậy! Tớ không hiểu ra làm sao nữa! Thôi, toàn chuyện nhảm hết; có điều là bà ta thấy cậu không đi học nữa, chỗ dạy học cũng chẳng còn mà bộ cánh cũng mất, và đến khi con gái chết đi thì không còn liên hệ bà con gì với cậu nữa, nên đã phát hoảng lên, còn về phần cậu, cậu cứ nằm bẹp trong xó không chịu làm ăn gì như trước nữa, cho nên bà ta mới nghĩ ra cái chuyện đuổi cậu ra khỏi nhà. Bà ta đã có ý định ấy từ lâu nhưng còn tiếc tờ tín phiếu. Hơn nữa chính cậu quả quyết là bà cụ sẽ trả.
- Đó là vì tám địa tôi hèn hạ cho nên mới nói thế… Mẹ tôi thiếu chút nữa phải đi ăn xin… thế mà tôi lại đi nói dối đề người ta cho ở trọ và… cho ăn, - Raxkonikov nói to và rành mạch.
- Phải, cậu nghĩ phải đấy. Nhưng sở dĩ cơ sự hỏng bét cũng chỉ vì ông Shebarov, tư vấn pháp đình và là nhà doanh nghiệp nhúng tay vào. Không có ông ta thì Pasenka chẳng bày vẽ gì đâu, bà ấy nhút nhát lắm, thế nhưng nhà doanh nghiệp kia thì lại không nhút nhát và việc đầu tiên dĩ nhiên là đặt vấn đề: liệu tờ tín phiếu kia có hy vọng gì được thanh toán không? Bà ta trả lời là: có, vì có bà cụ, với số lương quả phụ một trăm hai mươi lăm rúp, bà cụ sẽ trả nợ cho thằng Rodenka của mình, dù có phải nhịn đói cũng vui lòng, lại có cô em, sẵn sàng bán mình làm nô lệ để giúp anh. Thế là ông Shebarov căn cứ vào đấy… Cậu làm gì mà cựa quáậ dữ thế? Cậu ạ, bây giờ tớ biết tỏng hết những chuyện bí ẩn của cậu rồi, khi cậu còn có quan hệ gia đình với Pasenka, cậu cởi mở với bà ta là phải: chứ bây giờ thì chỗ bạn bè tôi xin nói với cậu là… Ấy nó là thế đấy: người trung thực, đa cảm thì cởi mở tâm tình, còn người căn cơ chí thú thì lắng nghe và lợi dụng. Ấy thế là Pasenka nhường tờ tín phiếu lại cho cái ông Shebarov kia, lấy cớ là để trả nợ, và ông nầy, không chút ngượng mặt, đã đem ra pháp luật đòi thanh toán: Biết được những chuyện nầy: tớ cũng toan cho ông ta một vố, cho tròn bổn phận, nhưng vừa lúc giữa tớ với Pasenka bắt đầu có một mối quan hệ rất ư đằm thắm, cho nên tớ bèn ra lệnh chấm dứt mọi chuyện, bóp nghẹt vụ nầy ngay trong trứng nước như người ta thường nói, cam đoan rằng cậu sẽ trả. Cậu nghĩ chưa, tớ đảm bảo cho cậu đấy! Chúng tớ gọi Shebarov đến, đấm vào mồm hắn mười rúp và rút giấy về, nó đấy, rất hân hạnh được giới thiệu nó với ngài. Thế là bây giờ ngài chỉ còn nợ mồm nữa thôi. Cầm lấy, tớ đã "xem kỹ" lắm rồi đấy.
Razumikhin đặt tờ giấy vay tiền lén bàn; Raxkonikov liếc nhìn một cái và lặng lẽ quay mặt vào tường. Đến như Razumikhin mà cũng phải phật lòng. Anh nói sau một phút im lặng:
- Đấy cậu lại giở cái trò ấy ra rồi. Tớ tưởng nói chuyện ba hoa nầy nọ cho cậu khuây khoả, ai dè hình như chỉ làm cậu bực mình.
- Cậu chính là cái người mà tôi không nhận ra trong khi mê sảng đấy à? - Raxkonikov nói, cùng sau một phút im lặng và không quay đầu lại.
- Tớ đấy thậm chí ngài còn nổi xung lên mỗi khi trông thấy tớ nữa, nhất là hôm tớ đưa Zamiotov đến.
- Zamiotov?… Viên chánh văn phòng ấy à? Đến làm gì? - Raxkonikov quay phắt lại nhìn Razumikhin trừng trừng.
- Kìa cậu làm sao thế? Cậu sợ cái gì. Hắn muốn làm quen với cậu… Nếu không thì tớ làm sao mà biết được nhiều chuyện của cậu như thế? Thằng cha tốt lắm cậu ạ, một con người tuyệt diệu… dĩ nhiên là theo một kiểu riêng. Bây giờ tớ với hắn là chỗ thân tình; hầu như ngày nào cũng gặp nhau vì tớ dọn sang ở khu nầy rồi. Cậu chưa biết à? Mới dọn sang đấy. Hắn với tớ có đến nhà Laviza hai lần. Cậu có nhớ mụ Laviza không? Laviza Ivanovna ấy mà?
- Tớ có nói mê gì không?
- Còn phải nói. Ngài có còn là ngài nữa đâu.
- Tớ nói mê những gì?
- Chà? Nói mê những gì ấy à? Còn lạ gì những lời nói mê của người ốm nữa… Thôi, cậu ạ, để khỏi phải mất thì giờ, phải hắt tay vào việc ngay.
Razumikhin đứng dậy vơ lấy mũ.
- Tớ nói mê những gì?
- Anh chàng nầy gan lì thật! Hay cậu sợ lộ một chuyện gì bí mật? Đừng lo: cậu không hề nói gì về nàng công chúa của cậu đâu. Toàn nói những chó cọc với lại hoa tai, dây chuyền gì đấy, lại có nói đến đảo Krextovxki, đến một lão gác cổng nào đấy, lại nhắc cả đến Nikodim Phomits và Ilya Petrovich ở quận cảnh sát, nói nhiều lắm. Phải, ngoài ra ngài lại còn có lòng quan tâm rất mực đến chiếc găng của ngài, quan tâm lắm lắm. Ngài cứ van vỉ: đưa đây cho tôi! Cứ thế mãi. Zamiotov đã thân hành đi lục lọi khắp phòng tìm cho ngài đôi bít tất và tự tay - đôi tay rửa nước hoa đeo đầy nhẫn - tự tay cầm cái của khỉ ấy lại cho ngài, lúc ấy ngài mới bình tâm lại, và suốt ngày đêm cứ khư khư giữ cái của khi ấy trong tay không sao lấy ra được. Chắc bây giờ còn nằm đâu ở dưới chân cột ấy. Lại còn đòi gấu quần gấu kiếc gì nữa, mà đòi đến ứa nước mắt ra chứ có phải vừa đâu. Chúng tớ cứ băn khoăn mâi không biết gấu quần nào. Không còn hiểu ra làm sao nữa… Thôi, phải bắt tay vào việc đi thôi! Đây có ba mươi lăm rúp, tớ lấy mười rúp, hai tiếng nữa tớ sẽ báo cáo cách sử dụng. Trong khoảng ấy tớ sẽ đi gọi Zoximov. Lẽ ra hắn đến từ lâu rồi mới phải, hơn mười một giờ rồi còn gì. Còn Naxtenka, trong khi tôi đi vắng chị nhớ ghé vào đây luôn, nhỡ anh ấy có cần ăn uống gì chăng… Còn Pasenka thì tớ sẽ dặn ngay những việc cần phải làm! Tớ đi nhé!
