chương VII
Sự Khai Mở Nhãn Thông Cổ Sơ
phải xuất thần
Muốn nhận thức những rung động vi tế của cõi vô hình ta phải ngưng lưu ý đến các tiếng động và các ảnh hưởng chung quanh ta. Một âm điệu êm ái xa xăm không thể nhận được trong một thành phố ồn ào; trong một cuộc hòa tấu tưng bừng, chỉ có người tinh luyện mới theo dõi được tiếng đàn của một vĩ cầm; ánh sáng của tinh tú chỉ hiện ra trong khi mặt trời lặn. Cũng thế, cõi vô hình chỉ hiện ra khi nào tâm ta không còn vương vấn đến các rung động hồng trần.
Sự vô giác cần thiết đó chỉ có thể phát sinh khi nào ta đặt xác thân ta trong trạng thái xuất thần bằng cách làm tê liệt các giác quan xác thịt và bắt khối óc ngưng hoạt động. Sự vô giác này có thể đạt được bằng thủ pháp Mesmer [20], bằng thôi miên, bằng vài thứ thuốc như hơi mê hay bằng các quay tròn của một vài giáo sĩ Hồi giáo cho đến lúc quá chóng mặt, khối óc không còn thọ cảm được. Chừng đó, con người ở vào trạng thái xuất thần và cảm xúc được những rung động của cõi vô hình.
tập thở
Phương pháp dùng ở phương Ðông và cũng được phổ thông ở Tây phương là tập thở. Người thở có thể nằm hoặc ngồi trong những tư thế khó khăn. Thường thì họ hít hơi vào, giữ một thời gian rồi thở ra. Tuy nhiên, cách thức này thay đổi nhiều. Có người hít vào một lỗ mũi rồi thở ra bằng lỗ kia. Có người tưởng tượng hơi đi qua vài bộ phận của cơ thể. Thật là lạ mà thấy nhiều cách thở như vậy.
mục đích cỦA những cách thở
Ðặt ra những cách thức thở này, người Ấn Ðộ thời xưa nhằm các mục tiêu: a) trấn an tư tưởng, b) tạo trạng thái vô giác cho khối óc, c) kích động một vài luồng sinh lực trong thân thể.
a) Từ xưa, người ta lưu ý thấy rằng trong khi suy nghĩ hay trầm tư thì hơi thở trở nên chậm và có khi ngưng hẳn. Vì đó, phát sinh ra lý thuyết này: khi con người ngưng thở trong một thời gian nào đó, tư tưởng sẽ tập trung và sáng sủa. Việc này đúng tới một mức nào thôi vì trí tuệ và xác thân liên đới với nhau và chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
b) Các tu sĩ Ấn Ðộ luyện tập lâu ngày có thể giữ hơi thở rất lâu. Nhưng trong lúc đó, máu vẫn lưu thông và chứa chất oxyt carbon nhiều cho đến đỗi khối óc bị nhiễm độc, do đó có trạng thái xuất thần.
c) Với sự luyện tập, khi hơi thở trở nên đều đặn nhịp nhàng thì nó kích động các luồng sinh lực luôn luôn lưu chuyển trong thể phách [21] nhất là ta tưởng tượng đưa hơi thở đến bộ phận này hay bộ phận khác trong thân thể. Lẽ dĩ nhiên là hơi thở không đi đâu cả mà chính là các luồng sinh lực nói trên. Các luồng này bắt buộc phải theo những con đường mới và kích thích một ít trung tâm thần kinh nào đó để chúng có thể truyền đạt những rung động của cõi vô hình.
Kết quả cách tập thở
Khổ nỗi khi các trung tâm nói trên hoạt động trở lại thì các rung động vô hình tràn vào giác thức, dưới hình thức hiện tượng hay âm thanh, mà con người thì không đủ khả năng kiểm soát để ngăn ngừa chúng. Các hiện tượng hay âm thanh này đẹp đẽ thì cũng chẳng đến đỗi nào nhưng thường thì chúng rất xấu xa. Vì vậy, y bắt buộc phải chứng kiến những cảnh tượng não lòng nhứt và nghe những lời xúi giục đê tiện nhứt, vì y chỉ liên lạc được với các tầng thấp dẫy đầy ảnh hưởng tồi tệ của cõi vô hình.
Khi một người chú hết sức lực vào sự tinh luyện các giác quan xác thịt để nhận các rung động vi tế của cõi vô hình, người đâu có dè rằng mình sẽ là nạn nhân chứ không phải là chủ nhân các quyền lực tạo nên, trừ phi tâm thức y được tinh luyện. Sự mở mang tinh thần luôn luôn phải đi đôi với sự mở mang thể xác, nếu không, con người sẽ bị lôi cuốn do các sinh lực được khai mở mà y không sao kiểm soát được.
