Chương 66:
Có liên quan gì?
-Cậu nghĩ sao về những kiến giải vừa rồi? – lão Phúc lặp lại câu hỏi.
Cả bốn người có mặt trong căn phòng đều hướng mắt nhìn về phía gã thanh niên, phỏng chừng rất tò mò muốn biết gã đang nghĩ gì.
Thấy tám con mắt đổ dồn về phía mình, nhìn xoáy vào từng chi tiết trên cái mặt trắng của gã, thì Hắc Vân lại càng thêm bí bách.
-Thực ra thì…à…ùmh…cũng…
-Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, à ừ cái nỗi gì. Nhìn mặt thì ta đã thấy ngươi chẳng biết gì ngoài hai chữ “vô đạo”.
Liên Nguyệt thở hắt một tiếng, tỏ ra coi thường gã “bạch tạng”, nàng lại cúi xuống tiếp tục tìm hiểu cuốn sách đặt trên bàn.
Cái đầu đang rối như tơ vò, tìm mãi mà không ra được cuốn sách nào nhắc tới chuyện đạo lí, chợt nghe thấy mĩ nhân nhắc tới hai từ “Vô đạo” thì Hắc Vân mới nhớ ra. Câu nói vô tình đã vẽ đường cho hươu chạy, mở ra một lối thoát cho gã. Trước đây, Hắc Vân có được tiếp nhận một quyển bí phổ, hay nói đúng hơn là một quyển kinh thư được chép lại cách đây cả ngàn năm, quyển kinh thư viết về cuộc đời của Đạt Ma Sư Tổ từ lúc nhập đạo cho đến khi viên tịch. Trong đó ghi lại rất nhiều chuyện, giảng giải vô vàn các đạo lí về kinh phật, người chép lại kinh thư còn viết ở cuối sách rằng, trong này ẩn dấu Vô Ngã Tam Giới Cổ Đạo, chỉ cần tìm ra cách khai mở là có thể đứng ngoài tam giới, bất tử bất diệt.
Lúc Hắc Vân tiếp nhận những kiến thức trong kinh thư, thì lập tức không có chút cảm tình, cái gì mà đứng ngoài tam giới, bất tử với lại bất khuất, toàn viết về những chuyện tầm phào, nhảm nhí, chẳng thấy chỗ nào ghi về tu luyện võ công. Chính vì vậy, dù nằm sẵn trong đầu, nhưng chẳng bao giờ gã đả động tới, lâu dần thành quên mất, nhưng quên không có nghĩa là những gì gã tiếp nhận rời khỏi bộ nhớ.
“Tuy rằng trong quyển sách viết toàn về đạo phật, kinh thư, nhưng kiếm đạo với đạo phật chẳng phải cùng chung chữ đạo hay sao?… hắc hắc…đạo vốn cùng một gốc, chắc cũng na ná nhau cả thôi. Giờ mình vừa lấy mấy chuyện trong đó ra, rồi vừa xào lại thành vấn đề liên quan tới kiếm…hắc hắc…chẳng lẽ lại không qua mặt được ba lão già cùng cô em vợ xinh xắn kia sao!” – Nghĩ tới đây, “bạch tạng” liền hắng giọng, bắt đầu triển khai ý tưởng.
-Em nói đúng rồi, cái mà anh có trong đầu chỉ là hai chữ Vô Đạo mà thôi! – Nói xong Hắc Vân không quên nở một nụ cười bí hiểm.
Thật không ngờ cái tên mặt trắng này da mặt dày như bánh chưng vậy, mình dùng chữ vô đạo ý để nói rằng hắn chẳng biết cái tí gì về đạo lí thì đừng ngồi đây cho thêm dơ mặt, nào ngờ hắn còn công khai thừa nhận, chẳng biết tên này còn liêm sỉ, sĩ diện hay không. Liên Nguyệt càng nghĩ càng bực tức, ngay từ lúc bước vào nhìn thấy gã thì nàng đã không ưa rồi, cái tướng tá yếu ớt, non choẹt thực sự là làm cho nàng có ấn tượng chẳng mấy tốt đẹp. Đã thế ông nội lại còn “quáng gà” khen Hắc Vân cứ như thể thần thánh hạ phàm, nghe mà ngứa cả tai. Chẳng lẽ giờ trước mặt mọi người lại chửi cho tên mặt thớt kia một trận?
Ba người đàn ông khi nghe thấy Hắc Vân phán một câu lấp lửng, miệng lại nở một nụ cười chứa đầy thâm ý, thì không khỏi tò mò.
-Cậu nói rõ hơn được không, chẳng lẽ đạo trong kiếm chính là Vô Đạo? – Thiên Chung tiên sinh chống hai tay lên đùi, thận trọng hỏi.
-Hắn thì…
-Liên Nguyệt!
Mĩ nhân toan đáp cho tên mặt dày vài câu thì lập tức bị lão Phúc ngăn cản ngay tức khắc. Thấy ông không cho phép nói bừa, nàng khó chịu, lườm lườm nhìn Hắc Vân trong giây lát, “hứ” một tiếng, rồi lại chăm chăm nhìn vào cuốn sách. Thấy cháu gái an vị thì lão Phúc mới dám quay sang hối thúc.