- Gọi bà ấy là Pasenka có chết người không chứ!
- Chà, cái anh chàng láu thật! - Naxtaxia nói với theo Razumikhin, đoạn mở cửa ra nghe ngóng một lát, nhưng rồi sốt ruột quá cũng bỏ chạy xuống nhà nốt. Chị ta đang háo hức muốn biết Razumikhin nói chuyện gì với bà chủ; Vả lại nói chung có thể thấy rõ chị ta phục lăn Razumikhin.
Cánh cửa vừa đóng lại sau lưng Naxtaxia thì Raxkonikov tung chăn nhảy phắt dậy, ngơ ngác như người điên. Lòng như thiêu như đốt, chàng sốt ruột mong họ đi khuất đi cho chóng, để bắt tay ngay vào việc.
Nhưng việc gì, việc gì? Vừa đúng lúc nầy chàng lại quên bẵng đi, như cố tình vậy. "Lạy Chúa? Chỉ xin nói rõ cho tôi một điều: họ đã biết việc ấy chưa, hay là chưa biết? Chắc họ biết hết rồi nhưng cứ giả vờ không biết để trêu gan mình, trong khi mình còn nằm liệt giường, thế rồi đến một lúc nào đó họ sẽ ập vào và nói rằng họ đã biết hết từ lâu nhưng cứ để thế xem sao… Bây giờ biết làm gì đây? Quên bẵng đi mất, cứ như cố ý ấy; bỗng dưng quên tiệt: vừa mới rồi còn nhớ kia mà…"
Chàng đứng ở giữa phòng, bứt rứt và ngơ ngác nhìn quanh, rồi đến mở hé cánh cửa nghe ngóng; nhưng không phải thế, phải làm cái gì khác kìa. Bỗng như sc nhớ ra, chàng nhảy chồm vào góc phòng nơi giấy dán tường thủng ra một lỗ, xem xét một lúc, thò tay vào moi moi trong lỗ, nhưng vẫn không phải. Chàng đến cạnh lò sưởi, mở nắp lò ra và bắt đầu bới bới trong đống tro: những mảnh xơ gấu quần và miếng túi rách vẫn nằm nguyên ở chỗ chàng vứt, thế nghĩa là chưa có ai nhìn vào! Đến đây chàng sực nhớ đến chiếc tất mà lúc nãy Razumikhin có nhắc tới. Quả thật nó đang nằm dưới tấm chăn, nhưng bị cọ xát nhiều và lấm be bét, cho nên Zamiotov tất nhiên không thể trông thấy gì được "Hừ, Zamiotov… sở cảnh sát!.: Chúng gọi ta lên sở cảnh sát làm gì thế nhi? Giấy gọi đâu? Chà… Mình lẫn lộn hết rồi: họ gọi là gọi từ hôm nọ kia chứ! Hôm ấy mình cũng xem xét mãi chiếc tất, còn bây giờ… bây giờ mình vừa mới ốm dậy. Thế Zamiotov đến đây làm gì? Razumikhin đưa hắn đến làm gì?… - chàng vừa lẩm bẩm, vừa ngồi phịch xuống đi-văng, người bải hoải ra.
Thế nầy là thế nào? Mình vừa còn mê sảng hay quả thật như thế. Hình như thật. A, nhớ ra rồi: phải trốn phải trốn cho nhanh: nhất định phải trốn, thế nào cũng phải trốn Nhưng… trốn đi đâu? Mà áo mình đâu mất rồi? Ủng cũng không thấy! Chúng lấy mất rồi! Chúng giấu! Hiểu rồi! A, áo khoác đây! Chúng nó bỏ sót! À tiền còn để trên bàn kia? Cả cái tín phiếu nữa… Ta sẽ lấy tiền bỏ đi thuê một căn buồng khác, chúng nó không tìm ra được đâu! Nhưng còn cái phòng địa chỉ, họ tìm ra mất, Razumikhin sẽ tìm ra. Phải trốn biệt… đi thật xa… sang Mỹ, và nhổ toẹt vào chúng nó! Đem cả tờ tín phiếu đi… sang đấy sẽ dùng được. Còn đem cái gì theo nữa nhỉ? Chúng nó tưởng mình ốm! Chúng nó không biết là mình có thể đi lại được, hê… hê… hê!… Tớ nhìn mặt chúng, mình cũng đủ biết là chúng nó biết rõ mọi chuyện! Miễn sao xuống lọt cái thang gác! Thế nhỡ chúng nó đã cho cảnh binh gác dưới kia thì sao? Cái gì thế nầy nhỉ, nước chè à? À, lại còn cả bia nữa, nửa chai, bia lạnh đây!".
Chàng cầm lấy cái chai còn đựng đến một cốc bia, và khoái trá uống thẳng một mạch như muốn đập tắt ngọn lứa đang thiêu đốt ***g ngực. Nhưng chưa được một phút đã thấy hơi men xông lên đầu, ở sống lưng có một cảm giác gây gây, có vẻ dễ chịu nữa là khác.
Chàng nằm xuống và kéo chăn lên đắp. Trí óc chàng đã bạc nhược và rời rạc săn, lại càng ngày càng rồi loạn thêm, và chẳng bao lâu một cảm giác buồn ngủ dịu dàng và dễ chịu đã bao trùm lấy chàng. Chàng khoái trá nhích đầu chọn chỗ gối cho thật êm, kéo tấm chăn bông êm ấm đã thay thế cho chiếc áo khoác rách trùm thật kín, khè buông một tiếng thở dài và thiếp đi trong một giấc ngu say sưa, khỏe khoắn. Chàng thức giấc khi nghe có tiếng ai bước vào phòng. Chàng mở mắt ra và thấy Razumikhin đã mở toang cửa phòng, đang đứng ở ngưỡng cửa, phân vân không hiểu nên vàp không. Raxkonikov nhổm ngồi dậy, nhìn anh như đang cố nhớ lại một điều gì.
- À cậu thức đấy ư, tớ đã tớ đã về đây. Naxtaxia, đưa cái gói lên đây! - Razumikhin gọi xuống dưới nhà. Tớ xin báo cáo ngay…
- Mấy giờ rồi? - Raxkonikov hỏi, mặt lo lắng nhìn quanh.
Cậu ngủ đẫy giấc đấy, chiều rồi, gần sáu giờ. Cậu ngủ được hơn sáu tiếng…
Trời ơi, làm sao tôi lại… thì đã làm sao? Càng khoẻ chứ sao! Cậu đi đâu mà vội? Có hẹn hò vói cô nào chắc? Bây giờ tất cả thời gian là của chúng ta. Tớ đợi cậu đã ba tiếng đồng hồ rồi; tớ có ghé vào hai lần: nhưng cậu đang ngủ; tớ lại đến tìm Zoximov hai lần, nhưng hắn không có nhà, thế mới chán chứ! Thôi được, rồi thế nào hắn cũng đến! Tớ còn đi lo mấy việc riêng của tớ nữa. Chả hôm nay tớ dọn hẳn sang ở bên nầy, cả ông chú tớ nữa. Bây giờ ông chú tớ ở chung với tớ đấy. Thôi nói chuyện phiếm mãi, khỉ thật, phải bàn công chuyện cho xong đã! Đem cái gói lên đây, Naxtenka Bây giờ ta… Thế cậu thấy trong người ra sao rồi?
