Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 diễn ra và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước trong vòng hai tuần (từ 14 - 8 đến ngày 28-8-1945).
Thực tế, do đây là một cuộc cách mạng có quá trình chuẩn bị trong một thời gian dài, diễn ra trong một không gian rộng, trong bối cảnh tình hình trong nước vàquốc tế có nhiều biến động lớn. Cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm rất đặc biệt: Pháp chạy, Nhật hàng, chính phủ thân Nhật tê liệt, triều đình phong kiến Nhà Nguyễn bất lực, trong khi đó quân đồng minh chưa vào. Có thể nói đây là thời điểm vô cùng thuận lợi cho cuộc tổng khởi giành chính quyền trên phạm vi cả nước.Vì vậy các lực lượng vũ trang và quân dân Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã tận dụng thời cơ “cú một không hai” đưa lại để giành chính quyền, và chúng ta đã nhanh chóng bắt tay vào công cuộc chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Tháng 9 – 1939, chiến tranh Thế giới lần 2 nổ ra. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát - xit Đức chiếm đóng. Trước tình hình này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, đã nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ.Là người có tầm nhìn chiến lược, có dự cảm thiên tài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, thời cơ giành độc lập đã đến với vận mệnh dân tộc. Người quyết định trở về nước đầu năm 1941, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 5 – 1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì, đã khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. “Hội nghị còn xác định những vấn đề cụ thể của cuộc khởi nghĩa; dự kiến những điều kiện để khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi, trong đó có điều kiện phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương,..
Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm mục đích giành độc lập dân tộc. tại Hội nghị này, Đảng ta đã đề ra những chính sách và biện pháp cụ thể xây dựng chính trị, lực lượng vũ trang cơ sở quần chúng và căn cứ địa cách mạng, coi đó là điều kiện chủ yếu, quyết định tạo tiền đề cách mạng, để khi có thời cơ thuận lợi từ bên ngoài đưa lại, Tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 7-5- 1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa đổi khởi nghĩa, trong đó nhận định thời cơ thuận lợi cho nhấn dân ta giành chính quyền sắp tới,
“Song thời cơ không phải tự nú đến, một phần lớn do ta sửa soạn nú, thúc đẩy nú”.
Tháng 10-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi Thư kêu gọi đồng bào toàn quốc. Trong thư, Người chỉ rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng Minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”.
Ngày 9 - 3 -1945, phát- xit Nhật đảo chính thực dân Pháp, độc chiếm Việt Nam và Đông Dương. Ngày 12-3, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật –Phỏp bắn nhau và hành động của chúng ta. Về vấn đề thời cơ, Chỉ thị cho rằng, “Mặc dù tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa được chín muồi. ” Vì thế, phải phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao như biểu tình, thị uy võ trang, du kích, sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện. Chỉ thị còn xác định: ”ngay bây giờ phát động du kích, chiếm căn ứ địa, duy trì và mở rộng đấu tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng Minh một cách tích cực”. “Song dù sao ta không thể đem việc quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện…. nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc Tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”.
Chủ trương của Đảng đã được các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân quán triệt trong việc tổ chức các đội vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng căn cứ địa, lập khu giải phóng, thực hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở một số địa phương. Những kết quả đạt được trong quá trình vận động cách mạng, chuẩn bị lực lượng, đã chủ động góp phần tạo ra thời cơ, tình tiết cách mạng trực tiếp, chứ không do điều kiện khách quan quyết định.
Tháng 5-1945, phát - xit Đức đầu hàng Đồng Minh. Đầu tháng 8-1945, đạo quân chủ lực Quan Đông của Nhật, bị Liên Xô đánh cho tơi tả, khiến Nhật phải tính chuyện đầu hàng. Chớp thời cơ đó, ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng, họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh: Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính. Thống nhất - thống nhất về mọi phương tiện quân sự, chính trị, hành động, không bỏ lỡ cơ hội. Ngay trong đêm 13-8, Uỷ ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước
nhà!... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”!.