-Cậu có thể diễn giải rõ hơn chứ, cậu Vân?
Thấy em vợ có phần ghét mình y như Liên Hoa thì gã thầm cười khổ - “Chẳng lẽ tình yêu chân chính lại gian nan, trắc trở thế này sao?”.
Tạm gác chuyện yêu đương qua một phía, Hắc Vân giọng nói có chút thần bí.
-Trước khi bàn tới đạo, cháu có vài chuyện muốn kể cho mọi người cùng nghe, sau khi nghe xong chắc sẽ rõ ràng hơn về đạo của cháu…Chẳng hay mọi người có biết tới Đạt Ma Sư Tổ hay không?
-Tôi cũng có biết sơ qua về phật pháp, theo như những gì tôi biết thì Đạt Ma Sư Tổ là tổ thứ 28 sau phật Thích Ca của dòng thiền Ấn Độ và là sơ tổ của Thiền Tông Trung Quốc thì phải! – Lão Phúc cũng khôn dám chắc chắn về câu trả lời của mình.
-Rất chính xác, nếu mọi người đã biết Đạt Ma Sư Tổ là ai thì câu chuyện cũng dễ hiểu hơn nhiều. Đây là một câu chuyện nhỏ trong cuộc đời của ông ta.
“Sau khi tới Trung Quốc, Đạt Ma nhận được lời mời của Vũ Đế đến Nam Kinh. Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi nhà sư Ấn Độ.
-Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?
Đạt Ma đáp.
-Không có công đức gì hết.
-Tại sao không công đức?
-Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.
-Vậy công đức chân thật là gì?
Đạt Ma đáp.
-Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian như xây chùa, chép kinh, độ tăng mà cầu được.
Vũ Đế lại hỏi.
-Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?
-Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh.
-Ai đang đối diện với trẫm đây?
-Tôi không biết.”
Đây là những lời khai thị về yếu tính phật pháp rất rõ ràng, nhưng Lương Vũ Đế đã không lĩnh hội được, cũng vì thế công cuộc truyền đạo khi đó đã không thành…Dám hỏi mọi người, vậy điều mà Đạt Ma muốn truyền tới Vũ Đế là gì? – Hắc Vân đảo đôi mắt hàm chứa ẩn ý, nhìn mọi người.
-Ngươi có biết không mà hỏi như tướng thế? – Liên Nguyệt thực là không chịu nổi cái bộ mặt “ngu còn tỏ ra nguy hiểm của tên mặt trắng”.
-Cháu còn muốn làm mất mặt ta tới khi nào đây? – lão Phúc gắt lên, trừng mắt nhìn qua.
Hắc Vân vẫn điềm nhiên, nở một nụ cười nhạt, rồi thở dài tỏ vẻ thất vọng.
-Là Vô Cầu Vô Ngã.
Gã coi như không nghe thấy câu nói của Liên Nguyệt, liền tiếp lời.
-Cháu lại tiếp tục hỏi mọi người một chuyện, mọi người chắc hẳn có đọc qua Tây Du Kí chứ ạ?
-Ngươi thôi hỏi nhảm đi, Một trong tứ đại kì thư của Trung Quốc, nhắc tới Tây Du Kí thì từ người già tới trẻ nhỏ ai mà chả biết! – mĩ nhân cất giọng khó chịu, dùng đôi mắt băng giá nhìn qua gã thanh niên mặt thớt.
-Vậy em có nhớ đoạn thầy trò Đường Tăng nhận phải kinh không chữ chứ? – Hắc Vân híp mắt nhìn qua cô em vợ.
-Có gì mà không nhớ?
-Tốt, vậy tại sao khi đó Phật Tổ lại truyền cho thầy trò Đường Tăng kinh không chữ? – Hắc Vân đưa tay vê vê cốc trà, miệng nở một nụ cười quái lạ.
-Vậy mà ngươi cũng phải hỏi sao? Vì A Nan, Ca Diếp đòi thầy trò Đường Tăng phải có lễ vật để đổi kinh, nhưng do không đòi được nên đã trao kinh giả. Sau đó phải bẩm báo lên Phật tổ mới lấy được chân kinh, tức là kinh có chữ chứ gì! – Liên Nguyệt chau mày, nói mà cứ như mắng vào mặt gã “bạch tạng”.
“Hắc hắc…biết trước cô em sẽ trả lời như vậy mà, để anh rể chỉ bảo cho vài chữ đây này!” – Hắc Vân khoan khoái nghĩ bụng, giờ tỏ chút hiểu biết, chắc chắn em vợ sẽ bái phục gã sát đất, ắt hẳn chẳng dám coi thường, có khi còn yêu quý gã cũng nên.