- Tôi khoẻ, tôi không ốm. Razumikhin, cậu đến đã lâu chưa?
- Đã bảo là đợi đến ba tiếng đồng hồ mà.
- Không, trước đây kia!
- Trước cái gì?
- Thì tớ đã kể cho cậu nghe khi sáng rồi còn gì: hay cậu không nhớ!
Raxkonikov trầm ngâm suy nghĩ. Như trong giấc mơ, chàng mường tượng ôn lại những việc xảy ra trong ngày hôm ấy. Một mình chàng không sao nhớ lại hết được, chàng đưa mắt nhìn Razumikhin có ý dò hỏi.
- Hừm! - Razumikhin nói, - quên. Khi sáng tớ cũng ngờ là cậu chưa tỉnh hắn… Bây giờ ngủ được một giấc rồi mới đỡ… Thật đấy, trông khá hẳn ra. Cừ lắm. Nào ta bàn công việc? Cậu sẽ nhớ lại cho mà xem. Cậu nhìn cái nầy một chút, Rodia!
Razumikhin bắt đầu mở cái gói vải mà hình như anh ta hết sức quan tâm.
- Đây là vấn đề khiến tớ băn khoăn nhất đây, cậu ạ Vì phải làm cho cậu ra dáng một con người mới được. Ta bắt đầu nhé, xem từ trên xuống dưới. Cậu có thấy cái mũ lưỡi trai nầy không anh vừa nói vừa rút trong gói ra một chiếc mũ lưỡi trai khá xinh xắn, nhưng cũng rất tầm thường và rẻ tiền. - Cậu đội thứ tí xem.
- Khoan đã, sau hẵng hay, - Raxkonikov gạt phắt ra nói.
- Không được, Rodia ạ, đừng thế, muộn mất; với lại cả đêm nay mình sẽ không chợp mắt được đâu, chả mình mua chẳng đo đạc gì cả, không biết có vừa không.
- Vừa khéo! - anh đắc chí reo lên sau khi ướm thử vào đầu bạn, - vừa vặn đúng cỡ! Cậu ạ, mũ là phần quan trọng nhất trong trang phục, nó như là một lời giới thiệu vậy Tớ có thằng bạn tên là Tolxtyakov, hễ đi đến chỗ nào đông người là cứ phải bỏ mũ ra, trong khi người khác vẫn đội mũ như thường. Ai cũng nghĩ là hắn có thói khúm núm hèn hạ, thế nhưng thật ra thì chỉ vì hắn xấu hổ với cái tổ đ** của hắn: thằng cha cả thẹn lắm: Nào Naxtenka, nếu cho chị hai chiếc mũ nầy, chị thích cái nào? Cái mũ palmerston nầy (anh lấy trong xó ra cái mũ dạ nhàu nát của Raxkonikov mà không hiểu tại sao anh gọi là mũ palmerston) hay là cái mũ xinh xẻo như một đồ trang sức nầy. Rodia ạ, cậu thử đoán xem tớ trả hết bao nhiêu? - Thấy Raxkonikov cứ lặng thinh, anh quay sang hỏi Naxtaxia.
- Chị thử đoán xem?
- Dễ đến hai hào. - Naxtaxia đáp.
- Hai hào? Đồ ngốc! - Razumikhin phật ý quát lân, - hai hào bây giờ thi chị có mua cũng chẳng ai người ta bán; tám hào! Hơi cũ rồi mới mua được rẻ thế đấy. Họ có hẹn là hễ đội rách, đến sang năm họ sẽ bù không cho một cái khác, thật thế đấy! Nào, bây giờ sang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, như ở trường trung học ta vẫn hay nói. Xin báo trước là tớ hãnh diện với cái quần nầy lắm đấy nhé! - và anh ta giăng ra trước mặt Raxkonikov một cái quần len mỏng màu xám mặc mùa hè, - không thủng đến một lỗ nào, không dây lấy một vết nào, tuy cũ nhưng vẫn còn tươm chán, áo gi-lê cũng cùng màu với quần, theo đúng yêu cầu của thời trang. Mà cái gì đã cũ thì quả mặc có thích hơn: mềm hơn, êm hơn… - Rodia ạ, ở đời muốn gây dựng cơ đồ theo tớ chỉ cần chú ý theo cho đúng thời tiết; miễn là tháng giêng đừng đòi ăn dâu cốm thì trong túi bao giờ cũng còn được dăm đồng; về chuyện mua sắm nầy cũng thế. Bây giờ là mùa hạ, tớ sắm toàn đồ mùa hạ, vì đến mùa thu thì dù sao cũng phải có thứ ấm hơn, những thứ nầy đành phải vứt… hơn nữa đến lúc ấy những thứ nầy đã có đủ thì giờ rách, nếu không phải vì quá xa hoa thì cũng vì những khó khăn nội bộ. Nào thử đoán giá xem? Cậu bảo bao nhiêu? Hai rúp hai mươi lăm cô-pếch. Và cậu phải nhớ là vẫn có lời hẹn như trước đấy nhé nếu mặc rách rồi thì sang năm sẽ bù không một cái khác! Ơ hiệu Phediayev bao giờ cũng thế: đã trả tiền là thôi: suốt đời không bao giờ đặt chân đến nữa. Thôi bây giờ ta sang cái mục giầy dép. Cậu bảo sao nào? Rõ ràng là cũ, nhưng cũng còn đi được vài tháng: vì đây là hàng ngoại: viên thư ký sứ quán Anh mới đem ra chợ tầm tầm bán tuần trước; mới đi được có sáu hôm, nhưng vì cần tiền nên mới bán. Giá một rúp năm mươi cô-pếch. Được chứ?
- Nhưng nhỡ không vừa - Naxtaxia nói.
- Không vừa! Thế thì cái gì đây? - nói đoạn Razumikhin rút trong túi ra một chiếc giầy ủng cũ rích, rúm ró, bùn bám dày cộm, thủng be bét, chiếc giầy của Raxkonikov, - tớ đã mang phòng theo, và họ đã đo cỡ chân ở cái của khỉ nầy cho tớ. Họ làm ăn cẩn thận lắm. Còn về áo quần mặc trong thì tớ đã bàn với bà chủ. Trước hết đây là ba cái sơ-mi, vải phin thôi, nhưng diều áo mốt lắm… Đã thế là tám hào mũ, hai rúp hai mươi làm cô-pếch áo quần, vị chi là ba rúp năm cô-pếch; một rúp rưỡi mua giầy - vì giầy nầy tốt lắm - vị chi là bốn rúp năm mươi lăm cô-pếch, thêm năm rúp áo quần lót nữa - họ tính giá gộp cho nên mới rẻ thế - vị chi cả thảy là đúng chín rúp năm mươi lăm cô-pếch. Còn lại bốn mươi lăm cô-pếch tiền thừa, toàn tiền năm cô-pếch bằng đồng cả, đây, xin ngài nhận cho,… vì thế là bây giờ cậu đã có đủ bộ cánh rồi đấy.