Lẽ dĩ nhiên là có những cách tập thở rất tốt (như cách thường dạy ở vận động trường) và rất hạp với sức khoẻ, nhưng tác động và mục đích của nó khác với lối thở mà chúng tôi vừa nói trên. Cách tập thở này không đem lại nhãn thông cổ sơ cũng không làm hại phổi. Cách tập thở đúng phép rất quí vì nó bồi dưỡng sức khoẻ và tránh cho ta khỏi bị cảm vì thời tiết.
sự tập trung vào tùng thái dương [22]
Một cách khác để khai mở sự năng linh là tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương. Về trung tâm này, người ta đã gán cho nhiều tên như óc thứ hai và nhiều việc vô lý khác liên hệ đến sự thức tỉnh của nó.
Khi một người tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương với ý muốn trở nên linh hoạt, y sẽ chuyển đến nó một luồng sinh lực. Vì vậy, trung tâm cảm giác tương ứng với nó đôi khi được kích thích và khai mở nhãn thông cổ sơ khiến cho y có thể thu nhận một ít cảm xúc mơ hồ của cõi vô hình.
Nhưng thường thì luồng sinh lực gây sự xung huyết cho tùng Thái Dương. Tùng này rất quan trọng vì nó kiểm soát hay liên hệ đến bộ tiêu hóa. Nếu nó sưng lên, sự tiêu hóa sẽ bị ngưng trệ, cho đến thận cũng bị đau luôn. Hơn nữa, những người tập trung tư tưởng vào tùng Thái Dương cũng chú ý luôn đến các cơ quan khác vì y không thông hiểu vị trí các bộ phận của thân thể con người, do đó trọn bộ tiêu hóa có thể bị đau.
Vì hệ thần kinh giao cảm thuộc phạm vi tiềm thức nên chúng ta quấy rối sự điều hành của nó, chúng ta có thể gây những bệnh thần kinh trầm trọng dưới hình thức một sự buồn rầu hay một sự chán nản trầm trọng. Nếu sự luyện tập tăng gia, nó có thể gây tê liệt cho một bộ phận của cơ thể.
sự dùng viên thỦY tinh
Một phương pháp nữa là chăm chú nhìn một viên thủy tinh, đầu mũi hay phông đen. Phương pháp này nhằm hai mục đich: một là đặt khối óc ở một tình trạng gần như tê liệt để tạo sự xuất thần, hai là kích động trung tâm cảm xúc liên hệ ở thể vía để nó có thể làm một giác quan tạm cho thể vía.
Khi chúng ta chú nhìn một điểm trắng mà không nháy mắt, các tế bào võng mạc rất mệt và sau cùng, võng mạc trở nên vô giác nên ta không còn cảm thấy điểm trắng nữa. Nếu chúng ta tập luyện lâu ngày, sự mệt mõi sẽ tăng gia và dây thần kinh thị giác cũng trở nên vô giác. Tiếp theo, miền thị giác trong óc cũng bị tê liệt. Do đó, chúng ta sẽ tự thôi miên mình và trong trạng thái đó, khi khối óc trở nên vô giác thì hiện tượng này nọ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, thường thì không có một kết quả nào.
Cách luyện tập này nhằm kích thích các trung tâm tương ứng với mắt để chúng có thể nhận các rung động tế nhị và chuyển sang khối óc. Các hiện tượng thấy bằng cách này không được xác thực vì cơ quan truyền đạt chúng không được dùng đúng chỗ.
Dù sao, chúng ta cần phải tránh cách luyện tập này vì sự tê liệt khối óc do nó gây ra, có thể trở nên vĩnh viễn. Hơn nữa, vì mắt cố gắng quá sức nên nó yếu đi và có thể trở nên mù, nếu không loạn thị.
công phu vô ích
Như đã trình bày, có nhiều cách luyện tập gây tê liệt cho khối óc để tạo trạng thái xuất thần. Khi xuất thần cũng như trong khi ngủ, con người xuất khỏi xác thân để sang thể vía và trong thể này, y có thể ý thức được ít nhiều. Nếu y hoàn toàn sáng suốt và linh hoạt ở cõi vô hình, y có thể biết nhiều việc quan trọng và giữ ấn tượng ở khối óc để khi tỉnh dậy, y nhớ được tất cả.
Nhưng trường hợp này ít khi xảy ra vì chúng chỉ nghĩ đến sự tập luyện xác thân mà không lo trau luyện tinh thần. Vì vậy, khi xuất thần thì con người trôi giạt phất phơ ở cõi vô hình mà không ý thức được gì cả nên khi tỉnh, y không biết chi thêm.