Trong giờ phút khẩn trương và quyết định này, khi thời cơ lớn đã xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm: “Lỳc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dóy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào trong hai ngày 16 đến 17-8-1945, sau khi tán thành và thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, cũng nhấn mạnh: ”Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập”. Nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải luôn khéo và kiên quyết. “Khụn khộo” để tránh những sự không lợi cho ta. ”Kiờn quyết để giành được nền độc lập. Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập”. Trong thư kêu gọi đồng bào sau khi Uỷ ban dân tộc giải phóng việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh đất nước đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức mình mà tự giải phóng cho ta …Chúng ta không thể chậm trễ”.
Phần nêu khái quát trên cho thấy, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của Đàng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và toàn dân ta đã diễn ra trong nhiều năm, luôn quán triệt phương châm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đây là một phương châm đúng đắn, sáng suốt, coi nội lực, nhân tố chủ quan là quyết định, hoàn toàn không dựa vào sự “ăn may” từ nhân tố khách quan (bên ngoài) đưa lại.
Thời điểm phát động Tổng khởi nghĩa mà Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí minh đưa ra là thời điểm có một không hai về nghệ thuật tạo dựng và đoán thời cơ ở cả nước và quốc tế.Trước tình hình các nước Đồng Minh như Mỹ, Anh và chính phủ lâm thời Pháp điều thừa hiểu, sớm, muộn Nhật cũng lật Pháp để độc chiếm Đông Dương, để phòng trừ hậu họa. Mặc dù biết như vậy, nhưng Mỹ và Anh đều không thể ngăn chặn được do không đủ khả năng đánh bại Nhật tại khu vực này vào thới điểm đầu năm 1945, và do còn có những mục tiêu khác quan trọng, cần kíp hơn.Vì vậy, sau này Nhật đảo chính Pháp, lực lượng Pháp ở Việt Nam hoàn toàn bị tê liệt, phần lớn bị bắt giam, một số ít chạy thoát sang Lào, Trung Quốc, số còn lại tổ chức “khỏng chiến” chống lại quân Nhật, song không có kết quả. Chính phủ Đờ Gụn chỉ đưa ra một bản tuyên bố ngày 14-3-1945, nhắc lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và tổ chức được vài đơn vị ở Xrilanca, Ấn Độ, Trung Quốc để chuẩn bị đưa sang Đông Dương. Cho đến mãi ngày 17-8, tức là khi cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam đã và đang diễn ra, Chính phủ Pháp mới có quyết định bổ nhiệm tướng Lơclộc làm Tổng chỉ huy đạo quân viễn chinh và Đô đốc Đỏcgiăngliơ làm Cao uỷ, để chuẩn bị sang Đông Dương. Thêm nữa, đến tận ngày 12-9-1945, nửa tháng sau ngày cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, đại hội đầu tiên của quân Pháp mới theo chân quân Anh tới sài Gòn. Thực chất, vào thời điểm cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra, thực dân Pháp không có vai trò đáng kể nào ở Việt Nam. Đối tượng của cuộc Tổng
khởi nghĩa là phát - xớt Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật hậu thuẫn. Điều này đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong tuyên ngôn độc lập: sự thực, nhân dân ta giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
Vì vậy có thể nói, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta được tiến hành và diễn ra trong bối cảnh thật đặc biệt. Điều cần nhấn mạnh là, bối cảnh quốc tế lúc đó không phải chỉ thuận lợi đối với riêng Việt Nam mà còn thuận lợi đối với một số nước trong khu vực Đông Á- Nam Á. Tuy nhiên, chỉ có cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam giành được thắng lợi nhanh chóng và triệt để. Điểm mấu chốt để lý giải vì sao nhân ta được thắng lợi là gì? Đó chính là do thực lực của chúng ta, do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc (nhân tố chủ quan) và sớm nắm bắt thời cơ khách quan thuận lợi để phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. Nếu không xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, không tập dượt cho các lực lượng này trong thực tế đấu tranh từ thấp đến cao, thì khi điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện, khi thời cơ tới, cũng không thể tận dụng được để tiến hành khởi nghĩa thắng lợi.