Rodia vì theo ý tớ, cái áo khoác của cậu không những còn dùng được mà lại còn có một vẻ quý phái đặc biệt nữa, may ở hiệu Scharmer có khác! Về bít tất và các thứ lặt vặt khác thì tớ để cậu xoay lấy; ta còn hai mươi lăm rúp, còn về Pasenka và món tiền thuê nhà thì cậu đừng lo; tớ đã nói là tín dụng vô hạn định! - Thôi, bây giờ thì cậu cho phép mình thay áo quần cho cậu nhé, không thì bệnh nó ẩn trong chiếc áo sơ-mi ấy đấy
- Thôi! Tôi không thích! - Raxkonikov gạt phắt ra. Nãy giờ chàng vẫn nghe bản báo cáo vừa bông đùa vừa khẩn trương của Razumikhin với một cảm giác hết sức khó chịu.
- Cái đó thì không được đâu cậu ạ; chả nhẽ công tớ chạy đến mòn cả ủng đi như thế nầy chỉ là công toi! - Razumikhin năn nỉ. - Naxtaxia, đừng có xấu hổ, giúp tôỉ một tay nào, thế? - và bất chấp sự kháng cự của Raxkonikov, anh cứ thay áo quần cho chàng. Xong đâu đấy, Raxkonikov ngả lưng xuống chiếc gối và suốt mấy phút không nói lấy một lời.
"Họ cứ ám mình mãi?" - chàng nghĩ thầm. Cuối cùng chàng lên tiếng hỏi, mắt nhìn lên tường:
- Tiền mua các thứ ấy là tiền ở đâu thế?
- Tiền ở đâu ấy à? - Thế có chết không? Tiền của cậu chứ còn tiền ở đâu nữa. Hồi sáng có anh chạy hàng của lão Vakhrusin đến đây chuyển tiền của bà cụ cho cậu, cậu quên rồi hay sao?
- Bây giờ thì nhớ ra rồi. - Raxkonikov lầm lì nghĩ ngợi một hồi lâu rồi mới nói. Razumikhin cau mày lo lắng nhìn chàng.
Cánh cửa vụt mở và một người đẫy đà cao lớn bước vào phòng. Raxkonikov trông người nầy cũng thấy như có phần quen quen.
- Zoximov! May quá! - Razumikhin mừng rỡ reo lên.

Chú thích:
(1) Tên bà chủ nhà (Praxkovia) gọi thân mật.
(2) Razumikhin có từ gốc "razumi" nghĩa là lý trí, trí thông minh, lương tri. Razumlkhin có thể hiểu là "người có trí thông minh, còn Razumikhin có thể hiểu là "người biết điều, phải chăng"
(3) Nhiều người Nga khi uống trà thường không cho đường vào chén, mà ngậm đường trong miệng rồi húp nước vào sau (cho nước thấm qua miếng đường)

Chương 10

Phần II



Zoximov là một người cao lớn và béo đẫy trạc chừng hal mươi mấy tuổi, mặt phị, nước da nhợt nhạt, râu cạo nhẵn thín, tóc màu gai thẳng sợl, mặt đeo kính, ngón tay béo múp míp đeo một chiếc nhẫn vàng lớn. Anh mặc một chiếc áo khoác mỏng và rộng, rất bảnh bao, chiếc quần mùa hè màu nhạt, và nói chung trên người anh ca cái gì cũng rộng rãi, bảnh bao và chững chạc; đồ lót trắng muốt, trên gi-lê đeo mộ sợi dây đông hồ to bản. Cử chỉ của anh ta chậm rãi, dường như uể oải nhưng cũng xen lẫn một vẻ khinh xuất có dụng công; và tuy anh ta đã cố sức che giấu tính hợm mình vẫn luôn luôn lộ rõ ra ngoài. Tất cả những người quen biết đều bảo anh ta khó chịu, nhưng cũng phải thú nhận rằng anh ta là người thạo nghề.
- Tớ đến tìm cậu đến hai lần… Cậu thấy không, tỉnh rồi đấy! Razumikhin reo lên.
- Thấy rồi, thấy rồi; thế bây giờ anh bạn thấy trong người ra sao, hả? - Zoximov vừa hỏi Raxkonikov, mắt nhìn chàng đăm đăm, vừa ngồi lên đi văng cạnh chân chàng và lập tức ngả hẳn người ra cho thoải mái.
- Vẫn cứ lầm lỳ - Razumikhin nói tiếp. - vừa rồi người ta thay quần áo cho mà cũng suýt khóc lên đấy.
- Dễ hiểu thôi, anh ta đã không thích thì để thong thả rồi thay cũng được. Mạch rất tốt. Đầu vẫn hơi nhức phải không?
- Tôi khoẻ rồi, tôi khoẻ hẳn rồi! - Raxkonikov gắt, giọng bướng bỉnh, người bỗng nhỏm dậy, mắt quắc lên, nhưng rồi lại ngã phịch xuống gối và quay mặt vào tường. Zoximov chăm chú quan sát chàng.
- Rất tốt… ổn cả, - anh ta nói, giọng uể oải. - Đã ăn gì chưa?
Razumikhin thuật lại bữa ăn và hỏi xem có thể cho ăn những gì.
- Cho ăn gì cũng được hết mà… Xúp, nước trà… Nấm với dưa chuột thì dĩ nhiên là khoan cho ăn đã, thịt bò cũng thế, và thôi, chuyện nầy chẳng có gì phải dông dài! - Anh ta đư mắt cho Razumikhin - Không uống thêm thuốc men gì nữa hết; mai tôi sẽ xem lại… Đáng lẽ hôm nay… Thôi được… Chiều mai tớ sẽ đưa cậu ấy đi chơi! - Razumikhin quyết định - đến công vien Yuxupov rồi ghé vào "Palais de Cristal" (Lâu đài Pha lê)
- Tôi thì đến mai tôi chưa cho anh ấy cử động vội, vả chăng… chút ít thì được… thôi để đến khi ấy hẵng hay.
- Chà, bực quá vừa vặn hôm nay tớ ăn khao nhà mới, cách đây chỉ có mấy bước, giá cậu ấy sang đượcthì hay quá. Nằm trên đi-văng chơi với chúng tớ cũng được. Còn cậu thì sang chứ? - Razumikhin bỗng quay sang Zoximov nói. - ìttng qu n dây nhè, cáu hứa rồi đấr.
- Có lẽ mình sẽ đến muộn một chút. Cậu bày những trò gì nào?
- Có gì đâu trà rượu, cá thu. Sẽ có cả bánh nướng. Toàn bạn thân cả.
- Cụ thể có những ai?
- Thì vẫn là dân ở đây cả, hầu hết là dân mới, quả có thế, trừ có mỗi ông chú già nhà mình, nhưng cùng là một tay mới: mới đến Petersburg hôm qua có mấy việc gì ấy; năm năm hai chú cháu mới gặp nhau một lần.
- Ông ấy làm gì?
- Thì suốt đời cứ kéo lê mãi cái chức trưởng trạm bưu vụ ở huyện ấy mà… Sáu mươi lăm tuổi rồi; có sổ hưu bổng con con; thôi chả có gì đáng nói… Dù sao tớ cũng quý ông chú lắm. Có cả Porfiri Petrovich cũng sẽ đến; ông ta làm dự thẩm ở khu nầy… một nhà luật học. Nhưng cậu cũng biết ông ta - Cũng có họ với cậu à.
- Có họ rất xa thế nào đấy, sao cậu lại cau mặt? Vì hai người đã có lần cãi nhau, nên cậu không muốn đến nữa chắc?
Tớ cần **** gì chấp cái lão ấy.