Như vậy, tại sao nhiều người luyện tập rất công phu để rồi lại chỉ có cái nhãn thông cổ sơ, không một ích lợi nào ? Sở dĩ họ luyện tập như thế vì họ bị gạt bởi những quảng cáo hấp dẫn, những lời hứa hão huyền, nhưng nếu họ biết được luyện tập như vậy chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn gây nhiều nguy hại và đau khổ thì không một ai dám liều lĩnh nữa.
--------------------------------------------------------------------------------
đầu trang cuối trang chú thích mục lục chương 1 2 3 4 5 6 7 8
chương VIII
Sự Phát Triển Nhãn Thông Siêu Ðẳng
con đường của nhà huyền môn
Những phương pháp chúng tôi trình bày ở phần trên nhằm mục đích luyện tập thể xác để cho nó đáp ứng lại các rung động của cõi vô hình. Nhưng chúng ta đã thấy, các sự luyện tập ấy nguy hiểm và vô hiệu. Ðiều nguy hại hơn là hành giả không lưu ý trau luyện tánh tình và trí tuệ. Y có thể trở nên năng linh ít nhiều, nhưng trên phương diện con người, y không hơn lúc trước. Trái lại, y có thể sút kém hơn vì không thể chủ trị được những cám dỗ mới phát sinh.
Nhà huyền môn thấy xa hơn. Người nhận định rằng "con đường dài là con đường dẫn mau nhứt đến mục đich". Người nhất định thành công bất kỳ với giá nào, và sự thành công mà người cố tìm không phải chỉ hạn chế trong một đời ngắn ngủi mà phải dài suốt thời gian luân hồi ở cõi trần.
Vì đã học đạo, người ý thức được bản chất thiêng liêng của mình và mục đích cao cả của sự tiến hóa. Vì ý thức rõ ràng như vậy, người không chạy theo những dục vọng riêng tư, ích kỷ và quyết dùng tất cả khả năng của mình để hợp tác với những động lực đang giúp nhân loại tiến lên đỉnh núi huy hoàng.
Khi đạt mục đích đó, nhân loại chẳng những phải có sự can đảm tinh thần mà phải tự trau giồi như thế nào để tình cảm được tốt đẹp, trí tuệ được mở mang hầu thực hiện sự mẫn cảm tâm linh. Một người tận lực trau giồi các đức hạnh đó ở kẻ khác và ở mình và nếm được cái lạc thú quên hẳn sự tiến hóa riêng của mình trong công việc phụng sự, người đó chắc chắn nay mai sẽ được nhãn thông siêu đẳng. Là vì nhân loại ngày mai sẽ năng linh và ai cố gắng trau luyện tánh tình sẽ được chuyển biến theo hình ảnh của con người tương lai.
tiẾn trước
Ðể cố gắng trau giồi như vậy, nhà huyền môn tiến mau hơn là được dự định. Trong nhiều thế kỷ nữa, dòng tiến hóa chậm chạp sẽ đưa nhân loại đến một thời kỳ mà khối óc sẽ phát triển và mẫn cảm đến mức có thể linh hoạt trong một sân trường rung động lớn hơn nay rất nhiều. Ðến giai đoạn đó, con người sẽ có nhãn thông và ý thức rõ ràng cõi vô hình đang bao bọc y. Ngay bây giờ, đã có một ít trẻ con được nhãn thông đến lối sáu bảy tuổi và sau đó lại mất đi vì cha mẹ không lưu ý phát triển và cũng do giáo hóa khiếm khuyết.
Cái năng khiếu nhãn thông này sẽ đạt được không phải do các sự tập luyện thể xác nói ở chương trước mà do sự phát triển bình thường của hệ thần kinh một ngày càng trở nên tinh vi nhờ năng lực của tình cảm, trí tuệ và ý chí được tinh luyện. Sự phát triển tâm linh sẽ gia tăng khả năng của khối óc, và khi nhân loại trải qua nhiều ngàn năm, rèn luyện được cho mình những đức hạnh tốt đẹp thì khối óc đương nhiên sẽ trở nên mẫn cảm hơn.
Chúng ta có thể tiến nhọc nhằn với đa số nhân loại cho đến một kiếp kia chúng ta sẽ có một hệ thần kinh tinh vi và nhãn thông như tất cả mọi người. Nhưng chúng ta cũng có thể, ngay bây giờ, cố gắng tiến trước nhân loại bằng cách đào luyện ở kiếp này những đức hạnh của con người ngày mai.