-Thực là cách nghĩ mơ hồ, thiếu chiều sâu! Em à, đó chỉ là bề ngoài mà thôi, ý nghĩa của nó thì chẳng phải như vậy đâu. Rất nhiều người cũng bảo rằng A nan và Ca diếp đòi ăn hối lộ. Thực ra, làm gì có chuyện vòi vĩnh của đút lót ở cửa Phật? Trong mười đại đệ tử của Phật Tổ, Ca diếp đứng hạng ba, A nan đứng thứ mười, đều đắc quả A la hán, dứt bỏ hết các lỗi lầm cùng vướng bận trần tục, không lẽ lại vướng lụy vì chút của cải vụn vặt của thế gian ư? Theo lịch sử Thiền tông Ấn Độ, Phật Thích Ca là Sơ tổ, Ca Diếp là Nhị tổ, A Nan là Tam tổ. Bậc giác ngộ đã lìa thế gian, thoát vòng sinh tử, làm sao có thể mở miệng vòi của lót tay đây? – Hắc Vân tiếp tục hướng ánh mắt thách thức qua phía cô em vợ.
Thấy Hắc Vân am hiểu về phật đạo, nói lưu loát như đọc diễn văn thì ba người không khỏi nể phục.
Liên Nguyệt thấy đối phương “nói có sách, mách có chứng” thì cứng họng, nàng không dám tin một tên thanh niên trông như công tử bột, tuổi đời ít ỏi lại tinh tường về phật giáo tới vậy.
-Cái này…vậy theo ngươi thì cớ làm sao? – Không cãi được nữa mĩ nhân đành quay qua hỏi vặn.
-Đơn giản thôi, bởi vì kinh không chữ mới chính là chân kinh, còn kinh có chữ thực chất chỉ là một đống giấy nhàu nát không hơn không kém. – Hắc Vân lắc đầu cười nói.
-Làm sao có chuyện đó được? Rõ ràng là ngươi đang bịa chuyện, nói nhảm! – mĩ nhân hoài nghi đáp lời.
“Cô em vợ này thực là quá cứng đầu, đã thế ta cho biết thế nào là lễ độ!” – “bạch tạng” nghĩ thầm.
-Khai sáng Phật giáo là Thích ca. Khi Thích ca đi tu, không có tụng kinh, không có lễ bái, động chuông, thắp nhang, đốt sớ. Thích ca đắc đạo, chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì Ngài vốn không có thầy. Không thầy, không kinh, Ngài chỉ nhờ giác ngộ được bản tâm của mình. Bằng con đường tham thiền mà Ngài giác ngộ. Kinh không chữ ám chỉ pháp môn thiền. Thiền hay nội giáo tâm truyền dành cho những bậc đại căn đại trí. Khi Phật truyền tâm ấn cho Nhị tổ Ca diếp, cũng không có văn tự. Sử sách chép rằng – “Ngày kia, Phật Tổ tại núi Linh Thứu, trước đông đảo đệ tử Phật bắt đầu thuyết pháp bằng cách im lặng và cầm một cành hoa đưa lên trước đại chúng. Mọi người bàng hoàng chẳng hiểu ý gì. Riêng đại đệ tử thứ ba là Ca diếp nhoẻn miệng cười. Phật thấy Ca diếp đã lãnh hội được, bèn truyền tâm ấn cho Ca diếp làm Nhị tổ Thiền tông với lời lẽ như sau. Ta có kho tàng con mắt của chánh pháp, tâm huyền diệu của niết bàn, cửa pháp vi diệu, thực tướng vô tướng, nay đem trao lại cho Đại Ca Diếp.”
Khi Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Quốc làm Sơ tổ cũng tóm tắt tôn chỉ lập giáo của Ngài như sau:
Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền.
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật. Tôn chỉ của Đạt ma có nghĩa là: Không thông qua chữ nghĩa, không sử dụng kinh điển giáo lý, nhắm thẳng vào nội tâm con người, hễ thấy bổn tánh thì thành Phật. Chính vì lẽ này nên mới có chuyện kinh có chữ và kinh không chữ, khi Đường Tăng nhận lấy kinh có chữ tức là đã không thể siêu độ cho chúng sinh, bởi lẽ nhân gian còn quá chuộng tham, sân, si, chắc chắn sẽ không giác ngộ được chân kinh.
Hắc Vân quả thực là mặt dày, vô sỉ, gã bê nguyên cả câu chuyện trong kinh thư ra mà nói, tuyệt đối không sót một từ. Gương mặt thì tỏ ra bình lặng như không, làm như chính gã là người trực tiếp giác ngộ ra, có điều nếu hỏi lại gã vừa nói gì chắc gã cũng bó tay chịu chết.
Bốn người thực tình thấy đối phương xổ nguyên một tràng giang đại hải, thì chỉ biết tròn mắt, đơ mặt mà lắng nghe. Ba người đàn ông thì đánh mắt nhìn nhau, gương mặt người nào cũng đặt một dấu hỏi chấm to tướng, còn mĩ nhân Liên Nguyệt thì càng lúc càng bất ngờ về kiến thức uyên thâm của gã thanh niên mặt thớt.
-Vậy…rốt cuộc chuyện này có liên quan gì tới đạo trong kiếm đạo đây? – Thất Phương tiên sinh trầm ngâm hỏi nhỏ.
|