- Thôi được, càng tốt. Ấy, còn có thêm mấy thằng sinh viên, một anh thấy giáo, một anh viên chức, một anh nhạc sĩ, một sĩ quan, lại có Zamiotov…
- Cậu thử nói mình nghe xem giữa cậu hay cậu nầy chẳng hạn - Zoximov hất hàm chỉ Raxkonikov - với một gã như Zamiotov thì có gì là đồng thanh tương ứng?
- Ồ cậu nầy lôi thôi thật! Nguyên tắc… Cậu thì bao giờ cũng ngồi trên đống nguyên tắc như ngồi lò xo ấy; không dám tự ý trở mình nữa; còn theo tớ thì nguyên tắc là ở chỗ người ta có tốt hay không, ngoài ra tớ không thèm biết gì nữa hết, Zamiotov là người tuyệt diệu.
- Phải, làm tiền cừ ra phết.
- Ừ thì làm tiền, tớ **** cần! Làm tiền thì đã sao, thiếu tự nhiên, - Razumikhin bỗng quát lên, vẻ giận dữ một cách thiếu tự nhiên - tớ có đưa chuyện ấy ra khoe khoang với cậu đâu? Tớ bảo là hắn cũng có mặt tốt, thế thôi! Nếu xét người mà cứ xét đủ mọi mặt thì còn được mấy người tốt nữa? Mà tớ tin chắc rằng cứ kiểu ấy thì tớ không đáng giá một củ hành nướng, dù có gộp cả cậu vào nữa cũng thế!
- Ít quá; tớ thì tớ đổi đến hai củ…
- Còn cậu thì chỉ đáng một củ thôi? Lại còn nói kháy: Zamiotov chỉ là một thằng bé con, tớ còn sẽ xách tai hắn nữa, vì cần phải lôi kéo hắn chứ không nên gạt hắn ra. Không phải cứ dùng cái lối gạt người ta ra mà sửa chữa cho người ta được, nhất là đối với trẻ con. Đối với trẻ con phải thận trọng gấp đôi Cái hạng tiến bộ như kiểu các anh thì chẳng hiểu gì hết! Không biết kính trọng người, lại thiệt cho cả mình. Còn nếu cậu muốn biết: thì xin nói là hắn với tớ quả có chỗ đồng thanh tương ứng đấy, chúng tớ đang cùng làm một việc chung.
- Muốn biết chứ?
- Thì vẫn là chuyện anh hàng thợ sơn ấy. Chúng tớ quyết sẽ gờ được cho hắn. Vả chăng bây giờ cũng chẳng có gì nguy kịch. Sự việc đã quá hiển nhiên rồi. Chẳng qua chúng tớ chỉ cho thêm than vào lò.
Lại thợ sơn thợ vẽ nào nữa thế?
- Sao, tớ chưa kể à? Chả nhẽ? À phải, tớ mới kể có phần đầu đấy, về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ ấy, bây giờ anh thợ sơn cũng bị liên luỵ vào vụ nầy.
- Về vụ ám sát nầy thì tớ biết trước cả cậu và thậm chí còn quan tâm đặc biệt, một phần nào, nhân một dịp… tớ có đọc trên báo! Thế rồi…
- Mụ Lizaveta cũng bị giết rồi! - Naxtaxia bỗng quay về phía Raxkonikov kêu lên. Nãy giờ chị ta vẫn đứng hóng chuyện trong phòng, người dựa vào tường cạnh khung cửa.
- Lizaveta? - Raxkonikov lắp bắp rất khẽ.
- Thế cậu không biết mụ Lizaveta vẫn hay đi lấy hàng ấy à? Mụ vẫn thường đến đây. Ở dưới nhà ấy. Có lần còn vá sơ-mi cho cậu.
Raxkonikov quay mặt vào tường. Trên tấm giấy dán tường vàng có vẽ hoa trắng, chàng chọn lấy một bông hoa nét về vụng về có những vạch gì nâu nâu, và bắt đầu nhìn thật kỹ: hoa có bao nhiêu cánh, mỗi cánh có bao nhiêu răng cưa và bao nhiều vạch nâu? Chàng cảm thấy tay chân tê dại đi, như bị cưa cụt mất, nhưng cũng không buồn cử động, cứ nằm yên nhìn trừng trừng vào bông hoa trắng…
- Thế cái anh thợ sơn kia làm sao? - Zoximov cắt ngang nhưng lời tán gẫu của Naxtaxia với một vẻ khó chịu đặc biệt. Chị ta thở dài và lặng thinh.
- Cũng bị tình nghi là thủ phạm! - Razumikhin hăm hở nói.
- Có bằng chứng gì không?
- Bằng chứng **** gì! Quả họ đã căn cứ vào một bằng chứng, nhưng nó có phải là bằng chứng hay không thì cũng còn phải chứng minh! Cũng đúng hệt như lúc đầu họ tình nghi và bắt giam hai cái lão… hai cái lão **** gì ấy nhỉ? À, Koch và Pextriakov. Xì! Làm ăn ngốc thật, ngay đứng ngoài cũng thấy chướng mắt! Có lẽ cái anh chàng Pextryakov hôm nay sẽ ghé lại đằng tôi. À nầy, Rodia, chắc cậu cũng biết vụ nầy, nó xảy ra từ trước khi cậu ốm đấy, đúng vào đêm trước cái hôm cậu ngất đi ở sở cảnh sát khi họ đang nói chuyện về vụ nầy.
Zoximov tò mò nhìn Raxkonikov. Chàng nằm im không nhúc nhích.
Nầy, Razumikhin ạ, tớ trông cậu thật là một tay hiếu sự hết sức - Zoximov nhận xét.
- Cứ cho như thế, nhưng chúng tớ cũng cứ gỡ cho hắn! - Razumikhin đập bàn quát lên. - Xét ra trong vụ nầy có cái gì đáng giận hơn cả? Không phải là chuyện họ nói bậy; nói bậy thì bao giờ cũng có thể tha thứ được; nói bậy cùng có chỗ hay, vì nó dần đến chân lý. Không phải, cái tệ nhất là đã nói bậy mà còn huênh hoang với những lời nói bậy của mình nữa. Tớ kính trọng Porphin, nhưng… Ấy chẳng hạn lúc đầu cái gì làm cho họ lạc hướng? Cánh cửa vốn đóng kín, thế mà khi cùng lên với lão gác cổng thì lại mở: Ấy thế nghĩa là Koch và Pextriakov chính là thủ phạm. Đấy, cái logic của họ là như thế đấy.
- Kìa cậu đừng nói khùng lên thế họ chỉ tạm giữ hai người ấy lại thôi; vì không thế… À, trước tớ vẫn gặp cái lão Koch ấy. Thế lão nầy vẫn mua lại đồ cầm hết hạn chuộc của mụ già đấy à?
- Phải, đúng là một thằng đại bợm! Hắn mua cả tín phiếu nữa. Một thằng làm tiền mà. Nhưng thôi kệ xác hắn! Cậu có hiểu không, tớ bực là bực cái lối làm việc hết sức cổ hủ, đồi bại của họ… thế mà chỉ riêng trong vụ nầy đáng lẽ cùng có thể mở ra cả một con đường mới. Chỉ cần những cứ liệu tâm lý học không thôi cũng đủ có thể vạch rõ cách tìm cho ra dấu vết thật sự… Cứ bảo là "chúng tôi có sự kiện đây mà!". Nhưng sự kiện chưa phải là tất cả: Ít nhất một nửa vấn đề là ở cách xử lý các sự kiện.
- Thế cậu biết cách xử lý các sự kiện à?