Sự tiến hóa này là một vấn đề tăng trưởng tâm linh, chứ không phải là một vấn đề thời gian. Nếu chúng ta quyết tiến và vượt khỏi các bạn đồng hành – họ đi rất chậm chạp – chắc chắn nhãn thông siêu đẳng sẽ đến với chúng ta. Chính vì ta thiếu can đảm và bền chí, ta mới không thành công.
trí tuệ xây dựng
Ðịnh luật căn bản chi phối sự khai mở nhãn thông siêu đẳng có thể tóm tắt trong câu này: "Sự phát triển thể xác [23] thoả mãn các nhu cầu tâm thức". Lý do khiến chúng ta chưa có nhãn thông ngay bây giờ là tâm thức của chúng ta chỉ mở mang có một phần và không đồng đều nên không kích thích được khối óc và thần kinh hệ. Vả lai, phần đông không sử dụng khả năng trí thức của mình và cũng không tìm cách mở mang nó.
Cho đến nay, chúng ta chưa ý thức được khả năng hùng hậu của trí tuệ trong việc tinh luyện cơ cấu thần kinh. Lý do có lẽ tại tư tưởng của chúng ta lờ mờ, hỗn độn nên không tạo được một ảnh hưởng đáng kể đối với khối óc vật chất. Nhưng nếu chúng ta có thể quan sát tác động của một trí tuệ tinh luyện, chúng ta sẽ thấy những dòng năng lực tuôn xuống khối óc và nhận thức được sức cải biến của tư tưởng đối với khối óc. Nếu chúng ta tìm hiểu các tế bào của khối óc theo sách sinh lý học, chúng ta biết mỗi tế bào tủa ra vô số dây thần kinh nhỏ chằng chịt như một màn lưới ở chất xám của não bộ. Các sợi dây thần kinh này có tác dụng như những sợi dây điện được cách điện và khi các mối liên giao giữa các tế bào gia tăng thì khả năng suy tư của khối óc cũng gia tăng.
Khi các luồng năng lực phát sinh do một trí tuệ linh động, tuôn vào khối óc, các tế bào não bộ được kích động và tủa thêm dây thần kinh, nhờ đó, khả năng suy tư của khối óc cũng tăng thêm. (Vấn đề tế bào có gia tăng không thì chưa được biết rõ nhưng có thể là gia tăng). Như vậy, trí tuệ linh hoạt, khả năng của khối óc sẽ mở mang, nhờ đó, chúng ta tiến lần đến sự nhãn thông siêu đẳng.
Sách sinh lý học còn dạy thêm rằng mỗi quan năng trí thức đều liên hệ đến một nhóm tế bào xám tụ tập chung một "miền" ở khối óc, và nhờ nhóm tế bào đó mà quan năng mới phát hiện. Ví dụ, khi chúng ta biết hai thứ tiếng thì các nhóm tế bào ở óc dành cho quan năng đọc viết và nói tăng gấp đôi, trước là ba, nay là sáu. Về quan năng khác như hát, đàn, vẽ, tính, v.v . . . cũng thế. Khi ta rèn luyện một quan năng, một số tế bào của khối óc chịu ảnh hưởng và được chuyển về quan năng này. Sự học tập một đề tài mới luôn luôn cải biến một số tế bào của khối óc. Nếu không có cố gắng trí thức, chúng ta không tạo được quan năng mới, do đó, các tế bào xám của khối óc cũng không thay đổi.
Như vậy, trí tuệ có một sức cấu tạo kiến hiệu. Khi ta mở mang tâm thức, khối óc ta cũng được tinh luyện theo.
luật lẶp lại
Sự tập luyện của nhà huyền môn rất khoa học và rất hữu hiệu nếu hành giả siêng cần bền chí. Nó được căn cứ trên định luật này: một hành vi được lặp lại thường sẽ trở thành một thói quen, một tư tưởng được nghĩ đến mãi sẽ trở nên một đặc tính. Ðó là luật lặp lại.
Các Thánh kinh xưa dạy: con người suy tưởng điều chi thì trở thành điều đó. Giáo lý này cũng được các triết gia đời nay xác nhận. Ðịa vị cao sang, áo quần lòe loẹt học vấn uyên thâm, các điều này không đào luyện chúng ta thành người. Cái nó đào tạo tánh tình ta là tư tưởng và tình cảm của ta.
Nhà huyền môn không thuộc hạng người chỉ bằng lòng đọc một giáo lý và gật đầu tán thưởng, mà cố áp dụng các điều hiểu biết vào đời sống mình. Ðặc tính của một người nhất quyết tiến là thế: những điều kẻ khác chỉ đọc qua, người đem ra thực hành.
Nhà huyền môn sử dụng luật lặp lại một cách khoa học, trong công việc tinh luyện thể xác, tình cảm và trí tuệ. Chúng ta sẽ xem qua một ít chi tiết về sự tinh luyện này để biết cách sử dụng luật đó.
|