- Thì cậu bảo làm thinh thế nào được khi cảm thấy rõ rệt rằng mình có thể giúp ích cho công việc, nếu… Ối giào! Cậu có biết rõ chi tiết vụ nầy không?
- Tớ còn đang chờ nghe cậu nói về anh thợ sơn kia.
- À phải! Đây, đầu đuôi thế nầy: đúng hai ngày sau khi xảy ra vụ án mạng, vào buổi sáng, khi họ đang mải lăng xăng quanh Koch với Pextriakov (tuy hai lão nầy đã thanh minh đến đầu đến đũa từng đường đi nước bước của mình, không còn hồ nghi gì được nữa) thì bỗng xảy ra một sự kiện hết sức bất ngờ. Mộ lão mu-gich nào đó tên là Duskin, chủ một, tiệm rượu ở ngay trước mặt ngôi nhà, đến sở cảnh sát trình một chiếc hộp đựng tư trang trong có đôi hoa tai bằng vàng và kể lại cả một câu chuyện dài: "Cách đấy hai hôm, khoảng hơn tám giờ tối một chút - cậu chú ý ngày giờ nhé có một anh thợ sơn tên là Mikolai, trước dây vẫn thường lui tới nhà tôi, cầm cái hộp đựng đôi hoa tai vàng mặt ngọc đến tìm tôi và hỏi vay hai rúp, và đến khi tôi hỏi; cái nầy lấy ở đâu? - thì hắn ta bảo là nhặt ở v** hè, rồi không nói gì thêm nữa - lão Duskin nói thế, - và đem ra cho hắn một tờ, tức một rúp, vì tôi nghĩ bụng là nếu không gán cho mình thì hắn cũng đem gán cho kẻ khác, trước sau hắn cũng nướng vào tiệm rượu hết, dù sao tôi cất vẫn hơn: cất càng kín thì lấy càng nhanh, như câu tục ngữ vẫn nói, nếu có nghe phong thanh đấy là của ăn cắp hay có chuyện gì lôi thôi tôi sẽ lên trình quận". Dĩ nhiên hắn nói láo, vì tớ biết cái lão Duskin nầy lắm, hắn cũng là tay chuyên nhận đồ cầm và oa trữ của ăn cắp; hắn nhận của thằng Mikolai một vật trị giá ba mươi rúp không phải để mang "trình quận". Chẳng qua hắn sợ đấy thôi. Nhưng thôi kệ mẹ hắn, cậu nghe, đây. Lão Duskin nói tiếp: "Còn như Mikolai Dementiev thì tôi biết từ hồi hắn còn nhỏ: hắn với tôi đến ở tỉnh Ryazan, huyện Zaraixk cả, hắn tuy không phải là tay nghiện rượu, nhưng cùng hay đánh chén: và chúng tôi biết hắn làm việc trong ngồi nhà ấy với Mitrey, vốn cùng quê với hắn. Nhận được đồng rúp của tôi, hắn lập tức đem đổi lấy tiền uống liền hai cốc rồi cầm tiền phụ ra vê. Còn Mitrey thì lúc ấy tôi không thấy đi với hắn. Đến hôm sAusterlix, chúng tôi mới nghe tin bà Aliona Ivanovna với bà em Lizaveta Ivanovna bị giết chết bằng rìu. Chúng tôi vốn có biết hai bà ấy nên sinh nghi về đôi hoa tai kia vì chúng tôi vẫn cho rằng mồ ma bà ấy vốn cho vay gán đồ. Tôi mới đến nhà bà ấy và kín đáo tìm hiểu xem sao. Trước tiên tôi hỏi: "Mikolai có đấy không?" Mitrey mới bảo là Mikolai đi chè chén mãi đến tảng sáng mới về, say khướt; về được mươi phút lại đi, sau đó Mitrey không thấy hắn đâu nữa, đành làm nốt công việc một mình, là họ làm việc cùng một cầu thang với người bị giết ở tầng thứ hai. Nghĩ được những chuyện đó, chúng tôi không hé răng với ai - lão Duskin nói - nhưng cần tìm đủ cách để biết cho tường tận vụ nầy, và khi về nhà vẫn giữ mối nghi kỵ ấy. Đến sáng hôm nay, lúc tám giờ "tức là hai ngày sau vụ án mạng", cậu hiểu chưa, tôi thấy Mikolai vào nhà tôi không tỉnh nhưng cũng không say lắm, có thể nghe nói chuyện được. Hắn ngồi ở ghế dài và làm thinh. Lúc bấy giờ ngoài hắn ra trong tiệm rượu chỉ có một ông khách, còn thì có một người nữa người quen, nằm ngủ trên một chiếc ghế dài, vì đây cũng là một khách quen, ngoài ra còn hai thằng bé hầu bàn nhà tôi nữa. Tôi mới hỏi: "Có gặp Mitrey không?" - "Không, hắn bảo thế, không gặp" "Thế anh không đến đấy lần nào à?" - "Hai hôm nay không đến" - hắn nói. "Thế hôm qua anh ngủ ở đâu?" "Ở bãi cát, chỗ bọn Kolomna ấy - "Thế hôm ấy, anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi nhặt trên v** hè" - hắn nói câu nầy nghe rất lạ, mắt cứ tránh nhìn tôi. Tôi bảo: "Anh có nghe nói là ngay tối hôm ấy, đúng vào giờ ấy, trên thang gáa ấy có xảy ra chuyện nầy chuyện nọ không" - "Không, tôi không nghe" - hắn bảo thế. Hắn hưóng mắt lên nghe tôi nói, mặt bỗng tái nhợt đi tờ giấy. Tôi mới kể hết chuyện ấy cho hắn nghe", thế là hắn đứng dậy cầm mũ định ra về. Tôi muốn giữ hắn lại: "Khoan đã, Mikolai ạ, uống chén rượu đã chứ?" - tôi nháy người nhà đứng chặn lấy cửa trong khi tôi vòng ra phía sau, nhưng hắn lập tứ vùng chạy ra phố, rẽ ngoặt vào một ngõ hẻm, không thấy tăm hơi đâu nữa. Đến đây tôi không còn phân vân gì nữa, đúng hắn rồi…
- Còn phải nói! - Zoximov chêm vào.
- Khoan! Hẵng nghe cho hết đã, dĩ nhiên là họ đâm bổ đi tìm Mikolai; họ cho bắt giữ Duskin và khám nhà hắn, bắt luôn cả Mitrey; họ cũng lục tung cả nhà bọn ở Kolomna lên. Nhưng đến ngày thứ ba thì giải Mikolai về: hắn bị giữ lại ở gần cửa ô X., trong một quán trọ, hắn đến đấy, cởi cái thánh giá bằng bạc đeo trên cổ ra xin đổi lấy cốc rượu. Người ta mang rượu ra cho hắn. Một lát sau, một mụ đàn bà vào vắt sữa bò, nhìn qua khe cửa thì trong gian nhà kho ở bên cạnh thấy hắn đang tháo dây thắt lưng ra buộc thành thòng lọng treo lên sàn nhà, hắn đứng lên một súc gỗ chui đầu vào cai thòng lọng. Mụ đàn bà hét tướng lên, người ta mới đổ xô lại: "À! ra thế đấy?" - "Các ông cứ dẫn tôi đến quận cảnh sát, khu nọ khu kia, tôi sẽ thú hết". Họ bèn dẫn hắn vé quận cảnh sát khu nầy với đủ các nghi thức thích đáng. Thế là bắt đầu cuộc hỏi cung: anh là ai, ở đâu, mấy tuổi - "hai mươi hai tuổi", vân vân, vân vân, rồi trong khi anh đang làm việc với Mitrey, có thấy ai đi lên thang gác vào giờ nọ giờ kia không?". Đáp: "Chắc có nhiều người đi qua, nhưng chúng tôi không để ý" "Anh có nghe thấy tiếng động gì không?" "Không nghe thấy gì khác thường cả" - "Thế anh có biết rằng ngày hôm ấy, vào giờ ấy, mụ già nọ với em gái mụ bị người ta giết rồi lấy của không?" - "Tôi không hề hay biết gì hết. Cách dây hai ngày tôi mới nghe ông Aphanaxi Pavlich nói chuyện nầy lần đầu trong tiệm rượu" - "Thế anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi bắt được trên v** hè" - "Tại sao hôm sau anh không đến làm việc với Mitrey?" - "Tại tôi còn đi đánh chén" - "Đánh chén ở đâu?" - "Ở chỗ nọ chỗ kia" - "Tại sao lại vùng chạy ra khỏi nhà Duskin?" - "Vì lúc đó tôi sợ quá" - "Sợ cái gì? - "Sợ bị đem xử" - Sao lại sợ bị xử nếu biết mình không có tội tình gì?" Đấy, cậu có tin hay không thì tuỳ cậu đấy, Zoximov ạ, nhưng quả thật họ có hỏi câu đó, nguyên văn đúng như thế, tớ biết qua một nguồn tin chắc chắn? Thế nào, cậu thấy thế nào, hả?
- Ấy dù sao thì bằng chứng vắn có đấy chứ.
- Nhưng tớ chưa nói đến bằng chứng, tớ đang nói đến cái câu hỏi cũng kia, đến cách họ quan nỉệm nhiệm vụ của họ! Thôi kệ thấy họ! Ấy, họ thúc bách hắn, ép mãi, dồn mãi, thế là hắn thú: "Không phải bắt được trên v** hè, mà ở trong gian phòng tôi với Mitrey làm việc" - "Bắt được như thế nào?" - "Như thế nầy: tôi với Mitrey sơn suốt ngày hôm ấy đến tám giờ, đã sắp sửa về, thì Mitrey cầm chổi sơn bôi lấy bôi để vào mặt tôi, rồi bỏ chạy, tôi mới đuổi theo. Tôi vừa đuổi theo hắn vừa hét tưởng lên; chạy xuống đến sân thì đâm sầm vào bác gác cổng và mấy ông lớn nữa, có bao nhiêu ông cả thảy thì tôi không nhớ; bác gác cổng mới chửi tôi một hồi, rồi đến một bác gác cổng nữa cũng chửi, rồi mụ vợ bác gác cổng cũng ra chửi chúng tôi một chầu nữa rồi đến một ông lớn đi với một bà vào sân cũng chửi chúng tôi, vì lúc tôi với Mitka nằm chắn ngang lối đi: tôi đang túm lấy tóc Mitka vật nó xuống đất và đấm thùm thụp vào người nó, còn Mitka đang nằm dưới người tôi cũng túm lấy tôi và đánh vào người tôi thùm thụp, không phải chúng tôi đánh nhau thật vì thù ghét gì nhau đâu, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa nhau thế thôi. Sau đó Mitka vùng chạy ra phố, tôi mới đuổi theo, nhưng đuổi không kịp đành trở về phòng một mình, vì còn phải dọn dẹp mà về. Tôi bắt đầu thu dọn và đợi Mitka trở lại. Thề rồi ở góc phòng ngoài, sát tường, sau cánh cửa ra vào tôi chợt dẫm phải một gói gì, tôi mới cúi xuống xem thì thấy đó là một cái hộp gói giấy. Tôi tháo giấy ra thì thấy cái hộp cài bằng hai cái móc nho nhỏ, tháo móc ra thì trong hộp thấy có đôi hoa tai…".
- Sau cánh cửa à? Nó nằm sau cánh cửa à? Sau cánh cửa? - Raxkonikóp bỗng kêu lên: đôi mắt ngây dại hoảng hốt nhìn Razumikhin và từ từ chống tay nhổm dậy, trên đi-văng.
- Ừ thì sao? Cậu làm sao thế? Việc gì thế? -
Razumikhin cũng chồm dậy hỏi.
- Không sao cả… - Raxkonikov thều thào đáp rất khẽ, đoạn lại ngả mình xuống gối và lại quay mặt vào tường. Mọi người im lặng một lát.
- Chắc cậu ấy ngủ rồi nói mế đây, - mãi hồi lâu Razumikhin mới nói, mắt nhìn Zoximov có ý dò hỏi;
Zoximov khẽ lắc đầu không đồng ý, rồi nói:
- Nầy cậu kể tiếp đi rồi sao nữa?
- Nói ao nữa ấy à? Trông thấy đôi hoa tai, hắn quên khuấy cả Mitka lẫn gian phòng, vớ lẫy mũ và chạy một mạch đến nhà Duskin, và như ta đã biết, hắn nhận của lão nầy một rúp, nói dối với lão là nhặt được ở v** hè rồi lập tức đi đánh chén. Còn về vụ giết người thì hắn vẫn một mực như trước: "Tôi không hay biết gì cả, hôm kia tôi mới nghe nói lần dầu - "Thế sao cho đến nay anh vẫn không đến trình?" - "Vì tôi sợ" - "Thế tại sao lại muốn thắt cố?" - "Vì lo nghĩ." - "Lo nghĩ gì?" - "Nhỡ bị toà xử". Đấy, đầu đuôi câu chuyện là như thế. Bây giờ cậu thứ nghĩ xem họ kết luận như thế nào.
- Thì còn nghĩ gì nữa, dù sao cùng có những dấu hiệu. Chưa chắc chắn lắm, nhưng vẫn là những dấu hiệu. Đó là một sự kiện. Dù sao cũng không thể thả thằng cha thợ sơn của cậu ra được.
- Ồ bây giờ họ đang buộc cho nó cái tội giết người ấy đấy! Thậm chí họ không còn hoài nghi gì nữa hết!
- Nói nhảm, cậu thì chỉ bốc đồng thôi. Thế còn đôi hoa tai? Cậu phải nhận rằng nếu ngay hôm ấy, đúng vào giờ ấy đôi hoa tai ở trong rương mụ già lọt vào tay Mikolai thì cũng phải do một con đường nào chứ, có phải không nào? Điều đó cũng khá quan trọng đối với việc điều tra nầy.
- Rằng con đường nào? Bằng con đường nào à? - Razumikhin quát lên, - cậu là bác sĩ, cậu có nhiệm vụ khảo sát con người trước tiên, và hơn ai hết, cậu có dịp nghiên cứu con người, thế mà chẳng lẽ qua những tài liệu ấy cậu không thấy được bản chất cái thằng Mikolai ấy ra sao à? Chả nhẽ cậu không thấy ngay từ đầu rằng tất cả những điều hắn cũng khai đều là sự thật thuần tuý hay sao? Chuyện hắn bắt được đôi hoa tai đúng như lời hắn nói đấy, hắn dẫm phải cái hộp rồi nhặt lên?
- Sự thật thuần túy! Thế nhưng chính hắn thú nhận rằng lần trước hắn nói dối kia mà?
Cậu nghe tớ nói đây, nghe cho kỹ: cả người gác cổng, cả Koch, cả Pextriakov, cả người gác cổng kia nữa, cả vợ người gác cổng thứ nhất, cả mụ lái buôn đang ngồi chơi ở nhà mụ nầy, cả viên tư vấn pháp đình Kruylov lúc ấy vừa xuống xe khoác tay một bà đi vào sân nữa, - tất cả, nghĩa là đến tám chín nhân chứng, đều nhất trí khai rằng lúc ấy Mikolai đang đè Mitka xuống đất và đâm hắn ta, còn Mitka thì túm lấy tóc hắn và cũng đâm lại, hai đứa nằm ngay giữa lối đi; mọi người xung quqnh đều chửi mắng chúng, còn chúng thì "như hai đứa trẻ nhỏ" (nguyên văn lời khai của các nhân chứng) nằm đè lên nhau, la hét, đánh nhau và cười ha hả, bộ mặt hết sức ngộ nghĩnh, rồi đuổi nhau chạy ta phố như hai thằng con nít. Cậu nghe ra chưa?
Bây giờ cậu ghi nhớ thật kỹ lấy điều nầy: hai cái xác ở trên kia hãy còn nóng, cậu nghĩ ra chưa, hãy còn nóng, đến khi họ vào buồng vẫn thế! Nếu chính hai đứa kia giết, hay chỉ mình thằng Mikolai không thôi cũng thế, giết rồi bẻ khoá rương lấy của, hay chỉ tham gia phần nào vào việc lấy của thôi, thì xin hỏi cậu một câu nầy: một tâm trạng như thế, tức là những tiếng la hét, những tiếng cười, trận đánh nhau như trẻ con ở dưới cổng, có phù hợp chút nào với những thứ rìu búa, máu me, với những hành động thận trọng, xảo quyệt của kẻ giết người cướp của hôm ấy không. Vừa mới giết người xong, chi cách có năm mười phút - vì hai cái xác hày còn nóng - thế mà bỗng dưng bỏ cả xác chết lẫn gian phòng mở toang ra đấy, và biết rằng sẽ có người đi qua, liền nằm lăn ra giữa lối đi như hai đứa con nít, cười đùa ầm ĩ khiến mọi người chú ý, như mười nhân chứng nhất trí xác nhận?
- Kể thì l thật! Dĩ nhiên không thể nào như thế, nhưng…
- Không, cậu ạ, không nhưng gì hết, còn nếu việc đôi hoa tai kia nằm trong tay Mikolai đúng vào giờ ấy, ngày ấy quả nhiên là một bằng chứng để buộc tội hắn - song đó là một việc có thể cắt nghĩa trực tiếp bằng những lời khai của hắn, cho nên chỉ là một bằng chứng có thể bác bỏ được - thì cùng phải xét đến cả những sự kiện thanh minh cho hắn huống chi đấy lại là những sự kiện không thể phủ nhận. Thế còn cậu nghĩ sao, cứ theo tinh thần của pháp lý học của nước ta liệu họ có thừa nhận hoặc có khả năng thừa nhận một sự kiện như vậy - một sự kiện chỉ căn cứ vào tâm lý học, vào một tâm trạng, - làm một sự kiện không thể bác bỏ được và có hiệu lực đánh đổ tất cả các sự kiện buộc tội có tính chất vật chất, dù những sự kiện nầy có thế nào chăng nữa không? Không, họ không thừa nhận đâu, họ không đời nào thừa nhận, vì họ tìm được cái hộp ấy, vì người kia muốn thắt cổ, "một điều không thể có được, nếu hắn thấy mình vô tội!". Đó là vấn đề chủ yếu, tớ bốc đồng lên chính vì vấn đề đó! Cậu hiểu cho!
- Thì tớ cũng thấy là cậu bốc đồng lên đấy. Khoan, tớ quên hỏi cái nầy: lấy chứng cứ gì mà nói rằng cái hộp dựng hoả tai quả nhiên ở trong rương mụ già ra?
- Có đủ bằng chứng đấy, - Razumikhin cau mày đáp như có ý miễn cưỡng, - lão Koch đã nhận ra vật nầy và cho biết cả tên người cầm đồ. Người nầy đã chứng minh được một cách chắc chắn rằng hộp hoa ai kia là của hắn.
- Hỏng, bây giờ còn cái nầy nữa: có ai trông thấy Mikolai trong khi Koch với Pextriakov lên gác không, và liệu điều đó có thể chứng minh được gì không?
- Quả có thế, chẳng ai trông thấy hắn ta - Razumikhin bực tức đáp, - thế mới phiền chứ; ngay cả Koch và Pextriakov cũng không trông thấy hắn khi đi qua căn phòng đang sơn, tuy lời khai của họ bây giờ cũng không có ý nghĩa gì cho lắm nữa. Họ bảo là họ thấy cửa phòng mở, có lẽ có người đang làm việc ở trong ấy, nhưng khi đi qua họ không để ý và không nhớ rõ lúc bấy giờ có người hay không".
- Hừm. Như vậy chỉ có một sự kiện thanh minh cho Mikolai là hai đứa đấm đá nhau và cười ầm ĩ. Ta cứ cho đó là một bằng chứng vững vàng, nhưng… Bây giờ cậu cho mình nói: riêng cậu thì cậu cắt nghĩa việc ấy như thế nào? Cậu cắt nghĩa việc Mikolai bắt được đôi hoa tai ra sao, nếu quả hắn bắt được đúng như lời hắn khai?
- Cắt nghĩa à? Còn phải cắt nghĩa gì nữa: rõ quá đi rồi còn gì? Ít nhất là con đường cần theo để tiến hành điều tra đã rõ và đã được chứng minh, và chính là do cái hộp ấy. Hung thủ thật đã đánh rơi cái hộp ấy. Hắn ở trên phòng mụ già khi Koch và Pextriakov gõ cửa, và chốt cửa ở phía trong. Koch dại dột bỏ xuống dưới nhà; hung thủ nhẩy ra ngoài và cũng chạy xuống vì không có lối nào khác. Trên thang gác hắn suýt gặp Koch, Pextriakov và người gác cổng nên phải lánh vào gian phòng trống ngay khi Mitka và Mikolai vừa chạy đi, đứng nâp sau cánh cửa trong khi bọn Koch đi ngang, đợi cho tiếng bước chân của họ đi xa rồi ung dung đi xuống thang gác đúng vào lúc Mitka và Mikolai đã chạy ra phố, moi người đều đã giải tán và không còn ai đứng ở cổng nữa. Có thể người ta thấy hắn nhưng không để ý, có phải ít người qua lại đâu. Còn cái hộp là hắn đánh rơi từ trong túi ra khi đứng nấp sau cửa, và không biết là mình đánh rơi, vì còn mải chú ý đến chuyện khác. Cái hộp ấy chứng minh một, cách rõ ràng là hắn đứng ngay đấy. Đấy, bí quyết của vụ nầy là ở đấy cả. Tinh xảo lắm, cậu ạ, tinh xảo thật đấy. Tinh xáo quá nữa là khác.
- Nhưng tại sao, tại sao lại "quá"?
- Thì tại vì mọi việc đều được dàn xếp quá ổn thoả, các tình tiết ăn khớp với nhau quá sít sao, như trên sân khấu ấy.
Razumikhin toan cãi, nhưng vừa lúc ấy cánh cửa phòng vụt mở, và một nhân vật mới, lạ mặt đối với cả ba người đang ở trong phòng, bước vào.
Tài sản của hungcoidom

Trả Lời Với Trích Dẫn